intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Virus viêm gan e - virus học và sự phát triển vắc xin

Chia sẻ: Nguyen Hoang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

100
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Virus viêm gan e: virus học và sự phát triển vắc xin VIRUS VIÊM GAN E: VIRUS HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN VẮC XIN Virus viêm gan E mặc dù không đưa đến biến chứng mãn tính như siêu vi B,C nhưng vì lây nhiễm qua đường ăn uống có thể gây nên đại dịch nghiêm trọng và biến chứng nguy hiểm có thể tử vong cho phụ nữ mang thai…… Virus viêm gan E thì là một viêm gan virus không A, không B lây truyền qua đường phân- miệng chủ yếu thông qua nước bị nhiễm. Đợt bùng nổ dịch lớn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Virus viêm gan e - virus học và sự phát triển vắc xin

  1. Virus viêm gan e: virus học và sự phát triển vắc xin VIRUS VIÊM GAN E: VIRUS HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN VẮC XIN Virus viêm gan E mặc dù không đưa đến biến chứng mãn tính như siêu vi B,C nhưng vì lây nhiễm qua đường ăn uống có thể gây nên đại dịch nghiêm trọng và biến chứng nguy hiểm có thể tử vong cho phụ nữ mang thai…… Virus viêm gan E thì là một viêm gan virus không A, không B lây truyền qua đường phân- miệng chủ yếu thông qua nước bị nhiễm. Đợt bùng nổ dịch lớn đầu tiên được báo cáo ở Delhi, Ấn Độ vào năm 1955 – 1956. Những trường hợp được báo cáo là 20.000 đến 40.000 cas. Từ sau đó, nhiều trận dịch có tiếng đã được báo cáo; Kirgyzstan (1957)- 10.000 trường hợp; Kashmir (1978- 1982)- 52.000 trường hợp; Kanpur (1991)- 79.000 trường hợp; Kathmandu (Nepal) (1973- 1987)- 10.000x3 trường hợp; Mandalay ( Myanmar) (1976- 1977)- 20.000 trường hợp. Vấn đề này đã là vấn đề chính đối với tiểu lục địa Ấn Độ và Đông nam Á. Trận dịch lớn nhất tiếp theo là từ Xinjiang Uighur, Trung Quốc. Từ 1986 đến 1988, hơn 120.00 trường hợp đã được báo cáo. Trong mỗi một trận dịch, chúng ta có thể tìm hiểu được những thông tin quan trọng về dịch tể học của việc truyền nhiễm HEV. Tỉ lệ tử vong tòan bộ trong suốt trận dịch được ước đóan khỏang từ 0,2 đến 4%. Việc ghi nhận nghiêm trọng nhất ở trận dịch Kanpur là tỉ lệ cao có ý nghĩa thống
  2. kê (10- 20%) về việc viêm gan trầm trọng của những phụ nữ đang mang thai, đặc biệt ở tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, diễn tiến lâm sàng của viêm gan virus E là tự giới hạn và được xem như là không phát triển đến mạn tính. Một tỉ lệ hơi cao của suy gan trầm trọng thì theo một cách nào đó là đặc điểm có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc nhiễm HEV. Trận bùng phát trong bệnh viện gần đây là ở Darfur, Sudan đã được báo cáo vào năm 2004. Hơn 6 tháng trong năm 2004, 253 trường hợp HEV đã được ghi nhận tại bệnh viện, trong đó 61 (chiếm 24%) là phụ nữ có thai. Trong 45 trường hợp tử vong thì có 19 người đang mang thai. Những trận dịch bệnh đã được cáo sau này từ những vùng khác nhau của thế giới mà chủ yếu ở các nước đang phát triển của Châu Phi, trung tâm châu Mỹ, và trung tâm Châu Á. Tuy nhiên, rõ ràng ngày nay thì nó không gi ới hạn đối với các nước đang phát triển mà việc truyền nhiễm thỉnh thỏang ở những đất nước không phải vùng dịch tể được báo cáo một cách thường xuyên. Sự nhiễm bệnh này trước đây được giới hạn chủ yếu ở những bệnh nhân đã bị nhiễm ở những vùng dịch tễ HEV khi du lịch và bệnh đã phát triển sau khi quay trở về đất nước của họ. Tuy nhiên, những chuỗi được phát hiện lần đầu tiên