TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
VỀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT <br />
SỰ GẶP GỠ GIỮA QUAN ĐIỂM VĂN NGHỆ CỦA HẢI TRIỀU <br />
VỚI LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI<br />
Trần Thái Học<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
<br />
Đến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều <br />
người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về <br />
vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên <br />
văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối <br />
lập nhau.<br />
Lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhớ cuộc phê bình luận chiến về duy tâm <br />
và duy vật, về nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh (*) diễn ra cách đây <br />
70 năm về trước. Đó là lúc văn học nước ta chuyển qua một bước ngoặt với sự xuất <br />
hiện hàng loạt sáng tác của các nhà văn đã có những cách tân táo bạo so với những <br />
kinh nghiệm nghệ thuật truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thơ ca và tiểu thuyết. Và <br />
cùng với sáng tác, là sự xuất hiện của những nhà phê bình đồng quan điểm tư tưởng <br />
xã hội và quan điểm thẩm mỹ đã đóng vai trò tiên phong phát ngôn cho một hệ thống <br />
nguyên tắc sáng tạo mới. Họ bác bỏ những nguyên tắc đã và đang sáng tạo mà họ <br />
cho đã lỗi thời, phi nghệ thuật để đi đến một tuyên ngôn dường như thống nhất “văn <br />
chương là văn chương” “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đó cũng là lúc bắt đầu xuất hiện <br />
ngày càng nhiều sáng tác của các nhà văn theo khuynh hướng “tả thực” đi sâu phản <br />
ánh thực trạng của xã hội, qua đó mà phơi bày sự bất công, đen tối của chế độ thực <br />
dân nửa phong kiến. Đặc biệt, kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, <br />
cũng đến những năm 30 của thế kỷ XX, sáng tác của những nhà văn cách mạng đã <br />
tập trung phản ánh về những vấn đề nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội trên các <br />
lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh <br />
của quần chúng nhân dân lao động chống thực dân và phong kiến. Bảo vệ và khẳng <br />
định giá trị của sáng tác văn học theo khuynh hướng “tả thực”, nhất là “tả thực xã <br />
hội”, các nhà phê bình đứng trên quan điểm ”nghệ thuật vị nhân sinh” đã kịch liệt phê <br />
phán quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” đòi tách văn học ra khỏi cuộc sống chính <br />
trị xã hội, coi nghệ thuật là cứu cánh của sáng tạo nghệ thuật. Nổi bật trong số đó <br />
là Hải Triều nhà phê bình tiên phong của Đảng trên mặt trận văn nghệ.<br />
Đánh giá vai trò của Hải Triều trong cuộc bút chiến với phái “nghệ thuật vị <br />
nghệ thuật”, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: ”Công lao của đồng chí Hải <br />
Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên với trình độ ngày nay nếu ta xem lại <br />
những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt <br />
<br />
17<br />
Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều <br />
là xuất sắc. (nhấn mạnh T.T.H). Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm <br />
sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật”.[2156]<br />
Đứng trên quan điểm lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá đúng mực <br />
về những đóng góp của Hải Triều không chỉ thể hiện trong lĩnh vực văn nghệ, mà <br />
ngay trong lĩnh vực triết học, chính trị, xét ra cũng như vậy. Sau này, khi triết học và <br />
lý luận văn học mác xít đã trở thành tư tưởng chính thống, công khai phát huy ảnh <br />
hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và nghệ thuật thì nhìn lại những quan điểm <br />
của Hải Triều trước đó mới chỉ là những nhân tố và không tránh khỏi đôi chỗ “sơ <br />
lược”, nhưng xét trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội nước ta vào những năm <br />
30 cuả thế kỷ XX, khi mà việc dịch thuật và truyền bá chủ nghĩa Mác trong điều <br />
