intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang

Chia sẻ: Abcdef_41 Abcdef_41 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

789
lượt xem
67
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo tài liệu 'vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ tràng giang

  1. Công ty C ổ phần Đầu tư Công ngh ệ Giáo d ục IDJ VẺ ĐẸP CỔ ĐIỂN V À HIỆN ĐẠI TRONG B ÀI THƠ TRÀNG GIANG Nhà thơ Huy C ận tên thật là Cù Huy C ận, với giọng th ơ rất riêng đã khẳng định t ên tuổi của m ình trong phong trào th ơ mới 1930-1945. Ông v ốn quê quán Hương Sơn, Hà T ĩnh, sinh năm 1919 và m ất năm 2005. Tr ước Cách mạng tháng tám, th ơ ông mang n ổi sầu về kiếp người và ca ng ợi cảnh đẹp của thi ên nhiên, t ạo vật với các tác phẩm ti êu biểu nh ư: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nh ưng sau Cách m ạng tháng tám, hồn th ơ của ông đã trở nên lạc quan, đ ược khơi ngu ồn từ cuộc sống chiến đấu v à xây dựng đất n ước của nhân dân lao đ ộng: "Trời mỗi ng ày lại sáng", "Đất nở hoa", "B ài thơ cu ộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên n ỗi ưu sầu nhân thế, một nét th ơ tiêu biểu của Huy Cận, đ ược thể hiện khá r õ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là m ột bài thơ hay, tiêu bi ểu và nổi tiếng n hất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. B ài thơ đư ợc trích từ tập "Lửa thi êng", đư ợc sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Ch èm sông H ồng, nh ìn cảnh mênh mông sóng nư ớc, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp ng ười nhỏ bé, nổi trôi giữa d òng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như th ế nên bài thơ v ừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đ ượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu m ến cho ng ười đọc. Bâng khuâng tr ời rộng nhớ sông d ài Sóng gợi tràng giang bu ồn điệp điệp .... Không khói hoàng hôn c ũng nhớ nh à. Ngay t ừ thi đề, nhà thơ đ ã khéo g ợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho b ài thơ. "Tràng giang" là m ột cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong ngư ời đọc cảm giác về con sông, không chỉ d ài vô cùng mà còn r ộng mênh mông, bát ngát. Hai ch ữ "tràng giang" mang s ắc thái cổ điển trang nh ã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong th ơ Đường thi, một d òng sông c ủa muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm t ưởng. Tứ thơ "Tràng giang" mang nét c ổ điển nh ư thơ xưa: Nhà thơ thư ờng ẩn đằ ng sau cái mênh mông sóng nư ớc, không nh ư các nhà thơ m ới thường thể hiện cái tôi của m ình. Nhưng n ếu các thi nhân x ưa tìm đến thiên nhiên đ ể mong ho à nhập, giao cảm, Huy C ận lại tìm về thiên nhiên đ ể thể hiện nỗi ưu tư, bu ồn bã về kiếp ng ười cô đơn, nh ỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó c ũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩ n chứa một tinh thần hiện đại. Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nh ưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả b ài: "Bâng khuâng tr ời rộng nhớ sống d ài". Trư ớc cảnh "trời rộ ng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông c ủa thiên nhiên, lòng con ng ười dấy l ên tình c ảm "bâng khuâng" và nh ớ. Từ láy "bâng khuâng" đ ược sử dụng rất đắc địa, nó nói l ên được tâm trạng của chủ thể trữ t ình, bu ồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít Biên tập viên: Trần Hải Tú http://www.hoc360.vn
  2. Công ty C ổ phần Đầu tư Công ngh ệ Giáo d ục IDJ tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ th ơ, cứ cuộn sóng l ên mãi trong lòng nhà th ơ làm rung đ ộng trái tim ngư ời đọc. Và ngay t ừ khổ th ơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng l òng đầy ưu tư, sầu não như thế: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái n ước song song. Thuyền về n ước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy d òng. Vẻ đẹp cổ điển của b ài thơ đư ợc thể hiện khá r õ ngay t ừ bốn câu đầu ti ên này. Hai từ láy nguy ên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu th ơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. V à không ch ỉ mang nét đẹp ấy, nó c òn đầy sức gợi h ình, gợi liên tưởng về những con sóng c ứ loang ra, lan xa, gối l ên nhau, dòng n ước thì cứ cuốn đi xa tận n ơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông g ợi sóng "điệp điệ p", nước "song song" ấy l à một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động