ở Mỹ thì hòan tòan khác các bệnh nhân này, được phát hiện ở Myanmar hay Mexico (chúng là genotype I và II). Khi được cô lập được xem như là HEV bản địa, và thật thú vị là chúng được cô lập một cách phổ biến từ những con lợn đực . Hiện nay, bệnh này có 4 genotype; genotype 1 (G1) ở Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar, và …; genotype 2 (G2) ở Mexico, Negeria, Namibia và v…v…; genotype 3 (G3) ở Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc v…v…, và genotype 4 (G4) ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, và v…v… . Nó được xem như là những nhóm serotype giống nhau giữa các HEV, nhưng phân tích cấu trúc chi tiết gần đây cung cấp những khác biệt tinh vi giữa các genotype của các HEV. Cụ thể phân tích cấu trúc gần đây về virus như những mẫu nhỏ (VLPs: virus like particles) sử dụng những kháng thể một dòng vô tính khác nhau thì nhận thấy phần khác nhau trên bề mặt của HEV. VLPs chỉ ra sự khác nhau về kháng nguyên giữa các genotype. Điều này có thể cung cấp manh mối để hiểu về lịch sử tự nhiên của HEV, sự phát sinh bệnh và
  3. v…v… Ngày nay HEV được coi là việc nhiễm qua thức ăn- sinh sản, liên quan đến động vật. Ở Nhật Bản, hươu nai, lợn đực hoang dã, và lợn nhà được xem là có ý nghĩa lây truyền. Phần trăm việc phát hiện RNA HEV hơn cao thậm chí ở thịt lợn hay những túi gan được bán ở các cửa hàng tạp phẩm và việc nhiễm HEV thỉnh thỏang ở những người dùng thịt heo nấu chưa chin được đề nghị mạnh mẽ rằng thịt heo là nguồn dự trữ trong động vật đối với HEV người. Việc gây dựng của VLPs đã là một trong những phát kiến cho việc tìm hiểu về HEV. Nó đã cung cấp những dữ liệu chủ yếu cho việc phân tích cấu trúc. Hơn nữa hệ thống phát hiện kháng thể và kháng nguyên đã cung cấp cho việc chẩn đoán chính xác. Hiện nay, VLPs của G1, G3 và G4 đã được sản xuất. Tôi sẽ thảo luận chi tiết trong bài thuyết trình. Từ NIAID/ NIH, vắc xin HEV đã được sản xuất từ protein 56 kDa có nguồn gốc từ ORF- 2 được tách ra từ những tế bào của côn trùng. Nghiên cứu phase 2 dùng vắc xin này ở Nepal đã cho thấy thành công về sự an tòan và hiệu quả của nó. Sự phân tách hệ gen của HEV , biểu lộ những gen HEV rõ ràng và sự phát hiện một cách nhạy cảm RNA HEV là những chìa khóa để hiểu biết về virus học HEV. Do những phát triển này, chúng ta có thể biết được nhiều điều để kiểm sóat việc lây nhiễm HEV. Tuy nhiên, chúng tôi không có chắc chắn trong hệ thống nuôi cấy trong ống nghiệm để truyền HEV vào những tế bào mô nuôi cấy trong thời gian dài. Điều này là một cản trở thật sự cho ngành virus học HEV. Thí dụ, để phát triển vắc xin hay thuốc chống HEV, việc nhân lên của HEV trong ống nghiệm là cốt yếu. Sự quan sát gần đây về bản sao của HEV trong những dòng tế bào carcinoma người thì quan trọng. Bản đồ phân bố HEV Tình hình nhiễm siêu vi C trên thế giới
  4. TÌNH HÌNH NHIỄM SIÊU VI C TRÊN THẾ GIỚI Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới , tỉ lệ nhiễm HCV trên thế giới 2,2 % khoảng 170 triệu người . Tính đến năm 2015 có đến 3 triệu người Mỹ đã nhiễm HCV trên 20 năm , ít nhất có 375.00 người xơ gan.Tỉ lệ nhiễm HCV đưa đến xơ gan 15—20% sau 20 năm , tỉ lệ càng tăng nếu thời gian nhiễm càng lâu , nếu nhiễm hơn 60 năm , xơ gan 71% . Đa số người châu Á nhiễm lúc mới sinh thường bị xơ gan lúc trung niên. Sau khi bị xơ gan do HCV tỉ lệ đưa đến ung thư gan 1,4—3,3% mỗi năm , và tử vong 2,6---4% mỗi năm. I.TỔNG QUÁT: Trên thế giới, truyền máu từ người cho bị nhiễm, vật dụng tiêm chích trong điều trị không an