intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vua Chiêm Thành là người Việt 5

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

75
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vua Chiêm Thành là người Việt 5 Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành là do có nhiều điều kiện khách quan làm tiền đề, nhưng tựu trung chủ yếu vẫn là do chiến công oanh liệt của Lê Hoàn đã chém chết Tỳ Mi Thuế, đốt cháy Đồng Dương và chiếm đóng già nửa nước Chiêm Thành. Sự nghiệp bình Chiêm của nhà Tiền Lê quả là lớn lao, dẫu các đời thịnh trị Lý, Trần về sau, trong lãnh vực này, cũng không hơn được. Do đó, luận giải giản đơn và dễ dàng được chấp nhận nhất...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vua Chiêm Thành là người Việt 5

  1. Vua Chiêm Thành là người Việt 5 Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành là do có nhiều điều kiện khách quan làm tiền đề, nhưng tựu trung chủ yếu vẫn là do chiến công oanh liệt của Lê Hoàn đã chém chết Tỳ Mi Thuế, đốt cháy Đồng Dương và chiếm đóng già nửa nước Chiêm Thành. Sự nghiệp bình Chiêm của nhà Tiền Lê quả là lớn lao, dẫu các đời thịnh trị Lý, Trần về sau, trong lãnh vực này, cũng không hơn được. Do đó, luận giải giản đơn và dễ dàng được chấp nhận nhất về vấn đề sử cũ nước ta không đề cập đến chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành là một khi đã nói đến chuyện Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành, thì phải nói đến chuyện Lưu Kế Tông được cắt cử ở lại chỉ huy đạo quân chiếm đóng già nửa nước Chiêm Thành, nghĩa là phải nói đến sự nghiệp bình Chiêm vô cùng hiển hách của Lê Hoàn. Gia dĩ, Lê Hoàn không có sử thần để lưu lại các trước tác tán tụng công đức, triều Tiền Lê lại quá ngắn ngủi, con không nối đ ược nghiệp cha, còn nói gì đến việc ghi chép công trạng mở nước của đời vua trước. Tiếp đến các triều Lý Trần, sự nghiệp bình Chiêm, hoặc là không có gì vượt trội hơn, hoặc là bị lu mờ trước vai tuồng trọng yếu của giới khăn yếm (Ỷ Lan (7) đời Lý, Huyền Trân (8) đời Trần), cho n ên đối
  2. với công nghiệp của Lê Hoàn, các sử quan đời sau đã vì chúa của mình mà lược bớt. Cũng cùng một lề lối suy luận giản đơn và dễ dãi như vậy, có người cho rằng hành động phản phúc của Lưu Kế Tông, cho dù tội nhẹ bỏ ngũ trốn ở lại, hay tội nặng hơn tự lập làm vua Chiêm Thành, là một chuyện không mấy tốt đẹp theo tinh thần chính thống nho giáo, bởi lẽ Lưu Kế Tông, dưới con mắt phán xét của các sử quan các triều đại phong kiến, là kẻ phản thần bạn nghịch, là tấm gương xấu xa không đáng để người đời sau biết đến, nên lược bỏ không chép. Chuyện Lưu Kế Tông liên quan mật thiết đến việc vua Lê Đại Hành lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành. Cũng như đối với vụ Lưu Kế Tông tự lập làm vua, sử cũ nước ta hoàn toàn không đề cập đến vụ Lê Hoàn lưu quân. Hơn n ữa, không phải chỉ có các sử gia đời sau không nhắc nhở đến việc lưu quân, mà chính ngay đương thời triều đình Tiền Lê cũng tránh né đả động đến chuyện này. Rõ ràng là nhà cầm quyền ở Hoa Lư tìm cách phủ nhận tất cả mọi liên hệ với các vụ việc xẩy ra ở phía nam đèo Ngang sau năm 983 là năm Lê Hoàn rút đại quân ra khỏi Chiêm Thành, và lưu lại một đạo quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Lưu Kế Tông để chiếm đóng một miền rộng lớn vừa được bình định, kéo dài từ đèo Ngang đến mũi Varella. Vấn đề lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành là
  3. một hạng mục gay go trong các cuộc th ương thảo ngoại giao giữa nhà Tống Trung Quốc và triều đình Tiền Lê Đại Cồ Việt. Tuy đã đánh bại 2 đạo binh thủy bộ của nhà Tống vào tháng 3 năm 981, Lê Hoàn luôn luôn tiến hành các cuộc vận động ngoại giao với nhà Tống để cầu phong. Liên tiếp trong các năm 981, 982, 983, Lê Hoàn gửi sứ bộ mang cống phẩm sang Tống triều lo việc thông hiếu. Mặt khác, Chiêm Thành là nước phiên thuộc của nhà Tống, vuốt mũi phải nể mặt, triều đình Đại Cồ Việt luôn luôn phải giải thích với nhà Tống lý do của việc chinh phạt Chiêm Thành năm 982 cũng như phải biện bạch về các dữ kiện chính trị và an ninh xẩy ra ở Chiêm Thành từ năm 983 trở về sau. Chính sách ngoại giao của nhà Tống lúc bấy giờ đối với 2 nước phiên thuộc phương nam là làm trung gian h òa giải cuộc xung đột Chi êm Việt, đồng thời sử dụng lá bài công nhận ngoại giao (tấn phong) một cách nhỏ giọt đối với Đại Cồ Việt để tạo áp lực ngăn cản Lê Hoàn thôn tính Chiêm Thành. Do đó mà năm 982, Lê Hoàn ch ỉ được nhà Tống phong Tĩnh Hải Tiết Độ sứ. Đến năm 989, qua bao nhiêu biến cố dồn dập và những nổ lực liên tục của các sứ bộ, Lê Hoàn cũng chỉ mới được phong An Nam Đô Hộ Tĩnh Hải Tiết Độ sứ Kinh Triệu Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái Úy. Chỉ sau khi Lê Hoàn chịu bãi binh nghị hòa (năm 990), rút quân ra khỏi châu Địa Lý theo