l à thế, nhưng sao ch ỉ thấy vẻ lặng tờ, m ênh mông c ủa thiên nhiên, m ột dòng "tràng giang" dài và r ộng bao la không biết đến nh ường nào. Dòng sông thì bát ngá t vô cùng, vô t ận, nỗi buồn của con ng ười cũng đầy ăm ắp trong lòng Thuyền về n ước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ n ước xô, n ước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền v à nước đang chia lìa, xa cách "thuy ền về n ước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ v ì thế mà gợi nên trong lòng ng ười nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng c ùng từ chỉ số "mấy" đ ã thổi vào câu thơ n ỗi buồn vô hạn. Tâm hồn của chủ thể trữ t ình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu th ơ đặc sắc: "Củi một càng khô l ạc mấy d òng". Huy C ận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đ ơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi l ên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" g ợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên r ộng lớn m ênh mông. Cành c ủi khô đó trôi dạc đi nơi nào, h ình ảnh giản dị, không tô vẽ m à sao đầy rợn ngợp, khiến l òng ng ười đọc cảm thấy trống vắng, đ ơn côi. Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ t ình" thật khéo léo, t ài hoa c ủa tác giả, đ ã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu nh ư con sóng s ẽ còn vỗ mãi ở các khổ th ơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng th ường gặp ở các nh à thơ m ới. Nh ưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra m ột vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ th ơ. Đó là ở cách nói "Củi một Biên tập viên: Trần Hải Tú http://www.hoc360.vn
  3. Công ty C ổ phần Đầu tư Công ngh ệ Giáo d ục IDJ cành khô" th ật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của to àn kh ổ, mà còn hé m ở tâm trạng của nhân vật trữ t ình, một nỗi niềm đ ơn côi, lạc lõng. Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua h ình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo: Lơ thơ c ồn nhỏ gió đ ìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn ch ợ chiều. Hai từ láy "lơ thơ" và "đ ìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp tr ên cùng m ột dòng thơ đã vẽ nên m ột quang cảnh vắng lặng. "L ơ thơ" g ợi sự ít ỏi, b é nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió th ì "đìu hiu", m ột khung cảnh lạnh lẽo, ti êu điều ấy, con người trở nên đơn côi, r ợn ngợp đến độ thốt l ên "Đâu ti ếng làng xa vãn ch ợ chiều". Chỉ một câu th ơ mà mang nhi ều sắc thái, vừa gợ i "đâu đó", âm thanh xa xôi, không r õ rệt, có thể là câu h ỏi "đâu" nh ư một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nh à thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con ng ười. Đó cũng có thể l à "đâu có", m ột sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây ch ẳng hề có chút gì s ống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ t ình nhìn theo n ắng, theo d òng trôi của sông: "Nắng xuống, trời l ên sâu chót vót, Sông dài, trời rộng, bến cô li êu." "Nắng xuống, trời l ên" gợi sự chuyển động, mở rộng về khô ng gian, và g ợi cả sự chia lìa: b ởi nắng v à trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" l à cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nh à thơ không ch ỉ dừng ở bên ngoài c ủa trời, của nắng, m à như xuyên th ấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông v ới "sông d ài, trời rộng", c òn những gì thuộc về con ng ười thì lại bé nhỏ, c ô đơn biết bao: "bến cô li êu". Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đ ường thi như: sông, tr ời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán ch ường với "v ãn ch ợ chiều", mọi thứ đ ã tan rã, chia lìa. Nhà thơ l ại nhìn về dòng sông, nhìn c ảnh xung quanh mong mỏi có chút g ì quen thuộc mang lại h ơi ấm cho tâm hồn đang ch ìm vào giá l ạnh, về cô đ ơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những h ình ảnh càng quạnh quẽ, đ ìu hiu: Bèo dạt về đâu, h àng n ối hàng, Mênh mông không m ột chuyến đ ò ngang. Không cần gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp b ãi vàng. Biên tập viên: Trần Hải Tú http://www.hoc360.vn
