intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn nạn ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp giảm ô nhiễm môi trường bền vững

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

17
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Vấn nạn ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp giảm ô nhiễm môi trường bền vững" trình bày về ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính, đó là: Ô nhiễm đất; Ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí.. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép đã và đang đe dọa trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn nạn ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp giảm ô nhiễm môi trường bền vững

  1. VẤN NẠN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP GIẢM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BỀN VỮNG. Dương Đức Tâm*1 TÓM TẮT: Hiện nay, vấn đề ô nhiẽm môi trường đang là chủ đề nóng trên các mặt báo và nhận được rất nhiều sự quan tâm của người dân. Trong đó, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm nguồn nước, không khí ở Việt nam đã và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp đã làm cho ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và cuộc sống của người dân. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính, đó là: Ô nhiễm đất; Ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí.. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép đã và đang đe doạ trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Từ khóa: ô nhiễm môi trường; thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam; nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường; giải pháp khắc phục. 1. CHỨC NĂNG CỦA MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CON NGƯỜI: Trước hết, ta cần phải hiểu thế nào là môi trường và ô nhiễm môi trường. Môi trường thực chất là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. còn ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, đồng thời các tính chất vật lý, hóa học, sinh học của môi trường bị thay đổi, gây tác hại tới đời sống của con người và các sinh vật khác. Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi một người  đều cần một không gian nhất định để phục vụ cho các hoạt động sống như: nhà ở, nơi để sản xuất...Với chức năng này, đòi hỏi môi trường phải có một phạm vi không gian thích hợp cho mỗi con người. Không gian này lại đòi hỏi phải đạt đủ những tiêu chuẩn nhất định về các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, cảnh quan và xã hội. Với ý nghĩa đó, môi truòng có các chức năng sau: - Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của con người:  Nhu cầu của con người về các nguồn tài nguyên không ngừng tăng lên về cả số lượng, chất lượng và mức độ phức tạp theo trình độ phát triển của xã hội. Chức năng này của môi trường còn gọi là nhóm chức năng sản xuất tự nhiên, gồm: Rừng tự nhiên; Các thủy vực; Động, thực vật cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguồn gen quý, hiếm; Không khí, nhiệt độ, năng lượng mặt trời, gió, nước; Các loại quặng, dầu mỏ... - Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra. * Khoa Môi Trường và Đô Thị, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam.
  2. 1136 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Trong quá trình sống, con người luôn đào thải ra các chất thải vào môi trường. Tại đây các chất thải dưới tác động của vi sinh vật và các yếu tố môi trường khác sẽ bị phân huỷ, biến đổi từ phức tạp thành đơn giản và tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Sự gia tăng dân số thế giới nhanh chóng, quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá làm số lượng chất thải tăng lên không ngừng dẫn đến chức năng này nhiều nơi, nhiều chổ trở nên quá tải, gây ô nhiễm môi trường. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng đệm, hoặc thành phần chất thải có nhiều chất độc, vi sinh vật gặp nhiều khó khăn trong quá trình phân huỷ thì chất lượng môi trường sẽ giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm. - Chức năng lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Môi trường trái đất được xem là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Bởi vì chính môi trường trái đất là nơi: Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử trái đất, lịch sử tiến hoá của vật chất và sinh vật, lịch sử xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người; Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tín hiệu, báo động sớm các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên trái đất, như: Phản ứng sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiện tượng tai biến tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi lửa.; Cung cấp và lưu giữ cho con người các nguồn gen, các loài động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mỹ để thưởng ngoạn, tôn giáo và văn hoá khác.  - Bảo vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài.  