intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vi sinh vật né tránh miễn dịch bẩm sinh

Chia sẻ: Đinh Văn Hiểu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:5

137
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các vi sinh vật gây bệnh đã tiến hoá để chống lại các cơ chế của miễn dịch bẩm sinh ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vi sinh vật né tránh miễn dịch bẩm sinh

  1. Vi sinh vật né tránh miễn dịch bẩm sinh Các vi sinh vật gây bệnh đã tiến hoá để chống lại các cơ chế của miễn dịch bẩm sinh  và vì thế chúng có thể xâm nhập và trú ngụ bên trong cơ thể túc chủ (bảng 2.13).  Một số vi khuẩn nội bào có khả năng chống lại các cơ chế tấn công chúng ở bên  trong các tế bào làm nhiệm vụ thực bào. Ví dụ như Listeria monocytogenes sản sinh  ra một protein giúp chúng có thể thoát ra khỏi các bọng thực bào để xâm nhập vào  bào tương của các tế bào đã ăn chúng, và khi đã ở bào tương thì chúng không còn  chịu tác động của các chất trung gian hoá học ô­xy hoạt động và nitric oxide (là  những chất chủ yếu được tạo ra trong các phagolysosome) nữa. Thành của các vi  khuẩn Mycobacterium có chứa một thành phần lipid có tác dụng ức chế quá trình hoà  màng của các bọng có chứa các vi khuẩn đã bị nuốt vào với các lysosome. Các vi  sinh vật khác thì lại có thành tế bào của chúng có khả năng kháng lại tác động của  bổ thể. Như sẽ còn được trình bầy trong các chương 6 và 8, chính những cơ chế như  vậy đã giúp cho các vi sinh vật kháng lại các cơ chế thực hiện của đáp ứng miễn dịch  dịch thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Bảng 2.13: Các phương thức né tránh miễn dịch bẩm sinh của vi sinh vật Cách thức né tránh Ví dụ Cơ chế Pneumococus Kháng lại hiện tượng thực  Polysaccharide của vỏ vi khuẩn ức chế  bào hiện tượng thực bào Kháng lại các chất trung gian  Các vi khuẩn  Sản sinh ra enzyme calase có tác dụng  Staphylococcus hoá học ô­xy hoạt động  phá vỡ các gốc ô­xy hoạt động trong các tế bào làm nhiệm  vụ thực bào Neisseria   Kháng lại hoạt tính của bổ  Bộc lộ acid sialic trên bề mặt để ức chế  meningitides thể (con đường không cổ  các enzyme chuyển đổi C3 và C5   Streptococcus điển) convertase Protein M ức chế không cho C3 bám vào  vi sinh vật và C3b bám vào các thụ thể  dành cho bổ thể Pseudomonas Kháng lại các peptide kháng  Tổng hợp ra các LPS có cấu trúc biến  sinh diệt khuẩn đổi để kháng lại hoạt tính của các  peptide kháng sinh này   Vai trò kích thích các đáp ứng miễn dịch thích ứng của miễn dịch tự nhiên Chúng ta vừa phân tích các cách thức hệ thống miễn dịch bẩm sinh nhận diện các vi  sinh vật và chống lại sự xâm nhập của chúng. Như đã trình bầy ở đầu chương, ngoài  các chức năng đề kháng thì đáp ứng miễn dịch bẩm sinh chống lại các vi sinh vật còn  đóng vai trò quan trọng trong việc cảnh báo và báo động cho hệ thống miễn dịch 
  2. thích ứng rằng cần phải có một đáp ứng miễn dịch hiệu quả hơn. Phần còn lại của  chương này chúng ta sẽ đề cập đến một số cơ chế các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh  kích thích các đáp ứng miễn dịch thích ứng. Hình 2.14: Vai trò kích thích miễn dịch thích ứng của miễn dịch bẩm sinh Các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh tạo ra các phân tử đóng vai trò như “tín hiệu thứ  hai” (kháng nguyên là tín hiệu thứ nhất) để hoạt hoá các tế bào lympho T và B. Trong  chương 1 chúng ta đã đề cập đến giả thuyết cho rằng để có thể hoạt hoá một cách  toàn diện