  4. Công ty C ổ phần Đầu tư Công ngh ệ Giáo d ục IDJ Hình ảnh cánh b èo trôi bồng bềnh tr ên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ c ổ điển, nó gợi l ên một cái g ì bấp bênh, n ổi trôi của kiếp ng ười vô định giữa d òng đời. Nh ưng trong thơ Huy C ận không chỉ có một hay hai cánh b èo, mà là "hàng n ối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khi ến lòng người rợn ngộp tr ước thiên nhiên, đ ể từ đó c õi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên c ạnh hàng n ối hàng cánh bèo là "b ờ xanh tiếp b ãi vàng" nh ư mở ra một không gian bao la vô cùng, vô t ận, thiên nhiên n ối tiếp thi ên nhiên, dư ờng không có con ng ười, không có chút sinh ho ạt của con ng ười, không có s ự giao ho à, nối kết: Mênh mông không m ột chuyến đ ò ngang Không c ầu gợi chút niềm thân mật. Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định ho àn toàn nh ững kết nối của con ng ười. Trước mắt nh à thơ gi ờ đây không có chút g ì gợi niềm thân mật để kéo mình ra kh ỏi nỗi cô đ ơn đang bao trùm, vây kín, ch ỉ có một thi ên nhiên mênh mông, mênh mông. C ầu hay chuyến đ ò ngang, ph ương ti ện giao kết của con ng ười, dường nh ư đã bị cõi thiên nhi ên nhấn ch ìm, trôi đi nơi nào. Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển v à hiện đại cho bầu trời tr ên cao: Lớp lớp mây cao đ ùn núi bạc, Chim n ghiêng cánh nh ỏ bóng chiều sa. Bút pháp ch ấm phá với "mây cao đ ùn núi bạc" thành "lớp lớp" đ ã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu v ào như dát b ạc. H ình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ t ình và lại càng thi v ị hơn khi nó đư ợc khơi nguồn cảm hứng từ m ột tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ: Mặt đất mây đ ùn cửa ải xa. Huy Cận đã vận dụng rất t ài tình động từ "đ ùn", khiến mây như chuy ển động, có nội lực từ bên trong, t ừng lớp từng lớp mây cứ đ ùn ra mãi. Đây cũng là một nét th ơ đầy chất hiện đại, bởi nó đ ã vận dụng sáng tạo từ th ơ cổ điển quen thuộc. Và nét hi ện đại càng bộc lộ rõ hơn qua d ấu hai chấm thần t ình trong câu th ơ sau. Dấu hai chấm n ày gợi mối quan hệ giữa chim v à bóng chi ều: Chim nghi êng cánh nh ỏ kéo bóng chiều, c ùng sa xu ống mặt tr àng giang, hay chính bóng chi ều sa, đè nặng lên cánh chim nh ỏ làm nghiêng l ệch cả đi. Câu th ơ tả không gian nh ưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" v à "bóng chi ều", vốn l à những h ình tượng thẩm mỹ để tả ho àng hôn trong thơ c a cổ điển. Nhưng gi ữa khung cảnh cổ điển đó, ng ười đọc lại b ắt gặp nét tâm trạng hiện đại: Lòng quê d ợn dợn vời con n ước, Khôn g khói hoàng hôn c ũng nhớ nh à. "Dợn dợn" là một từ láy nguy ên sáng t ạo của Huy Cận, ch ưa từng thấy tr ước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con n ước" cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đ ơn của Biên tập viên: Trần Hải Tú http://www.hoc360.vn
  5. Công ty C ổ phần Đầu tư Công ngh ệ Giáo d ục IDJ "lòng quê". N ỗi niềm đó l à nỗi niềm nhớ qu ê hương khi đang đ ứng giữa qu ê hương, nhưng quê hương đ ã không còn. Đây là nét tâm tr ạng chung của nh à thơ m ới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trư ớc cảnh mất n ước. Bên cạnh tâm trạ ng hiện đại ấy l à tứ thơ cổ điển được gợi từ câu th ơ: "Trên sông khói sóng cho bu ồn lòng ai" c ủa Thôi Hiệu. X ưa Thôi Hi ệu cần vịn v ào sóng đ ể mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận th ì buồn mà không c ần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đ ã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm l òng yêu quê h ương th ắm thiết đến n hường nào của nh à thơ hôm nay. Cả bài thơ v ừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển đ ược thể hiện qua lối th ơ bảy chữ mang đậm phong vị Đ ường thi, qua cách d ùng từ láy nguy ên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc n hư: mây, sông, cánh chim... Và trên h ết là cách vận dụng các tứ th ơ cổ điển, gợi cho b ài thơ không khí c ổ kính, trầm mặc của th ơ Đường. Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nh à thơ như "sâu chót vót", d ấu hai chấm thần t ình. Nh ưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối c ùng là tâm tr ạng nhớ quê hương ngay khi đ ứng giữa qu ê hương, nét tâm tr ạng hiện đại của các nh à tri th ức muốn đóng góp sức m ình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được. Bài thơ sẽ còn mãi đi vào l òng ng ười với phong cách ti êu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nh ã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm l òng yêu n ước, yêu quê hương. Tài liệu sưu tầm Biên tập viên: Trần Hải Tú http://www.hoc360.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2