toàn, và việc dùng thuốc tiêm bất hợp pháp là những kiểu điển hình của hình thức lây viêm gan virus C (HCV). Trong hầu hết các nước phát triển, xét nghiệm người cho máu đã loại bỏ được vấn đề lây nhiễm siêu vi C qua truyền máu, việc lây nhiễm trong bệnh viện do thầy thuốc hay các phương pháp điều trị thì rất hiếm . Ở những nước này, việc dùng thuốc tiêm là yếu tố nguy cơ chính gây nên nhiễm HCV trong suốt 30 đến 40 nay qua, và tỉ lệ nhiễm cao nhất được tìm thấy ở người trẻ đến người trung niên. Ở nhiều nước đang phát triển, những dụng cụ tiêm truyền không an toàn ,vô trùng không tốt đã làm tăng nguy cơ lây nhiễm HCV . Ở một số nước, nguy cơ từ tiêm chích điều trị không an toàn ở quá khư cho thấy tỉ lệ cao của nhiễm HCV ở những người lớn tuổi. Ở những nước khác, kiểu truyền nhiễm này tiếp tục là nguồn chính gây nhiễm HCV, với tỉ lệ cao nhiễm HCV được tìm thấy ở tất cả các nhóm tuổi. Đặc điểm dịch tể học của HCV ở mỗi nước phụ thuộc vào sự phát triển và bổ sung những phương tiện ngăn ngừa lây bệnh hiệu quả. Trong một vài nước, đảm bảo
  5. những phương tiện an toàn cung cấp máu và những chu trình liên quan đến chăm sóc sức khỏe an toàn được ưu tiên cao nhất. Đối với những nước khác, những ưu tiên là ngăn ngừa việc dùng thuốc tiêm chích bất hợp pháp, đưa ra những lời khuyên để giảm tác hại và kiểm tra những người đã xác định nhiễm HCV để đánh giá bệnh tật và quản lý. II.GÁNH NẶNG TOÀN CẦU VÀ NHỮNG HÌNH THỨC NHIỄM HCV Tỉ lệ ước tính toàn thế giới nhiễm HCV là 2,2%, hay xấp xỉ 170 triệu người HCV (+) . Tỉ lệ lưu hành của từng nước hay vùng không phản ánh nguy cơ của sự lây lan HCV bởi vì nguy cơ này không đồng nhất giữa các nước hay trong cùng một nước của hầu hết các nước. Tỉ lệ lưu hành HCV theo từng tuổi thì thay đổi nhiều, và những dạng lây lan cũng khác nhau theo địa lý và thời gian . Những đất nước rộng lớn khác nhau, bao gồm: Uc, Ý, Nhật, Tây ban nha, Thổ nhĩ kỳ và Mỹ, thuộc nhiều vùntg trên thế giới có tỉ lệ ước tính trung bình cộng đồng nhiễm HCV (1,0% tới 1,9%). Tuy nhiên, ở Mỹ, Tỉ lệ nhiễm HCV (được đo năm 1990) cao hơn gấp 2 lần tỉ lệ trung bình ở những người 30 _49 tuổi, những người này chíêm 65% số người bị nhiễm, và thấp hơn tỉ lệ trung bình ở những người trẻ hơn 20 tuổi va lớn hơn 60 tuổi. Kiểu mẫu này chỉ ra rằng việc truyền HCV hầu hết xảy ra ở trong quá khứ gần (thí dụ như 10 -30 năm trước) và đầu tiên giữa những người thanh niên - một mô hình tương tự như vậy đã được quan sát thấy ở Uc. Ở Ý, Nhật, Tây ban nha, và Thổ nhĩ kỳ, tỉ lệ theo từng tuổi nhiễm HCV thì thấp ở trẻ em và thanh niên , nhưng tăng theo tuổi . Ở Đài loan, tỉ lệ theo tuổi nhiễm HCV thì tương tự như Thổ nhĩ kỳ, mặc dù tỉ lệ toàn bộ cả vùng bao gồm Đài loan thì cao hơn (2,0% đến 2,9%). Ở 5 nước này, những người trên 40 tuổi chiếm hầu
  6. hết những người bị nhiễm, điều này cho thấy nguy cơ nhiễm HCV cao hơn ở những thời quá khứ xa ( ví dụ: 30 – 50 năm trước). Tuy nhiên, tỉ lệ này gia tăng từ từ giữa những người già hơn ở Tây ban nha, Đài loan, và Thổ nhĩ kỳ, ở những nơi như Ý, Nhật, tỉ lệ tăng rõ rệt. Hơn nữa, ở những vùng tỉ lệ bệnh cao hơn, những tỉ lệ nhiễm HCV cao hơn 20 lần ở những người lớn tuổi so với tỉ lệ cộng đồng trung bình bị nhiễm và hơn 1,5 – 2,0 lần so với tỉ lệ những bệnh nhân lớn tuổi bị nhiễm ở những vùng khác của đất nước. Ở Ai cập, nơi tỉ lệ HCV được báo là cao nhất thế giới, tỉ lệ nhiễm HCV cũng tăng một cách chắc chắn theo tuổi, nhưng những tỉ lệ cao được quan sát giữa những ngưới ở mọi nhóm tuổi. Mô hình này chỉ ra rằng nguy cơ gia tăng ở thời gian quá khứ xa, tiếp theo là nguy cơ bị nhiễm HCV vẫn tiếp tục cao. Như chỉ dẫn trên, những kiểu ở những nước trên thì tỉ lệ nhiễm HCV thấp ở trẻ em, người trẻ nhưng cao ở người già, gợi ý một hiệu quả ở những nước này nguy cơ bị nhiễm cao hơn ở thời quá khứ xa. Tại hai nước với cùng kiểu mẫu này, Nhật và Đài loan, tỉ lệ mới mắc gần đây chỉ ra rằng người già tiếp tục ở nguy cơ nhiễm HCV. Những nghiên cứu tập trung hướng tới những vùng dịch tể cao hơn cho thấy tỉ lệ mới mắc của nhiễm HCV vào khoảng từ 110 trên 10.000 người ở Đài loan đến 28 – 36 trên 10.000 người ở Nhật. Tuổi trung bình của những người mới nhiễm HCV là 50 tuổi ở cộng đồng Đài loan và 40 và 60 tuổi ở hai cộng đồng người Nhật riêng biệt. III.NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ CHO SỰ LÂY TRUYỀN: Những thông tin chắc chắn nhất về những yếu tố nguy cơ liên quan đến việc bị nhiễm được thu thập từ những nghiên cứu cộng đồng (tiền cứu), những nghiên cứu này so sánh những tỉ lệ mới nhiễm giữa những tỉ lệ có và không có một đặc điểm cụ thể , và những nghiên cứu có kiểm chứng (hồi cứu) để so sánh sự thường xuyên của đặc điểm này có khả năng trong suốt thời kỳ ủ bệnh giữa những người mắc bệnh cấp tínhvà những người không mắc bệnh. Những yếu tố nguy cơ của viêm
  7. gan virus C được xác định bởi những nghiên cứu này bao gồm truyền máu và những sản phẩm của máu và ghép những cơ quan đặc từ những người cho bị nhiễm, dùng thuốc tiêm trái luật, tiêm điều trị không an toàn, thao tác công việc liên quan đến máu (kim tiêm bị nhiễm đầu tiên), được sanh ra bởi mẹ bị nhiễm bệnh, sex với một người bị nhiễm, và sex tập thể . Giữa những đặc điểm đó, việc truyền từ người cho không được sàng lọc, dùng thuốc tiêm, và tiêm điều trị không an toàn là quan trọng nhất; tuy nhiên, có khác nhau về địa lý và thời gian ở từng nơi để những yếu tố nguy cơ này làm lây lan bệnh HCV .(bảng 1) Nhiễm HCV liên quan đến truyền máu đã là một nguy cơ toàn thế giới trước khi việc kiểm tra HCV trở thành có khả năng; Từ sau đó, nguy cơ này đã được loại trừ một cách thật sự ở những nước mà có chu trình thực hiện kiểm tra HCV của người cho máu , cơ quan….Việc dùng thuốc tiêm trái luật đã là một kiểu nổi bật cho việc truyền bệnh trong suốt 40 năm trước ở những đất nước, nơi mà điều nổi cộm của việc nhiễm HCV đã ảnh hưởng đầu tiên đến những người thanh niên, như Uc và Mỹ, được tính là khoảng 80% những người nhiễm ở Uc và 60% ở Mỹ. Mặc dù những tỉ lệ nhiễm cộng dồn giữa những người trẻ dùng thuốc tiêm trong suốt 2 đến 3 năm đầu tiên của việc tiêm thì thấp ở những năm gần đây, việc giảm từ 80% trong suốt những năm cuối của thập niên 1980 xuống còn 30% trong những năm cuối của thập niên 1990, tỉ lệ mới mắc ở những người tiêm mới vẫn còn cao, khoảng từ 15% đến 30% mỗi năm. Những nghiên cứu gần đây về các yếu tố liên quan đến việc nhiễm HCV giữa những người dùng thuốc tiêm cho thấy việc chia sẻ đồ dùng cá nhân liên quan đến việc dùng thuốc như bông gòn, kim và ống chích, cũng thuận lợi cho việc truyền HCV giữa những người trong nhóm nguy cơ này. Những kết quả này chỉ ra rằng những lời khuyên làm giảm nguy hại cần được phổ biến rộng rãi để ngăn ngừa những trường hợp nhiễm HCV mới, đặc biệt là giữa những người tiêm chích trẻ tuổi. Ơ những đất nước, nơi nguy cơ nhiễm HCV gia tăng đã diễn ra trong quá khứ xa (ví dụ như Ý), việc dùng thuốc tiêm đóng vai trò thứ yếu; tuy nhiên, việc đóng góp của nó đối với việc lây truyền gần đây hơn đang gia tăng. Ở Ý, hiện nay tỉ lệ mới