Các thành phần trong môi trường còn có vai trò trong việc bảo vệ cho đời sống của con người và sinh vật tránh khỏi những tác động từ bên ngoài như: tầng Ozon trong khí quyển có nhiệm vụ hấp thụ và phản xạ trở lại các tia cực tím từ năng lượng mặt trời. 2. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: 2.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay: Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%, như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nông dân. Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công nghiệp đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp... Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người dân đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi bùng phát thành các xung đột xã hội gay gắt.  Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên
  3. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1137 liệu sử dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong quá trình sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống, đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Tây Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận, gây phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột xã hội gay gắt. Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều trực tiếp xả ra môi trường mà không có bất kỳ một biện pháp xử lý nào ngoài việc vận chuyển đến bãi chôn lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày thì Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Theo một kết quả nghiên cứu mới nhất của Ngân hàng thế giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí thì Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Châu Á về mức độ ô nhiễm bụi. Cũng theo đánh giá mới đây của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, với 59 điểm trong bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường, Việt Nam đứng ở vị trí 85/163 các nước được xếp hạng. Các nước khác trong khu vực như Philippines đạt 66 điểm, Thái Lan 62 điểm, Lào 60 điểm, Trung Quốc 49 điểm, Indonesia 45 điểm,... Còn theo kết quả nghiên cứu khác vừa qua tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp và ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe. Mới đây, hai trung tâm nghiên cứu môi trường thuộc Đại học Yale và Columbia của Mỹ thực hiện báo cáo thường niên khảo sát ở 132 quốc gia. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Về ảnh hưởng của chất lượng không khí, Việt Nam đứng thứ 123/132 Quốc gia khảo sát; Về ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe đứng vị trí 77; Về chất lượng nước Việt Nam được xếp hạng 80. Tính theo chỉ số chung EPI, Việt Nam xếp thứ 79. Đó là những đánh giá chung, còn nếu xem xét cụ thể trên từng khía cạnh thì sẽ càng thấy rõ hơn bức tranh chung của môi trường Việt Nam hiện nay. 2.2. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam   Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan làm cho môi trường bị ô nhiễm. Trong bài viết này tác giả đề cập đến một số nguyên nhân cơ bản sau đây. - Ý thức của người dân: Nguyên nhân đầu tiên là do sự thiếu ý thức nghiêm trọng và thờ ơ của người dân. Nhiều người cho rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số người lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Nhà nước, của các cấp chính quyền...Trong khi số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì cũng “chẳng ăn thua”, và ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng đến mình nhiều và chính những suy nghĩ này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục cũng như tư duy bảo vệ môi trường của các thế hệ trẻ về sau. 
  4. 1138 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION - Các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, quan liêu, thiếu chặt chẽ: Nguyên nhân thứ hai gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi trường đáng kể. Mặt khác, hệ thống xử lý nước thải tại một số khu công nghiệp chưa hoạt động hiệu quả, nước thải sinh hoạt bị ô nhiễm được thải liên tục ra Sông, Hồ gây nhiễm độc nguồn nước tự nhiên. Bên cạnh đó, chính sự quan liêu, thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý bảo vệ môi trường của nhà nước cũng đang tiếp tay cho hành vi phá hoại môi trường. - Những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng: Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường. - Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh: Việc giao quyền pháp lý cho các tổ chức bảo vệ môi trường còn hạn chế, từ đó đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; những đơn vị gây ô nhiễm chưa được xử lý dứt điểm, việc đóng cửa và đình chỉ hoạt động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết nên đạt được còn thấp so với yêu cầu. - Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường: Việc thiếu quan tâm của các cấp chính quyền trong công tác bảo vệ môi trường đã dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao. - Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế: Việc tuyên truyền, giáo dục ý thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường trong xã hội còn chưa được coi trọng một cách đúng mức, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường. - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn: Do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi trường cũng như các điều kiện trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm ra môi trường. - Rừng tiếp tục bị thu hẹp