các tế bào lympho đặc hiệu với kháng nguyên thì cần có hai tín hiệu: kháng  nguyên chính là tín hiệu thứ nhất còn lại thì các vi sinh vật, các đáp ứng của miễn  dịch bẩm sinh chống lại vi sinh vật hay các tổn thương của tế bào túc chủ do tác  động của vi sinh vật có thể đóng vai trò là tín hiệu thứ hai (xem hình 1.9). Yêu cầu  cần có các tín hiệu thứ hai có liên quan đến vi sinh vật là để bảo đảm rằng các tế bào  lympho đáp ứng chống lại các tác nhân gây bệnh chứ không chống lại các chất vô  hại và không có bản chất từ vi sinh vật lây nhiễm. Trong các mô hình thực nghiệm  hoặc khi sử dụng vaccine thì có thể tạo ra được các đáp ứng miễn dịch thích ứng  bằng cách cho cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên mà không cần tiếp xúc với toàn bộ  vi sinh vật. Trong tất cả những trường hợp này thì các kháng nguyên thường được 
  3. đưa vào cơ thể cùng với các tá chất (adjuvant) có tác dụng tạo ra các phản ứng miễn  dịch bẩm sinh giống như phản ứng do vi sinh vật hoàn chỉnh gây ra. Trên thực tế thì  rất nhiều tá chất chính là các sản phẩm của vi sinh vật. Bản chất và các cơ chế tác  động của tín hiệu thứ hai sẽ được mô tả chi tiết trong phần trình bầy về quá trình hoạt  hoá các tế bào lympho B và T trong các chương 5 và 7. Trong chương này chúng ta  đề cập đến hai ví dụ minh hoạ về các tín hiệu thứ hai được tạo ra trong các đáp ứng  miễn dịch bẩm sinh (hình 2.14). Các vi sinh vật hoặc IFN­g do các tế bào NK đáp ứng với vi sinh vật tạo ra kích thích  các tế bào có tua và các đại thực bào tạo ra hai loại tín hiệu thứ hai có thể hoạt hoá  các tế bào lympho T. Thứ nhất là trên bề mặt các tế bào có tua và các đại thực bào  có các phân tử được gọi là các đồng kích thích tố (costimulator), các phân tử này  bám vào các thụ thể trên bề mặt các tế bào T “trinh nữ” đồng thời với việc nhận diện  kháng nguyên sẽ có tác dụng hoạt hoá các tế bào T. Thứ hai là các tế bào có tua và  các đại thực bào chế tiết ra IL­12 là cytokine có tác dụng kích thích quá trình biệt hoá  các tế bào T “trinh nữ” thành các tế bào thực hiện trong đáp ứng miễn dịch qua trung  gian tế bào. Các vi khuẩn trong máu hoạt hoá hệ thống bổ thể theo con đường không cổ điển.  Một trong số các protein được tạo ra trong quá trình hoạt hoá bổ thể là C3d sẽ gắn  theo kiểu đồng hoá trị vào vi sinh vật. Khi các tế bào lympho B nhận diện các kháng  nguyên của vi sinh vật bằng các thụ thể của chúng dành cho kháng nguyên thì cùng  lúc đó các tế bào lympho B cũng nhận diện C3d phủ trên bề mặt vi sinh vật bằng thụ  thể của tế bào B dành cho C3d. Sự phối hợp đồng thời nhận diện kháng nguyên và  nhận diện C3d sẽ khởi động quá trình biệt hoá tế bào B thành tế bào plasma chế tiết  kháng thể. Bằng cách đó một yếu tố bổ thể đã đóng vai trò như là tín hiệu thứ hai để  khởi động các đáp ứng miễn dịch dịch thể. Các ví dụ trên đây cho thấy một đặc điểm quan trọng của các tín hiệu thứ hai đó là  các tín hiệu này không chỉ kích thích đáp ứng miễn dịch thích ứng mà còn định  hướng bản chất của đáp ứng miễn dịch thích ứng. Các vi sinh vật ký sinh bên trong tế  bào và các vi sinh vật đã bị các tế bào làm nhiệm vụ thực bào nuốt vào thì cần được  loại bỏ nhờ đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, là một đáp ứng miễn dịch thích  ứng do các tế bào lympho T thực hiện. Các vi sinh vật bị nuốt vào hoặc sống trong  các đại thực bào sẽ tạo ra tín hiệu thứ hai được gọi là các đồng kích thích tố và IL­12  có tác dụng