  8. mắc HCV cao nhất được thấy ở những thanh niên; tuổi trung bình của những người mới nhiễm viêm gan virus C là 32 tuổi, với 50% những người này bị nhiễm này có một tiền sử dùng thuốc tiêm. Ở Nhật, tỉ lệ mới mắc HCV cao nhất ở vùng ngoại ô là những người thanh niên ; tuy nhiên, như mô tả ở trên, những vùng nông thôn có dịch tể cao, những người lớn tuổi vẫn còn là nhóm nguy cơ nổi trội. Người ta ước tính khoảng 2 triệu người nhiễm HCV được ghi nhận hàng năm từ việc tiêm điều trị gây nên bệnh. Tiêm không an toàn bởi những người chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp được coi là hình thức nổi cộm của việc truyền HCV ở hầu hết các nước đang phát triển và có thể tính toán là trên 40% tổng số người nhiễm HCV trên toàn thế giới. Ở nhiều nước đang phát triển, việc cung cấp kim tiêm vô trùng có thể không đầy đủ và không sẵn có; việc quản lý những người không chuyên tiêm chích thường nằm ngoài kiểm soát y tế; và việc tiêm chích các dược phẩm mà có thể dùng bằng đường uống. Thêm vào đó những dụng cụ tiêm không an toàn, thiếu chú ý một cách thích hợp đối với việc dùng dụng cụ sạch và nhiễm trong bệnh viện và việc quản lý nha khoa cũng có thể là một nguồn cho việc truyền HCV. Ở Mỹ, những chu trình liên quan đến chăm sóc sức khỏe thì không có liên quan đến nhiễm viêm gan virus C khi được đánh giá bởi những nghiên cứu có kiểm chứng. Tuy nhiên, việc bộc phát của nhiễm HCV được báo cáo ở những trường hợp thẩm phân phúc mạc, bệnh nhân nội trú trong bệnh viện, bệnh nhân điều trị ngoại trú, và những phòng khám tư. Những bộc phát này liên quan đến việc dùng dụng cụ bị nhiễm và việc thực hiện tiêm chích không an toàn, bao gồm việc dùng lại kim và xi lanh dùng một lần và nhiễm bởi những lọ thuốc dùng nhiều liều. Hầu hết, những người làm công việc chăm sóc sức khoẻ bị nhiễm được bị lây truyền HCV từ bệnh nhân. Có 11 đoạn tư liệu được báo cáo trên thế giới, 3 trong số đó thực hiện ở Mỹ. kiểu lây truyền được bác cáo là không ai có liên quan đến nhữnng quá trình xâm lấn; hầu hết người ta kết luận việc lây nhiễm của những bệnh nhân dùng thuốc gây nghiện là tự tiêm sau khi được dùng bởi một nhân viên chăm sóc sức khỏe, gồm 2 đến 3 fần báo cáo ở Mỹ. Thêm vào đó, không như nguy
  9. cơ lây nhiễm của viêm gan virus B từ một người chăm sóc sức khỏe bị nhiễm, nguy cơ nhiễm viêm gan virus C thì rất thấp vào khoảng 0,5%, mặc dù vậy bao gồm cả những phẫu thuật viên. Thêm nữa, hai nghiên cứu hồi cứu về những phẫu thuật viên nhiễm viêm gan virus C cho thấy không có bằng chứng về việc nhiễm từ nhiễm bệnh nhân của họ . Những thể hiện có khả năng đối với máu thông qua việc dùng thuốc không tiêm chích bất hợp pháp và những quá trình mỹ phẩm, bao gồm: xăm mình, hít cocain, không có liên quan với nhiễm HCV theo những nghiên cứu có kiểm chứng, như kết quả từ những nghiên cứu cắt ngang thì trái ngược. Dân số nghiên cứu có những khác biệt nhiều và bao gồm những người tình nguyện cho máu, những bệnh nhân ngoại trú lâm sàng được lựa chọn nguy cơ cao, những sinh viên cao đẳng và thanh niên bị nghi ngờ. Một tiền sử có dùng cocain bằng đường mũi được xác định được coi như một nguy cơ có thể trong 1 của 6 nghiên cứu đánh giá vấn đề này và xăm mình thì có khả năng là nguy cơ được xác định 3 trong 8 nghiên cứu, mặc dù có khoảng 10% những cá nhân được nghiên cứu thú nhận có hít cocain và 20% đã có xăm mình. Thêm và đó, những thói quen này hiếm được báo cáo trong những trường hợp của những người viêm gan virus C cấp được xác định