  5. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1139 Trước năm 1945, nước ta có 14 triệu ha rừng, chiếm hơn 42% diện tích tự nhiên của cả nước, năm 1975 diện tích rừng chỉ còn 9,5 triệu ha (chiếm 29%), đến nay chỉ còn khoảng 6,5 triệu ha (tương đương 19,7%). Độ che phủ của rừng nước ta đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng bị hạ xuống mức quá thấp. Trên thực tế chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên sinh. - Đa dạng sinh học bị ảnh hưởng nghiêm trọng Thế giới thừa nhận Việt Nam là một trong những nước có tính đa dạng sinh học vào nhóm cao nhất thế giới. Với các điều tra đã công bố, Việt Nam có 21.000 loài động vật, 16.000 loài thực vật, bao gồm nhiều loài đặc hữu, quý hiếm. Tổ chức vi sinh vật học châu Á thừa nhận Việt Nam có không ít loài vi sinh vật mới đối với thế giới. Thế nhưng, trong 4 thập kỷ qua, theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim bị tuyệt chủng và 120 loài thú bị diệt vong. Trong khi đó, hơn 100 loài sinh vật ngoại lai đang hiện diện tại nước ta cũng là mối nguy lớn cho môi trường sinh thái, như: ốc bươu vàng, cây mai dương, bọ cánh cứng hại dừa,... - Ô nhiễm sông ngòi Với những dòng sông ở các thành phố lớn như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng bị ô nhiễm nặng nề là điều dễ dàng nhận thấy qua thực tế, cũng như qua sự phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, sông ở nhiều vùng nông thôn cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề do rác thải sinh hoạt, rác thải làng nghề, rác thải nông nghiệp và rác thải từ các khu công nghiệp vẫn đang từng ngày, từng giờ đổ xuống. - Bãi rác công nghệ và chất thải Hiện các doanh nghiệp ở Việt Nam là chủ sở hữu của hơn một nghìn con tàu biển trọng tải lớn, cũ nát. Hầu hết các Cảng biển trên thế giới đều không cho phép loại tàu này vào, vì nó quá cũ, gây ô nhiễm môi trường và không bảo đảm an toàn hàng hải. Thế nhưng, hơn một nghìn con tàu cũ nát đó vẫn đang được neo đậu vật vờ ở các tuyến sông, cửa biển Việt nam để chờ tháo dỡ thành phế liệu mà việc phá dỡ loại tàu biển cũ này sẽ thải ra rác thải nguy hại làm ô nhiễm môi trường sống. - Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp Báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, nguồn chất thải vào môi trường từ trồng trọt và chăn nuôi đang có xu hướng gia tăng, trong khi việc kiểm soát chưa đạt hiệu quả cao. Trong đó, lo ngại nhất là chất thải từ chăn nuôi. Hiện cả nước có 16.700 trang trại chăn nuôi, tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng (45%) và Đông Nam Bộ (13%), với tổng đàn gia súc 37,8 triệu con và trên 214 triệu con gia cầm. Theo tính toán của Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), lượng phân thải của bò khoảng 10 - 15 kg/con/ngày, trâu là 15 - 20 kg/ con/ngày, lợn là 2,5 - 3,5 kg/con/ngày và gia cầm là 90 gr/con/ngày. Như vậy, tính ra tổng khối lượng chất thải trong chăn nuôi của nước ta hiện khoảng hơn 73 triệu tấn/năm. - Ô nhiễm từ các làng nghề Một khảo sát mới đây của Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) và Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy, 100% mẫu nước thải ở các làng nghề đều cho thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép. Riêng Hà Nội, khảo sát tại 40 xã cho kết quả khoảng 60% số xã bị ô nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất. Ở các làng tái chế kim loại, khí độc không qua xử lý đã thải trực tiếp vào không khí như ở làng nghề tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên), nồng độ chì vượt quá 2.600 lần tiêu chuẩn cho phép. Nghề thuộc da, làm miến dong ở Hà Tây cũng thường xuyên thải ra các chất như bột, da, mỡ làm cho nước nhanh bị hôi thối, ô nhiễm nhiều dòng sông chảy qua làng nghề. - Khai thác khoáng sản Cùng với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu, nguồn tài nguyên khoáng sản dưới lòng đất của nước ta đã bị khai thác khá mạnh. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, từ năm 2009 - 2011, mỗi năm Việt Nam