  4. chiếu chỉ của Tống Thái Tông, và trao trả tù binh cho Chiêm Thành (năm 992), năm 993, niên hiệu Thuần Hóa thứ 4 đời Tống Thái Tông, Lê Hoàn mới được nhà Tông phong làm Giao Chỉ Quận vương (5). Những hoạt động ngoại giao quanh co khúc mắc vừa kể trên đã giải thích lý do triều đình Hoa Lư phủ nhận sự liên hệ với các hành trạng của Lưu Kế Tông trên đất Chiêm Thành từ năm 983 trở về sau. Triều đình Hoa Lư trước sau đều nói với các sứ giả nhà Tống rằng Lưu Kế Tông là một tên đào ngũ, đã bị vua Lê sai con nuôi đi đuổi bắt và chém chết từ năm 983. Triều đình Hoa Lư nhất mực chối từ trách nhiệm về hoạt động của những người lính Đại Cồ Việt đồn trú trên đất Chiêm Thành dưới quyền Lưu Kế Tông bằng cách rêu rao rằng họ là những người trốn ở lại. Triều đình Hoa Lư giả tảng không biết Lưu Kế Tông là ai, làm ngơ để mặc Lưu Kế Tông muốn làm gì thì làm, kỳ thực thì tất cả các hoạt động của Lưu Kế Tông đều do Hoa Lư chỉ đạo. Thậm chí việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua sau khi Indravarman IV chết cũng do sự dàn dựng của Hoa Lư. Thực vậy, nếu vua Lê Đại Hành rút hết đại binh về năm 983, không lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, thì hà cớ gì triều đình Hoa Lư phải quanh co, úp mở, che dấu, thậm chí bịa đặt chuyện Lưu Kế Tông trốn ở lại, bị bắt, và bị chém chết. Nếu Lưu Kế Tông là một kẻ phản bội, năm 983 đào
  5. ngũ, trốn ở lại một thân một mình, không có đạo quân trú phòng trong tay, thì làm sao năm 986 lại có thể tự lập làm vua Chiêm Thành. Nếu Lưu Kế Tông là một kẻ phản bội, năm 986 tự tung tự tác lên ngôi vua, cử sứ bộ sang Tống triều cầu phong, thì tại sao vua Lê Đại Hành không phát binh hỏi tội Lưu Kế Tông, mà phải đợi đến sau khi Lưu Kế Tông chết, Xri Harivarman II khôi phục hầu như toàn bộ đất cũ, vua Lê Đại Hành mới sai quân đánh châu Địa Lý lúc này đã trở lại trong tay người Chiêm Thành. Kết luận. Chuyện một người Việt tên Lưu Kế Tông, vốn là một võ quan trong đạo quân nam chinh của vua Lê Đại Hành, đã lên làm vua Chiêm Thành là một chuyện có thực, được sử nhà Tống ghi chép rành rẽ, nhưng sử cũ nước ta hoàn toàn không dề cập đến. Với tài trí siêu việt của vua Lê Đại Hành, cùng với quân lực hùng hậu của Đại Cồ Việt thuở bấy giờ, nước ta có thừa khả năng thu phục toàn bộ quận Nhật Nam ngày trước. Nhưng nhà Tống không muốn Giao Châu trở nên quá mạnh, đích thân vua Tống Thái Tông đã đứng ra hòa giải để ngăn cản Đại Cồ Việt thôn tính Chiêm Thành, dùng lá bài tấn phong làm áp lực buộc vua Lê Đại Hành rút quân. Mặt khác, vua Lê Đại Hành tuy vừa oanh liệt đánh bại quân Tống, nhưng vẫn muốn
  6. thông hiếu với Trung quốc, nên trước đòi hỏi của Tống triều, vua Lê lúc đầu, bề ngoài thì minh thị rút quân nhưng bên trong thì âm thầm bố trí đạo binh Lưu Kế Tông ở lại chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, và về sau, khi Lưu Kế Tông chết, người Chiêm Thành nổi dậy chiếm lại đất cũ, vua Lê buộc lòng ra mặt cất quân đánh châu Địa Lý để rồi cuối cùng chịu bãi binh chỉ giử lại châu Bố Chính (9) và đổi lấy việc phong vương trong mục đích tranh thủ Tống triều tiếp tục chính thức thừa nhận nền tự chủ của Đại Cồ Việt. Cái tước quận vương Giao Chỉ của nhà Đinh và nhà Tiền Lê Đại Cồ Việt buổi đàu dựng cờ tự chủ đã mở đường cho cái tước quốc vương của các triều đại sau này và việc hình thành quốc gia Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam, độc lập và thống nhất. Chính sách ngoại giao kiên trì, mềm dẽo và khôn khéo của vua Lê Đại Hành xuyên qua câu chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp mở nước của dân tộc ta. Và Lưu Kế Tông là kẻ có công chứ không phải là người có tội. ---------------------------------------- Chú thích.