dùng thuốc tiêm chích . Những nghiên cứu phân tầng hay rộng lớn có thể xác định những liên quan có thể để yêu cầu những nghiên cứu thêm; tuy nhiên, bởi vì sự liên quan thời gian giữa sự biểu hiện và những truyền nhiễm thường không biết được, kết quả của những nghiên cứu này không thể chứng minh những liên quan thay nguyên nhân của những quan hệ. Hơn nữa, những kết luận từ những cá thể nghiên cứu được lựa chọn chặt chẽ không thể tổng quát hóa đối với những cộng đồng dân cư khác; những khác biệt đáng kể trong phương pháp luận dẫn đến những kết luận mẫu thuẫn giữa những nghiên cứu; và những kết luận không thiết lập được một cách thật sự, không thể giải thích như đã có liên quan đến việc lây nhiễm. Mặc dù những dụng cụ và những thao tác cũng như việc hút cocain và xăm mình có thể kết luận một cách hợp lý trong việc lây truyền HCV, nhưng việc thường xuyên của
  10. việc lây truyền như thế có thể là quá thấp để phát hiện, và không có những dữ liệu cụ thể để chỉ ra rằng những vấn đề đó là những yếu tố nguy cơ cho việc thu nhận nhiễm HCV ở Mỹ. Ngược lại có những thay đổi về thời gian và địa lý trong phân bổ việc lây truyền HCV với việc truyền máu từ những người cho không sàng lọc, việc dùng thuốc tiêm chích không đúng quy cách, và việc tiêm chích điều trị không an toàn, những phân bổ bao gồm nghề nghiệp, trong khi sanh, và hoạt động tình dục nguy cơ cao được coi có liên quan hằng định không kể thời gian, với sự thay đổi địa lý . (bảng1) Những nghiên cứu tiền cứu về những người chăm sóc sức khỏe sau khi có những biểu hiện rõ ràng việc lây nhiễm HCV được xác định có liên quan với những kim chích bi nhiễm là 1,8%. Cũng có nhiều trường hợp báo cáo việc truyền nhiễm HCV từ máu bắn lên mắt và một từ máu tiếp xúc với da bị trầy. Nguy cơ lây nhiễm HCV từ một bà mẹ bị nhiễm đến đứa bé mới sanh của bà ấy là khoảng 6% và chỉ xảy ra trong trường hợp mà những bà mẹ có HCV (+) vào lúc đẻ. Việc đẻ và nuôi con bằng sữa mẹ không liên quan đến bất kỳ nguy cơ gia tăng nào, trong khiviệc đồng nhiễm HIV/ HCV gia tăng nguy cơ ít nhất 3 lần. Giữa những cặp quan hệ một vợ một chồng trong thời gian dài, nguy cơ việc truyền nhiễm HCV từ một người bị nhiễm mạn tính đối với người bạn tình của cô ấy/ anh ấy là thấp. Nguy cơ nhiễm gia tăng đối với những người có hoạt động tình dục không an toàn đối với nhiều bạn tình. Hầu hết những nhiễm HCV có thể xem có những yếu tố nguy cơ liên quan đến việc tiếp cận đối với máu ở dưới da hay trong cơ. Ở Mỹ, hầu hết những trường hợp (68%) mắc bệnh viêm gan virus C mới có liên quan đến việc dùng thuốc tiêm chích; 18% xảy ra giữa những người không có nhhững nguy cơ khác ngoại trừ tiếp cận đối với bạn tình bị nhiễm hay có nhiều bạn tình; và 4% xảy ra ở những người chăm sóc sức khoẻ thường xuyên tiếp cận với máu. Bệnh gây ra do bác sĩ, nhiễm thời kỳ chu sinh gộp lại vào khoảng 1% . Một ổ bệnh không được xác định chỉ trong 9% những trường hợp. Điểm khác biệt chính giữa những trường hợp mắc
  11. viêm gan virus C gần đây và những trường hợp này trước 1990 là sự phân bổ của việc truyền máu, một ổ bệnh thì rất hiếm ở ngày nay. IV.CHIẾN LƯỢC KIỂM SOÁT VÀ NGĂN NGỪA Phạm vi đối với những dụng cụ hay thói quen ảnh hưởng đến sự lây nhiễm thay đổi theo địa lý và thời gian, và kế hoạch cho việc ngăn ngừa và kiểm soát nhiễm HCV, và quan trọng của nó là sao cho phù hợp với mô hình dịch tể học của cả việc lây nhiễm ở quá khứ và hiện tại. Khắp thế giới, việc ngăn ngừa những lây nhiễm mới yêu cầu những quá trình cho việc chắc chắn