  6. 1140 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION xuất khẩu 2,1 - 2,6 triệu tấn khoáng sản các loại (không kể than, dầu thô) với điểm đến chủ yếu là Trung Quốc, nhưng chỉ mang lại giá trị 130 - 230 triệu USD. Riêng năm 2012, lượng khoáng sản xuất khẩu vẫn gần 800.000 tấn thông qua đường chính ngạch. Nếu cộng cả số xuất lậu thì số lượng xuất khẩu còn lớn hơn nữa (vào năm 2008, chỉ riêng xuất lậu quặng ti-tan ước tính đã lên đến 200.000 tấn). Qua điều tra, cứ 4.000 người dân Quảng Ninh có 2.500 người mắc bệnh, chủ yếu là mắc bệnh bụi phổi, hen phế quản, tai mũi họng (80%). Kết quả quan trắc của các cơ quan chuyên môn cho thấy nồng độ bụi ở khu vực Cẩm Phả vượt từ 3 - 4 lần tiêu chuẩn cho phép, - Ô nhiễm không khí Việt Nam cũng đang bị coi là nước có ô nhiễm không khí cao tới mức báo động. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven đường giao thông, trong đó chủ yếu là khí CO tăng 1,44 lần và bụi PM10 (tức bụi có kích thước bé hơn 10μ) tăng 1,07 lần. Kênh rạch ở khu vực nội thành bị ô nhiễm hữu cơ và vi sinh ở mức độ cao. Phần lớn nước thải sinh hoạt chỉ mới được xử lý sơ bộ qua bể tự hoại gia đình. Nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải, hoặc nếu có trang bị thì không vận hành thường xuyên. 3. GIẢI PHÁP GIẢM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG: Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình CHN, HĐH hiện nay là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và của mọi công dân. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, điển hình là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị; Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường... Các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp quy này đi vào cuộc sống đã bước đầu tạo ra một số chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường, song vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây: Một là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường: Pháp luật về bảo vệ môi trường mặc dù đã được bổ sung, sửa đổi nhiều lần, song chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình sự) chưa thật sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường là cần thiết, mang tính thời sự cấp bách của cả hệ thống chính trị và xã hội. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nội bộ phù hợp với các quy định mới của pháp luật và điều kiện thực tế, ổn định và tăng cường hệ thống quản lý môi trường các cấp, phát triển lực lượng làm công tác môi trường chuyên sâu trong DN, đủ năng lực đảm bảo nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới, tổ chức giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người. Hai là: Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường: Việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
  7. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1141 Ba là: Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao: Thực hiện tốt công tác quy hoạch, phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó. Bốn là: Chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư: Quan tâm và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động của môi trường đối với các dự án đầu tư trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó. Năm là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội: Tiếp tục phổ biến, tuyên truyền kết hợp với tăng cường kiểm tra, giám sát để nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường chung, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt nhằm tạo chuyển biến căn bản về ý thức, trách nhiệm và sự chủ động trong công tác bảo vệ môi trường. Như vậy, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái để giúp cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội. Sáu là: Quan tâm đầu tư nghiên cứu ứng dụng các công nghệ bảo vệ môi trường, tăng cường hợp tác quốc tế để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Phải quan tâm hơn nữa trong đầu tư nghiên cứu, nắm bắt và áp dụng các công nghệ kỹ thuật, bảo vệ môi trường tiên tiến phù hợp với điều kiện của DN. Đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng hiện đại, thân thiện môi trường và tiết kiệm tài nguyên. Huy động các nguồn vốn cho công tác bảo vệ môi trường, chi tối thiểu 1,0 – 1,5% doanh thu sản xuất cho công tác bảo vệ môi trường trực tiếp, và từ 1 - 1,5% cho Qũy môi trường tập trung của DN để đầu tư các công trình môi trường, từ 0,5-1% cho công việc bảo vệ môi trường thường xuyên); Huy động vốn từ hợp tác quốc tế, xã hội hóa, vốn đầu tư khác để di dời cơ sở sản xuất, di dời dân cư, đầu tư công nghệ… Bẩy là: các giải pháp khác: - Sử dụng các chất liệu từ thiên nhiên: Để giảm thiểu tác động của môi trường sống đến sức khỏe con người thì mọi người dân phải có ý thức bảo vệ môi trường, như: Tăng cường sử dụng các loại hóa chất có nguồn gốc từ thiên nhiên thay vì sử dụng các hóa chất độc hại để bảo vệ cây trồng và vật nuôi. Sự lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, chất khích thích, tăng trọng trong chăn nuôi sẽ là nguồn gốc, nguy cơ gây ra các bệnh cho người sử dụng, như: Ung thư; Parkinson và một số bệnh mãn tính khác. - Sử dụng năng lượng sạch: Tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng từ thiên nhiên, như: Năng lượng từ gió, ánh nắng mặt trời... Đây là các loại năng lượng sạch. Vì việc sản xuất và tiêu thụ loại năng lượng này không làm phát sinh khí thải gây hiệu ứng nhà kính, từ đó mà giảm các khí thải độc ra môi trường.