kích thích đáp ứng của tế bào T. Ngược lại thì các vi sinh vật trong máu  cần bị loại bỏ bởi các kháng thể là sản phẩm của các tế bào lympho B tạo ra trong  các đáp ứng miễn dịch dịch thể. Các vi sinh vật trong máu hoạt hoá hệ thống bổ thể  sau đó bổ thể lại kích thích hoạt hoá các tế bào B để sản xuất kháng thể. Bằng cách  đó các loại vi sinh vật khác nhau tạo ra các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh khác nhau,  các đáp ứng này sau đó lại kích thích các loại đáp ứng miễn dịch thích ứng khác  nhau để chống lại một cách hiệu quả nhất các tác nhân gây bệnh nhiễm trùng khác 
  4. nhau. Tóm tắt Tất cả các cơ thể đa bào đều có các cơ chế tự đề kháng chống lại nhiễm  • trùng, các cơ chế này tạo nên miễn dịch bẩm sinh. Các cơ chế của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh chống lại vi sinh vật chứ không  • chống lại các các chất không có bản chất từ vi sinh vật. Các cơ chế này đặc hiệu  với các cấu trúc chung có trên các loại vi sinh vật khác nhau. Các cơ chế này được  thực hiện thông qua các thụ thể được mã hoá bởi các gene ở dòng gốc và các đáp  ứng không mạnh hơn sau mỗi lần tiếp xúc với vi sinh vật. Các thành phần chính của miễn dịch bẩm sinh là các biểu mô, các tế bào làm  • nhiệm vụ thực bào, các tế bào giết tự nhiên (tế bào NK), các cytokine, các protein  trong huyết tương bao gồm các protein của hệ thống bổ thể. Biểu mô cung cấp các hàng rào vật lý ngăn cản sự xâm nhập của vi sinh vật,  • biểu mô sản xuất ra các chất kháng sinh và trong biểu mô còn có các tế bào  lympho có khả năng ngăn ngừa nhiễm trùng. Các tế bào chính làm nhiệm vụ thực bào là bạch cầu trung tính, các tế bào  • mono/đại thực bào. Đây là các tế bào máu đã được điều động từ máu đến các vị trí  xẩy ra nhiễm trùng, tại đây chúng nhận diện các vi sinh vật nhờ các thụ thể đặc  hiệu trên bề mặt của chúng. Các bạch cầu trung tính và đại thực bào nuốt các vi  sinh vật sau đó phá huỷ chúng ở bên trong các tế bào này. Các tế bào này còn chế  tiết các cytokine và đáp ứng bằng những cách khác nhau để loại bỏ vi sinh vật và  sửa chữa lại các mô tổn thương do nhiễm trùng. Các tế bào giết tự nhiên giết các tế bào của túc chủ bị nhiễm các vi sinh vật  • nội bào và chế tiết ra IFN­g, chất có tác dụng hoạt hoá các đại thực bào giết các vi  sinh vật đã bị chúng nuốt vào. Hệ thống bổ thể bao gồm một họ các protein được hoạt hoá theo trình tự nối  • tiếp nhau khi chúng gặp các vi sinh vật hoặc khi chúng được các kháng thể hoạt  hoá chúng (trong đáp ứng miễn dịch dịch thể). Các protein của bổ thể phủ lên các  vi sinh vật (opsonin hoá) tạo thuận cho các quá trình tiếp cận và nuốt các vi sinh  vật bởi các tế bào làm nhiệm vụ thực bào, kích thích phản ứng viêm, và làm ta rã  các vi sinh vật. Các cytokine của miễn dịch bẩm sinh có tác dụng kích thích phản ứng viêm  • (TNF, IL­1, các chemokine), hoạt hoá các tế bào NK (IL­2), hoạt hoá các đại thực  bào (IFN­g), và ngăn ngừa nhiễm virus (IFN type I). Ngoài tác dụng cung cấp khả năng đề kháng sớm chống nhiễm trùng, các đáp  • ứng miễn dịch bẩm sinh còn cung cấp các “tín hiệu thứ hai” để hoạt hoá các tế bào  lympho B và T. Sự cần thiết phải có các tín hiệu thứ hai này để bảo đảm cho các  đáp ứng miễn dịch thích ứng được tạo ra là do chính các vi sinh vật (tác nhân tự 
  5. nhiên sinh ra các phản ứng miễn dịch bẩm sinh) chứ không phải do các chất không  có bản chất là vi sinh vật.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2