cung cấp máu an toàn, bổ sung những thiết bị kiểm soát việc tiêm chích đúng cách, và ngăn ngừa sự khởi đầu của thuốc và hành vi tình dục nguy cơ cao. Ở nhiều nước với kinh tế đã phát triển nhiều, những cơ sở hạ tầng của sức khoẻ cộng đồng, y tế, những chương trình cũng được yêu cầu phải xác định, dự kiến, và cung cấp việc quản lý y tế cho những người đã bị nhiễm bởi vì những người bị nhiễm mạn tính là kho dự trữ lớn. Kiểm tra nên được thực hiện định kỳ đối với những người có khả năng nhất bị nhiễm HCV, những người nên yêu cầu quản lý y tế và nên được bổ sung những đề nghị thích hợp, sự tiếp tục của y tế. Việc xác định những người nào là có nguy cơ để đề nghị họ việc kiểm tra định kỳ được dựa vào những cân nhắc khác nhau, bao gồm sự liên hệ dịch tể đã được biết giữa một yếu tố nguy cơ và việc bị nhiễm HCV, tần xuất của nguy cơ hành vi hay đặc điểm trong dân số, tần xuất nhiễm giữa những người với một nguy cơ hành vi hay một đặc điểm nguy cơ, và việc cần thiết cho nhiều người tiếp cận sự nhận biết để dự tính được việc truyền nhiễm. Sự biểu hiện của một yếu tố nguy cơ thì không cần thiết bằng “yếu tố nguy cơ tăng”. Ví dụ, việc dùng thuốc tiêm chích bất hợp pháp, nhiều bạn tình, hay tiếp cận mang tính nghề nghiệp đối với máu là những yếu tố nguy cơ cho việc nhiễm HCV; tuy nhiên, tỉ lệ nhiễm HCV giữa những người dùng thuốc tiêm là cao (60% đến 90%), trong khi tỉ lệ giưã những người có bệnh lây truyền quan đường tình
  12. dục thì sự liên hệ thấp (5% cho tất cả và 2% giưã họ được báo cáo là không hề sử dụng thuốc tiêm chích bất hợp pháp), trong khi những tỉ lệ ở những người có nguy cơ về việc tiếp cận có tính chất nghề nghiệp như phẫu thuật viên, y tá, và những người xử lý cấp cứu (1% đến 3%) . Tương tự như vậy, những tỉ lệ nhiễm HCV ở những người có tiền sử hít cocain, xăm mình, hay đâm chích cơ thể thì cũng thấp (
  13. khoa ,và những dữ liệu đãđược giới hạn chỉ ra rằng những người nhiễm gần đây, được phát hiện, hay không thường xuyên với việm gan virus C mạn có thể điều trị thành công với những thuốc chống virus. Thêm vào đó, những người dùng thuốc tiêm chích sẽ nhận vắc xin viêm gan virus A,B, đặc biệt khi những vắc xin được cung cấp bện cạnh sự chăm sóc của họ. Kết luận, kế hoạch làm giảm hay bài trừ yếu tố nguy cơ có khả năng cho việc truyền HCV từ nnhững người cho bị nhiễm, bao gồm sự sàng lọc và kiểm tra người cho và việc bất hoạt virus ở những sản phẩm có nguồn gốc từ huyết thanh, cho thấylà rất thành công, và những ổ cần được xác định để lan rộng những dụng cụ đó đối với những đất nước có những ổ nghèo. Kế hoạch cho việc loại trừ nguy cơ lây nhiễm HCV từ những dụng cụ tiêm chích không an toàn cần được phát huy rộng khắp thế giới. Ở những đất nước nơi nhưng nguy cơ nghiêm trọng của việc truyền nhiễm HCV là từ những hành vi nguy cơ cao, việc giảm và ngăn ngừa nguy cơ được kiến nghị và những dịch vụ cần được bổ sung thiết bị rộng rãi hơn. V.TÓM TẮT – NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG LÂM SÀNG Hầu hết những lây nhiễm HCV có thể được coi bởi những yếu tố o nguy cơ liên quan với việc tiếp cận dưới da hay cơ đối với máu. Ở Mỹ, 65% những người nhiễm HCV ở 1990 là 30 -49 tuổi. Việc o dùng thuốc tiêm bất hợp pháp là hình thức quan trọng cho việc tiêm truyền suốt 40 năm trong quá khứ và được đánh giá là khoảng 60% tất cả những người nhiễm. Những nghiên cứu gần đây về những yếu tố nguy cơ liên quan đến o nhiễm HCV giữa việc dùng thuốc tiêm chích cho thấy rằng việc chia sẻ thuốc đồ dùng cá nhân như đồ nấu bếp, bông gòn và không chia