  8. 1142 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION - Giảm sử dụng túi nilong: Túi nilông được sử dụng hầu hết trong các gia đình Việt nam, theo ước tính bình quân mỗi gia đình người Việt dùng từ 6- 7 chiếc túi nilong mỗi ngày để dựng thực phẩm các loại. Tuy nhiên, túi nilong lại không thể phân hủy trong môi trường tự nhiên được, chúng có thể tồn tại hàng trăm năm trong lòng đất hoặc môi trường không khí, túi nilong chính là thủ phạm gây ra ô nhiễm nguồn nước, đất và ảnh hưởng đến môi trường sống của chúng ta. Vì vậy, để giảm thiểu tác động của túi nilông mọi người dân Việt nam hãy sử dụng các loại vật dụng rễ phân hủy để thay thế, như: giấy, các loại lá... trong bao gói sản phẩm thay vì sử dụng loại túi này. 4. KẾT LUẬN: Qua phân tích trên, có thể khẳng định: Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo xu thế hội nhập là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Để công tác bảo vệ môi trường đạt hiệu quả thì Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường một cách đồng bộ, đồng thời thực hiện các biện pháp thưởng phạt nghiêm minh đủ sức răn đe. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật đến mọi tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng, giúp họ nhận thức đầy đủ, đúng đắn về môi trường cũng như tác hại của ô nhiễm môi trường đến kinh tế - xã hội của đất nước. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, củng cố tổ chức và đào tạo đội ngũ cho các đơn vị được giao nhiệm vụ kiểm soát môi trường, gìn gữi môi trường trong sạch, lành mạnh, góp phần đảm bảo sự phát triển toàn diện về trí, thể, mỹ cho các thế hệ hiện tại cũng như trong tương lai nhằm bảo vệ nòi giống của dân tộc Việt nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Luật tổ chức chính phủ, ngày 25 tháng 12 năm 2001. Bộ luật dân sự ngày 14 tháng 6 năm 2005. Luật tài nguyên, môi trường Biển và Hải đảo số 52/2015/QH13, ngày 25 tháng 6 năm 2015. Luật bảo vệ môi trường ngày 23 tháng 6 năm 2014. Nghị định số 03/2015/ NĐ-CP, ngày 06/01/2015, quy định về xác định thiệt hại đối với môi trường. Theo TS. Trần Đắc Hiến ( Văn phòng chính phủ), nguồn tin: moitruong.com.vn Tài liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thônThành phố Hồ Chí Minh; Bắc giang ô nhiễm không khí báo động môi trường ô nhiễm Báo người đưa tin, cơ quan của hội luật gia Việt nam. Thực trạng ô nhiễm môi trường vùng Tây Nam bộ. Tư vấn môi trường, xử lý môi trường, phân tích môi trường. Theo bài viết về thực trạng ô nhiễm môi trường nước ta hiên nay (Bộ tài nguyên và môi trường) . Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt nam, Hội thảo khoa học, tư liệu trang vàng môi trường VACNE. Theo PÓSTED ON MẢRCH 12, 2015. PÓSTED IN TIN TỨC, TƯ VẤN, các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ở Việt nam.13. Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp, Moitruongdeal.vn.tin trong ngành. Vấn đề ô nhiễm môi trường của nước ta hiện nay- Bảo vệ môi trường - GoogleSites. Một số tài liệu liên quan khác.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2