CHƯƠNG 3<br />
<br />
XÃ HỘI DÂN S ự ở THÁI LAN<br />
3.1ế N g u ồ n gôc lịc h sử c ủ a xả h ội d â n sự T h á i L an<br />
Cùng nhằm mục tiêu đặt ra cho mục 2.1 ở trên, mục<br />
này sẽ thử tìm hiểu những hình thức tố chức sớm, hay tiền<br />
thân của các<br />
Thái Lan ngày nay, đồng thời xác định<br />
những nhân tô tác động đến sự phát triển của XHDS Thái<br />
Lan đến trước những năm 1980.<br />
<br />
cso<br />
<br />
Cũng như các xã hội nông nghiệp truyền thông, trong<br />
lòng xã hội Thái từ xa xưa đã tồn tại sự cô" kết và những<br />
môi liên kết chặt chẽ theo chiều ngang ở cấp độ vi mô, làng<br />
bản, còn gọi là các thê chê không có kết cấu. Người dân cư<br />
xử và hợp tác trên cơ sở quan hệ thân tộc và những nguyên<br />
tắc tương trợ lẫn nhau, bao gồm đổi công trong việc đồng<br />
áng như trồng cấy, gặt hái mùa màng, xây cất nhà cửa và<br />
chuẩn bị các nghi lễ, hội hè... Nhà chùa đã trỏ th àn h trung<br />
tâm của đòi sông xã hội và những giao dịch xã hội nói trên.<br />
Chính vì vậy yếu tô đầu tiên và trước hết cần đề cập là<br />
P hật giáo.<br />
Ngay từ đời vua th ứ ba của nưóc Sukhothai (Nhà nước<br />
Thái thống nhất đầu tiên), vua R am kham haeng (12751317) đã lấy P hật giáo Theravada (Maha Nikaya) từ Sri<br />
165<br />
<br />
Lanka làm Quốc đạo và tư tưởng P hật giáo làm nến tảng<br />
cho đạo đức xã hội. Người Thái vui mừng đón nhận Phật<br />
giáo một cách tự nhiên và đến lượt mình, Phật giáo lại<br />
giúp củng cố và phát triển những quan niệm đạo đức vốn<br />
là bản tính của dân tộc Thái, hiền hòa th ân thiện và<br />
khiêm nhường. P hật giáo Thái Lan là P h ật giáo nhập thế.<br />
Mọi tư duy, cách ứng xử và hoạt động của người Thái, từ<br />
nhà vua cho đến dân thường, đều hướng về mục đích cao<br />
cả nhất là tu nhân tích đức, tích thiện và trừ bỏ điều ác.<br />
Giáo lý căn bản của P hật giáo đã trở th àn h định hướng<br />
của các chính sách đối nội, đối ngoại nhằm mưu cầu hoà<br />
bình, an lạc, thịnh vượng cho đất nưốc Thái Lan trong mọi<br />
thời kỳ lịch sử.1 Các vị vua Thái Lan được đánh giá “’à<br />
những vị vua duy nh ất trong vùng Đông Nam A và thê giới<br />
kiên định theo đạo P hật.”2 Năm 1932, Thái Lan đã trở<br />
thành nước Quân chủ lập hiến và bản Hiến pháp đầu tiên<br />
được xây dựng trên hai trụ cột, tinh th ần giáo lý Phật giáo<br />
và tư tưởng dân chủ. Cho đến nay, Tam bảo vẫn chiếm giữ<br />
vị trí thiêng liêng nhất và thực sự là “báu vật” của nển<br />
chính trị Thái Lan. Sau nhà vua, các vị sư tăng được tôn<br />
trọng và ngưỡng mộ nhất.<br />
Vê tô chức, ngay từ những thời kỳ đầu, Phật giáo<br />
Theravada Thái Lan có tố chức tăng đoàn (Sangha hay<br />
Tăng già) chặt chẽ từ trung ương đến địa phương và ngày<br />
càng được củng cô, kiện toàn. Tăng đoàn tồn tại độc lập vối<br />
<br />
1. Nguyển Thị Quế. Sđd, tr. 26.<br />
2. Đây là đánh giá của Chính phủ Anh thòi Ram a V. Xem:<br />
Nguyễn Thị Quế. Sđd., t i . 80.<br />
<br />
166<br />
<br />
Triều đình và sau này với cả quốc hội và chính phủ. Từ<br />
1902, Vua Rama V (Chulalongkorn) cùng Tăng vương và<br />
các lãnh đạo của Tăng già soạn thảo ra Điều ước cho Tăng<br />
già (Sangha Act năm 1902) làm cơ sở cho hoạt động của<br />
Tăng già. Điều ước 1902 sau này được thay thê bằng Điêu<br />
ước 1941 (Sangha Act 1941) ban hành thời Rama VIII.<br />
Điều ưốc này cũng đã bị huỷ bỏ và thay bằng Điều ước<br />
Tăng già năm 1962 (Sangha Act 1962).1<br />
Ngôi chùa truyền thông ở Thái Lan không chỉ là trung<br />
tâm giáo dục “đức tin” và thực hành tín ngưỡng mà còn<br />
được coi là trung tâm thông tin, giáo dục và xã hội của địa<br />
phương. Nhà chùa không chỉ dạy luân lý đạo đức, mà còn<br />
dạy đọc, viết và một số kiến thức thường thức miễn phí cho<br />
trẻ. Các cuộc lễ hội, hội họp quan trọng của làng đều diễn<br />
ra ở chùa. Các nhà sư cũng đồng thòi là các nhà tư vấn,<br />
hòa giải trong công việc của gia đình hay làng xóm. Nhà<br />
chùa cũng là điểm đến cuối cùng của những người già cô<br />
đơn không nơi nương tựa và là nơi an ủi, CƯU mang những<br />