  14. sẻ kim và xy lanh, thì thuận lợi cho việc truyền nhiễm HCV giữa những người trong nhóm nguy cơ đó, chỉ ra rằng những thông điệp giảm tác dụng có hại cần được mở rộng. Những bộc phát của nhiễm HCV gần đây được báo cáo ở những o bệnh nhân nội trú trong bệnh viện, những bệnh nhân ngoại trú phòng khám, và những phòng khám tư . NHững bộc phát này có liên quan đầu tiên đến những dụng cụ thực hiện tiêm chích không an toàn, bao gồm việc dùng lại những kim tiêm và xy lanh dùng một lần và làm nhiễm bệnh từ những lọ dược phẩm có nhiều liều. Nguy cơ cho việc lây nhiễm HCV từ một người chăm sóc sức khỏe o bị nhiễm là rất thấp. Tần xuất nhiễm HCV là thấp (< 1%) giữa những người hút cocain và o đã xăm mình, và không có những dữ liệu chắc chắn chĩ ra rằng hít cocain và xăm mình là những yếu tố nguy cơ cho việc bị mắc HCV ở M ỹ. Nguy cơ cho việc truyền nhiễm HCV từ một người mẹ bị nhiễm đến o đứa trẻ bà ấy sinh ra là khoảng 6% và chỉ xảy ra trong trường hợp của những bà mẹ có HCV RNA (+) là thời điểm sanh. Việc sanh và nuôi con bằng sữa mẹ không liên quan đên bấy kỳ một nguy cơ gia tăng nào, trong khi việc đồng nhiễm HIV/ HCV gia tăng nguy cơ ít nhất là 3 lần. Việc kiểm tra nên được thực hiện một cách định kỳ đối với những o người có khả năng nhiều nhất bị nhiễm HCV, những người nên quản lý y khoa và nên được phối hợp bở những lời khuyên phù hợp và sự tiếp tục của y tế, bao gồm những người đã từng dùng thuốc tiêm chích bất hợp pháp, nhận những sản phẩm có nguồn gốc từ huyết thanh được biết bị lây nhiễm HCV mà không được điều trị bằng virus bất hoạt (ví dụ, được sản xuất trước 1987), nhận truyền máu hay ghép tạng đặc trước tháng 7/1992, đã từng nhận điều trị phẩm
  15. phân máu mạn tính, hay có bằng chứng bệnh về gan ( ví dụ, alanine aminotransferase bất thường tồn tại). Đáp ứng với việc cần thiết phải quan lý sau tiếp xúc, việc kiểm tra o HCV cũng nên thực hiện định kỳ cho những người chăm sóc sức khỏe sau khi tiếp cận với kim chícch hay cơ có HCV (+)/máu và cho những trẻ em được sanhra cho mẹ HCV (+). Ở những đất nước, nơi việc dùng thuốc tiêm chích là một trong o những yếu tố nguy cơ quan trọng của việc nhiễm HCV, những ban ngành ngăn ngừa viêm gan virus nên hợp nhất thành tổ chức để cung cấp sự chăm sóc định kỳ đối với những người trong nhóm nguy cơ cao này. Bảng 1. Sự khác nhau về địa lý đối với các dạng lây nhiễm HCV Dạng lây nhiễm Anh hưởng tùy địa phương nhiễm HCV Thấp Trung bình Cao Tiêm chích không hợp pháp ++++ ++ + Truyền máu +++ +++ +++ Tiêm chích không an toàn + ++++ ++++ Nghề nghiệp + + + Sinh đẻ + + + Tình dục ++ + +/- Bảng 2. Những đề nghị về việc kiểm tra HCV định kỳ
  16. Kiểm tra HCV định kỳ được đề nghị Kiểm tra HCV định kỳ không được đề nghị Dựa vào nguy cơ gia tăng cho nhiễm Xác định nguy cơ nhưng tỉ lệ HCV lưu hành thấp -Đã từng dùng thuốc tiêm bất hợp pháp -Những người chăm sóc sức khỏe -Nhận yếu tố máu trước 1987 -tiền sử có bệnh lây qua đường -Đã nhận máu/ cơ quan trước 7/1992 tình dục hay nhiều người bạn tình -Đã từng thẩm phân máu mạc -những ngườicó bạn tình lâu năm -Có bằng chứng về bệnh gan có HCV (+) Dựa vào việc cần thiết cho việc quản lý Không xác định yếu tố nguy cơ sau tiếp cận và tỉ lệ lưu hành thấp -những người chăm sóc sức khỏe sau khi -Những người dùng cocain bằng tiếp xúc với kim tiêm hay niêm mạc có đường mũi -tiền sử: xăm mình, xỏ lỗ tai HCV (+) -trẻ em được sanh ra bởi những người mẹ HCV (+)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2