kiện tư liệu còn hết sức hạn chế, việc vận dụng thế giới quan vô sản và quan điểm <br />
của Đảng vào phê bình văn nghệ luôn bị chế độ cũ kiểm duyệt một cách khắt khe thì <br />
những bài viết về triết học và văn học của Hải Triều lúc đó quả là những đóng góp <br />
xuất sắc. Ngày nay đọc lại di sản lí luận văn nghệ của Hải Triều, bên cạnh những <br />
vấn đề còn giữ nguyên giá trị cần được kế thừa và phát triển, cũng có những vấn đề <br />
cần đổi mới về quan điểm và nhận thức cho phù hợp với sự đổi mới của thời đại và <br />
thực tiễn văn học. Sự kế thừa và đổi mới, đó là lẽ thường và hiển nhiên. Nhưng nhìn <br />
chung, những gì mà Hải Triều đã bàn về nghệ thuật cách đây hơn nửa thế kỷ về <br />
trước, từ nguồn gốc, bản chất, quy luật phát triển của nghệ thuật đến đặc trưng và <br />
chức năng xã hội của nó, từ vấn đề tự do sáng tác của nghệ sĩ đến nội dung và hình <br />
thức của tác phẩm, từ khuynh hướng sáng tác đến lập trường, quan điểm trong phê <br />
bình đánh giá nghệ thuật... ”về cơ bản là đúng đắn và là những viên ngọc quý trong <br />
kho tàng văn nghệ của nước ta, đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu”.[19]<br />
Nói về giá trị nghệ thuật mà tập trung chủ yếu ở chỉnh thể tác phẩm, mãi đến <br />
nửa sau của thế kỷ XX, do sự tác động mạnh mẽ của đời sống văn học và ảnh <br />
hưởng của lý thuyết tiếp nhận hiện đại mà các nhà phê bình nước ta mới quan tâm <br />
nghiên cứu một cách có hệ thống. Còn trước đó mấy chục năm, xung quanh vấn đề <br />
này, ít nhiều chúng ta đã tìm thấy trong những ý kiến đánh giá và luận giải của Hải <br />
Triều đáng để ghi nhận.<br />
Trước hết, giá trị của nghệ thuật được Hải Triều nhìn nhận bắt đầu từ khâu <br />
sáng tác, nhưng không coi mọi sáng tác đều tạo nên giá trị. Sáng tác có giá trị hay <br />
không theo ông, là ở chỗ nhà văn có xuất phát từ một quan niệm đúng hay không về <br />
nghệ thuật. Vì vậy liên quan đến vấn đề này, các cuộc luận chiến của Hải Triều với <br />
Phan Khôi để bảo vệ đến cùng tính khoa học của ”duy vật biện chứng pháp” là vì <br />
mục đích lấy đó làm chỗ dựa tư tưởng nhằm xác lập và khẳng định một quan niệm <br />
đúng đắn về nghệ thuật do ông khởi xướng nghệ thuật vị nhân sinh. Viết trên báo <br />
Trung Kỳ (1935), sau khi đã chỉ trích ý kiến của những người cho rằng: ”làm nghệ <br />
thuật là vì nghệ thuật, làm nghệ thuật để mà chơi, để cho đẹp”, Hải Triều nói: ”Tôi <br />
hết sức chỉ cho họ thấy cái phát nguyên của nghệ thuật là trong sự sống (...). Nghệ <br />
thuật là vì nhân sinh chứ không bao giờ có cái nghệ thuật vì nghệ thuật.”[130] Trên <br />
cơ sở một quan điểm như vậy, yêu cầu đặt ra với nhà văn trước khi cầm bút là “sống <br />
phải sống cái vĩ đại của nhân dân, phải cảm cái cảm sâu sắc của đại chúng, phải <br />
18<br />
chiến đấu trong cái chiến đấu anh dũng của dân tộc”[199] để khám phá, nhận thức <br />
và sáng tạo. Đây là cơ sở thực tiễn để hình thành khuynh hướng “tả thực xã hội”, là <br />
điều kiện để sáng tác tạo nên những giá trị nghệ thuật. <br />
Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và thái độ <br />
sống của nhà văn, càng không chỉ đọng lại ở quan điểm của nhà văn về nghệ thuật <br />
mà phải được thể hiện qua sáng tác bằng chính tác phẩm. Mỗi khi đã đứng trên quan <br />
điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” để sáng tác, mặc nhiên, nhà văn đã gắn việc sáng tác <br />
với đời sống xã hội, hướng sự phản ánh vào cuộc đời lầm than của những người <br />
nghèo khổ, vào hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân và dân tộc. Nhà văn hóa <br />
thân vào tác phẩm không còn là cái tôi cô lập mà đã hòa chung trong cái ta của đồng <br />
loại, giai cấp để cảm và nghĩ về hiện thực. Trên báo Trung Kỳ (1935) Hải Triều <br />
vạch rõ: ”Phái nghệ thuật vị nghệ thuật tưởng lầm rằng tình cảm trong nghệ thuật <br />
là cái sản vật của từng cá nhân mà thôi. Trong khi họ viết một cuốn sách, làm một <br />
bài thơ, họ nghĩ rằng đó là họ phát biểu cái bản ngã của họ (...). Có thế mà mới dám <br />