  7. (1) Sử nhà Tống chép rằng trong năm 986, đời Tống Thái Tông, ni ên hiệu Ung Hy thứ 3, sứ giả của Lưu Kế Tông là Lý Triều Tiên mang phẩm vật sang tiến cống. (2) Sử nhà Tống chép rằng trong năm 986, đời Tống Thái Tông, ni ên hiệu Ung Hy thứ 3, biên thần Đạm Châu (Hải Nam) tâu rằng người Chiêm là bọn Bồ La Át bị Giao Châu bức bách nên đem hơn 100 người trong họ chạy sang xin qui phụ. (3) Tiếc rằng ngày nay không tìm thấy sử liệu nào đề cập đến các lời biện giải này. (4) Sử nhà Tống chép trong năm 987, huyện Thanh Viễn, Nam Hải, thuộc Quảng Châu, tiếp nhận 150 người Chiêm đến xin tỵ nạn. Năm 988, niên hiệu Đoan Cung năm đàu, biên thần Quảng Châu lại tâu có thêm 301 người Chiêm xin qui phụ. (5) Lê Hoàn được nhà Tống tấn phong như sau: -Năm 982 Tĩnh Hải Tiết Độ sứ; -Năm 989 An Nam Đô hộ Tĩnh Hải Tiết Độ sứ Kinh Triệu Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái úy; -Năm 993 Giao Chỉ Quận vương; -Năm 997 Nam Bình vương.
  8. (6) Năm 989, niên hiệu Hưng Thống năm đầu triều Lê Đại Hành, Quản giáp Dương Tiến Lộc làm phản, đem một số thủ hạ người châu Hoan châu Ái chạy sang Chiêm Thành xin qui phụ, nhưng vua Chiêm Harivarman II không thu nhận. (7) Năm 1069, Lý Thánh Tông đem 5 vạn binh đi đánh Chiêm Thành. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: "Tháng 2, vua thân chinh Chiêm Thành, đánh m ãi không thắng, đem quân trở về, đến châu Cư Liên, nghe tin nguyên phi Ỷ Lan trông nom việc nội trị, lòng dân hòa hợp, trong nước yên tĩnh, thẹn nghĩ mình là phận mày râu mà không bằng khách má phấn, bèn quay binh trở lại đánh, và thắng trận". (8) Năm 1306, Trần Anh Tông gã em gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên và Đà Nẵng). (9) Sử cũ chép năm Kỷ Dậu (1069), niên hiệu Thiên Huống Bửu Tượng thứ 2, tháng 2, ngày Mậu Tuất, vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh, và được tha về. Sử cũ chép như vậy là đã chép để chính thức hóa châu Bố Chính vốn đã thống thuộc Đại Việt trong thực tế từ đời Lê Đại Hành. Thực vậy, năm 990, vua Lê Đại Hành sai quân đánh châu Địa Lý, và năm 992, sai Ngô Tử An đắp
  9. đường bộ từ cửa Nam giới để đến châu Địa Lý, như vậy, nếu châu Bố Chính trong thực tế chưa thống thuộc Đại Cồ Việt thì lẽ ra vua Lê phải sai quân đánh châu Bố Chính trước, cũng như phải đặt vấn đề làm sao Ngô Tử An có thể mở đường xuyên qua châu Bố Chính nghĩa là trên đồng đất nước người. Hơn nữa, năm 1075, niên hiệu Thái Ninh thú 4, vua Lý Thánh Tông xuống chiếu đổi châu Địa Lý l àm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và chiêu mộ dân đến lập nghiệp ở các châu ấy, không nhắc nhở gì đến châu Bố Chính. Điều này phù hợp với nhận xét của giáo sĩ Cadière rằng từ Bố Trạch (Địa Ly) đến Gio Linh (Ma Linh), dân Việt qui tụ người cùng họ để lập thành làng (Ngô xá, Phan xá, Hoàng xá, Hồ xá v.v.), một hiện tượng không thấy có ở Quảng Trạch, Tuyên Hóa (Bố Chính). Nói khác đi, khi dân Việt hưởng ứng chiếu di dân của Lý Thánh Tông đến lập nghiệp ở Lâm Bình và Minh Linh thì ở Bố Chính đã có dân Việt đến định cư từ trước rồi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2