m ảnh đời bất hạnh... Sau này, vai trò giáo dục và y tế của<br />
nhà chùa đã được các thê chê nhà nước như Bộ Giáo dục<br />
hay Bộ Y tê Cộng đồng đảm đương và vì thế, sự cố kết theo<br />
chiều ngang trong xã hội hiện đại có phần kém chặt chẽ<br />
hơn trước, trong khi sự phụ thuộc vào N hà nước tăng lên.<br />
Mặc dù vậy, các th àn h viên Tăng đoàn vẫn có những đóng<br />
<br />
1. Theo giới thiệu cuốn sách của P h ra m a h a Vorachai Kluengpho<br />
(1996): T hai Sangha G overnm ent under the Sangha Act o f 1941,<br />
http://library.car.chula.ac.th:82/search*thx?aPhornthip+Pukbhasu<br />
k ,/ ngày 19/12/2007.<br />
<br />
167<br />
<br />
góp to lớn cho xã hội cả về m ặt phát triển vật chất lẫn đời<br />
sống tinh th ần lành mạnh.<br />
Thời kỳ chê độ độc tài quân sự, P hật giáo vừa là chỗ<br />
dựa tinh th ần của nhân dân vừa cung cấp các trợ giúp xã<br />
hội đôi với dân chúng thông qua các tô chức Phật giáo<br />
thiện nguyện trong khi hầu hết các tố chức khác đã bị<br />
kiểm soát, đóng cửa. Trong những năm 1970, nhiều nhà sư<br />
trẻ dẫn đầu phong trào biểu tình của nông dân, những<br />
người cảm thấy bị Chính phủ phản bội vì không thực hiện<br />
những lời hứa thúc đẩy phát triển nông thôn.<br />
Phật giáo Thái Lan có một số phong trào cải cách nổi<br />
bật mà trước hết phải kê đến D ham m ayuttika Nikaya hay<br />
Tham m ayut Nikaya, một dòng tu do vua M ongkut (Rama<br />
IV) sáng lập năm 1833, phong trào S anti Asoke, theo<br />
nghĩa đen là Asoke Yên bình, do P hra Bodhirak thành lập<br />
sau khi ông “tuyên bô độc lập” vói Tăng già năm 197Õ và<br />
Dham m akãya Movement (hay dharm akâya chữ Sanskrit)<br />
là một phong trào hay tô chức P h ật giáo do vị thiền sư<br />
Thái Phram onkolthepm uni (1885-1959) đáng kính sáng<br />
lập ở Thái Lan năm 1916.<br />
Như vậy, với tư cách là Quốc đạo, bao trùm mọi lĩnh<br />
vực đời sông chính trị-xã hội cả trong thời kỳ hiện đại,<br />
Phật giáo T heraw ada Thái Lan đã cấu th àn h một bộ phận<br />
quan trọng của XHDS Thái Lan.<br />
Hoạt động từ thiện, tự nguyện không chỉ diễn ra trong<br />
chùa và do các tô chức P hật giáo tiến hành. Trong lĩnh vực<br />
này còn có một mô hình XHDS được coi là “bản địa” tồn tại<br />
từ hơn một thê kỷ trước, đó là các tổ chức phúc thiện của<br />
168<br />
<br />
người Hoa, như Hội ái hữu, Hội Tương th ân tương tê trong<br />
cộng đồng Hoa kiều mà hiện vẫn đang hoạt động tích cực.<br />
Bên cạnh đó còn phải kê đến các tố chức nhân đạo do các<br />
thành viên Hoàng tộc khởi xướng và bảo trợ từ thời kỳ vua<br />
Rama V.<br />
Trong giai đoạn này, một yếu tô đáng chú ý là sự hình<br />
thành cộng đồng người Hoa. Người Hoa có m ặt ở Thái Lan<br />
từ nhiều thê kỷ trước, song sô" lượng tăng lên nhanh chóng<br />
chỉ từ cuối thê kỷ XIX. Họ đến Thái Lan vối động cơ chủ<br />
yếu là làm ăn buôn bán chứ không do tác động của quá<br />
trình thực dân hoá. Nhu cầu cạnh tran h đê sinh tồn cũng<br />
như giữ gìn những bản sắc văn hóa truyền thông của mình<br />
đã thôi thúc những ngưòi Hoa di cư liên kết vối nhau<br />
thành từng tổ chức xã hội dựa trên các mối quan hệ thân<br />
tộc, huyết thông, đồng hương, đồng nghiệp. Tại Thái Lan,<br />
hình thức tố chức cộng đồng theo hình thức Hội đồng<br />
hương tương đôi phô biến và từng nhóm lập ra hội kín đê<br />
bảo vệ các th àn h viên của mình. Các hiệp hội nghê nghiệp,<br />
trường học dạy tiếng và văn hóa Trung Hoa và các tổ chức<br />
phúc lợi xã hội như đã nói trên trở nên phô biến. Giai đoạn<br />
từ sau chiến tran h đến đầu những năm 1960 là thời kỳ<br />
phát triển m ạnh mẽ của các hội quán người Hoa. Đặc biệt,<br />
các hội quán có xu hướng liên kết nhau lại và thành lập<br />
những hiệp hội. o Thái Lan thời kỳ nàv có Tông hiệp hội<br />
Hoa kiều Thái Lan, Tổng Hội tông thăn Hoa Thái Lan.<br />
Ngoài hình thức hoạt động truyền thông như cứu trợ,<br />
tương thân, tương ái mang ý nghĩa từ thiện, các tô chức xã<br />
đoàn người Hoa còn hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá,<br />
bảo vệ lợi ích kinh tê của cộng đồng, làm nghĩa vụ vói quê<br />
169<br />
<br />