chủ trương cái sản vật của họ làm ra là chỉ vì nó và làm ra không cần phải hỏi làm ra <br />
để làm gì ?“ [134]. Ông nói:”Nghệ thuật là cái hệ thống của tình cảm diễn thành ra <br />
hình ảnh. Mà cái tình cảm trong nghệ thuật không xuất phát ở một cá nhân nào cả, <br />
mà chính là ở cái tổng hợp (synthèse) của những cái tình cảm giữa xã hội. Nhà nghệ <br />
sĩ khi diễn đạt cái tình cảm ấy lên trên mặt giấy hay trên tấm đá... là cố ý để cho mọi <br />
người xem tới cũng đồng mối liên cảm theo (nhấn mạnh T.T.H)”. Như vậy, sáng tác <br />
của nhà văn không phải là tùy hứng, vu vơ mà xuất phát từ ý đồ, mục đích trong mối <br />
liên hệ với độc giả qua tác phẩm. Chính độc giả là nơi tập trung nhu cầu xã hội đối <br />
với nhà văn, là đối tượng luôn đòi hỏi trông chờ nhà văn qua tác phẩm. Về mặt này, ý <br />
kiến của Hải Triều trên Tiểu thuyết thứ 7 số 62 (1935) đã chứng tỏ một sự nhận <br />
thức rất rõ: ”Giữa sự sống vất vả và gian khổ đầy những mâu thuẫn của xã hội ngày <br />
nay người ta đang ước ao về mặt tinh thần, đọc được những tác phẩm có thể diễn <br />
dịch được nỗi lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái thương, cái mơ <br />
ước (...) cũng cứ tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. <br />
Họ không cần những lời văn hoa mỹ điêu toa. Họ ưa những thể văn bình dị mà thiết <br />
thực”[127]. Nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu của độc giả cả về nội dung và hình <br />
thức, cả về tư tưởng và nghệ thuật để nhà văn chọn viết cái gì và viết như thế nào <br />
nhằm phát huy được hiệu quả của sáng tác. Mối liên hệ giữa nhà văn với độc giả, và <br />
ngược lại, giữa độc giả với nhà văn là mối liên hệ hai chiều trong quá trình giao tế <br />
văn học. Không đợi đến khi tác phẩm ra đời mà ngay trong quá trình sáng tác, độc giả <br />
đã trở thành người bạn đồng hành của nhà văn, ám ảnh, thôi thúc và định hướng nhà <br />
văn cầm bút. Chỉ có những nhà văn chân chính mới đồng hành với độc giả chân <br />
chính; sáng tác của họ mới “biểu hiện được cái tình cảm tư tưởng phổ biến của số <br />
đông người trong một thời đại”[134] như Hải Triều nói, và do đó mới có thể tạo ra <br />
những giá trị nghệ thuật đích thực.<br />
Dĩ nhiên dù sáng tác có tạo ra được giá trị nghệ thuật, thì đó cũng mới chỉ là <br />
giá trị ổn định, trong thế khả năng. Nó sẽ mãi mãi mất đi ý nghĩa nếu chỉ khuôn lại <br />
trong phạm vi sáng tác mà không được độc giả thưởng thức, tiếp nhận. Mác nói: <br />
”Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm một sự <br />
19<br />
trọn vẹn với tư cách là sản phẩm” (chuyển dẫn) [4331]. Những người theo phái <br />
“nghệ thuật vị nghệ thuật” do không hiểu điều này hoặc cố tình phớt lờ để bảo vệ <br />
cho quan niệm của mình nên đã bị Hải Triều thẳng thắn chỉ trích. Trên báo Trung Kỳ <br />
số 1 và số 4 (1935), Hải Triều vạch rõ: ”Nhà nghệ sĩ duy tâm đã cho rằng làm nghệ <br />
thuật chỉ là vì nghệ thuật. Vì nghệ thuật có giá trị vốn có của nó (savaleur in <br />
trinsèque). Họ không cần sự phẩm bình của dư luận, sự thưởng thức của công chúng, <br />
tự nó đã có sẵn một giá trị... giá trị cố hữu của nó” [135]. Đối lập với quan niệm đó, <br />
trên báo Tin văn số 6 (1935), ông khẳng định: ”Cái giá trị của một tác phẩm và nghệ <br />
thuật không phải tự nó sẵn có mà chính là ở chỗ bình phẩm của xã hội“. Sáng tác văn <br />
học đươc Hải Triều nhìn nhận như một sản phẩm của ”sản xuất” tinh thần, nếu <br />
taúc phẩm được viết ra không được độc giả tiếp nhận thì cùng lắm như một kỹ vật, <br />
sáng tác sẽ trở nên vô nghĩa và tác phẩm cũng dễ bị lãng quên. Chính khâu tiếp nhận <br />
của độc giả đã làm cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ khả năng mà trở thành <br />
hiện thực, từ ổn định mà trở nên biến đổi; mục đích giao tiếp giữa nhà văn với bạn <br />
đọc mới được thực hiện. Ông nói: ”Ví thử nhà thi sĩ viết ra cuốn sách rồi bỏ vào <br />
rương khóa lại đến khi chết đem xuống đất thì dầu ông ấy muốn cho tác phẩm của <br />
ông có giá trị cố hữu, ta cũng chã nói làm gì. Bên này thì ông viết ra ngâm chán rồi lại <br />
muốn đưa ra cho xã hội biết, tất cũng như cái mũ đưa ra giữa thị trường vậy thôi. Nó <br />
cũng tùy theo sự nhu yếu, sự sử dụng, sự thiếu thốn, sự thời thượng... của mỗi giai <br />
cấp, mỗi thời gian, mỗi không gian mà quyết định cái giá cho tập sách của thi sĩ”[1<br />
35]. Như vậy, giá trị nghệ thuật được Hải Triều xem xét không những trong mối liên <br />
hệ hữu cơ giữa sáng tác và tiếp nhận, mà ngay trong tiếp nhận, việc định giá đối với <br />
sáng tác qua tác phẩm theo ông, còn do độc giả quyết định với sự chi phối của <br />
những yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa khách quan. Đó là yêu cầu của mỗi <br />
người, nhưng gắn bó không tách rời với giai cấp là lập trường, quan điểm, với thời <br />
gian, không gian là thời đại và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Đã có lần ông khẳng <br />
định:”Cái giá của nghệ thuật trong xã hội này chỉ tương đối và hữu hạn mà thôi. Vì <br />
nghệ thuật đối với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này thì cho là có giá trị, đối với <br />
giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì chả ra gì”[134]. Ý kiến của Hải Triều <br />
tuy chưa được triển khai một cách đầy đủ và cụ thể, nhưng trong nội dung cốt lõi <br />
của nó đã chứng tỏ một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc của ông về một phương diện <br />
nữa của tiếp nhận. Đó là sự quy định của xã hội và văn hóa lịch sử đối với việc <br />
đánh giá giá trị nghệ thuật, mà sau này, các nhà nghiên cứu tiếp nhận hiện đại ở <br />
nước ta đã có dịp phân tích và chứng minh một cách sáng tỏ, có hệ thống.<br />
Như vậy không đợi đến những năm 70 của thế kỷ trước, ở ta mới có người <br />
đề xuất “xem xét giá trị nghệ thuật liên quan đến phạm vi thưởng thức tác phẩm của <br />
độc giả“ như một nhà phê bình đã nhận định, mà sớm hơn, cách đó 40 năm trước, <br />
xung quanh về vấn đề này, trong quan điểm văn nghệ của Hải Triều đã có nhiều ý <br />
kiến đặt cơ sở nền tảng. Giá trị di sản tư tưởng văn hóa của Hải Triều được khẳng <br />
định trên nhiều lĩnh vực. Chỉ kể riêng ở lĩnh vực văn nghệ, đóng góp của ông về một <br />
phương diện cụ thể như vậy đã xuất sắc mà trước đó chưa ai có được.(**)<br />
Chú thích:<br />
<br />
20<br />
(*) Đại diện cho phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” có Thiếu Sơn, Hoài Thanh còn đại <br />
diện cho phái “nghệ thuật vị nhân sinh” có Hải Triều, Hải Thanh, Hải Vân, Bùi Công <br />
Trừng...<br />
(**) “ Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ và chỗ là các nhà hoạt động lịch <br />
sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại của chúng ta, mà căn cứ vào chỗ <br />
họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ “ (Lênin về văn hóa văn học, <br />
nxb văn học (1977), trang 194.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Hải Triều về văn học nghệ thuật. Nxb văn học, H.(1969).<br />
2. Trường Chinh về văn hóa và nghệ thuật. T1. Nxb văn học, H. (1986).<br />
3. Trường Chinh về văn hóa và nghệ thuật. T2. Nxb văn học, H. (1986).<br />
4. Lý luận văn học, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục, H. (1986).<br />
<br />
ABOUT THE VALUE OF ART THE MEETTING <br />
BETWEEN HAI TRIEU ‘S POINT OF VIEW ON ART <br />
AND THE MODERN APPROACHING THEORY<br />
Tran Thai Hoc.<br />
College of Pedagogy, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
Composing only creates the value of art in the tendency of potentiality and stability. This <br />
value will come true and change constantly only if the readers welcome the works. It’s the <br />
readers with personal and social factors that form the foundation to determine the assessment <br />
results of the art value of the works. In this field, Hai Trieu’s point of view on art meets the <br />
modern approaching theory.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
21<br />