Với Đại thắng mùa Xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ước của
nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Đây lâ một trong nh ững chiến th ắng l ịch s ử
oanh liệt nhất, lẫy lừng nhất của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã đánh b ại đ ế
quốc Mỹ - một đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự hùng mạnh vào bậc nhất
thế giới. Một kỷ nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Vi ệt Nam đã được
mở ra: Kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã h ội
(CNXH).
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng CNXH là một nhiệm vụ hết sức khó khăn lại
phải tiến hành trong điều kiện đất nước vừa trải qua nh ững năm tháng chi ến
tranh liên miên nên càng nặng nề và gian nan h ơn.
Nhân dân miền Bắc vừa xây
dựng CNXH vừa làm nhiệm vụ của hậu phương lớn vừa phải trực tiếp ch ống
lại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên "quá trình tiến lên sản
xuất lớn bị chậm lại vài ba kế hoạch 5 năm"(1). Vì thế, kinh tế
miền Bắc chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý
vốn nặng về tập trung quan liêu bao cấp, lại bị chi ph ối thêm b ởi quy lu ật
chiến tranh nên càng bị méo mó, phi kinh t ế. Sau năm 1975, chi ến tranh k ết
thúc, cơ chế quản lý kinh tế bộc lộ rõ hơn những bất cập của nó. Quan h ệ
sản xuất có dấu hiệu của sự khủng hoảng. Do vậy, việc chấn chỉnh lại cơ
chế quản lý kinh tế cho phù hợp với quy luật vận động là một vấn đ ề hết s ức
khó khăn.Về mặt xã hội, chiến tranh đã làm xáo trộn và gây t ổn th ất l ớn cho
lực lượng lao động, để lại hậu quả rất nặng nề và kéo dài.
Đối với miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản chủ nghĩa
(TBCN) đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp, th ương nghi ệp, tài
chính ngân hàng...và bước đầu trong nông nghi ệp. Trong ch ừng m ực nh ất
định, kinh tế ở các vùng bị tạm chiếm đã phát triển theo h ướng TBCN.
Tuy nhiên, kinh tế miền Nam chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân
đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài. Vì vậy, khi Mỹ rút quân, c ắt
giảm viện trợ, nền kinh tế miền Nam lập tức rơi vào khủng hoảng. Nhi ệm vụ
khôi phục và phát triển một nền kinh tế vốn mang tính l ệ thu ộc cao nh ư v ậy
trở nên hết sức khó khăn. Đó là chưa kể đến khó khăn ở nh ững vùng b ị tàn
phá bởi chiến tranh, bị hủy diệt bởi chất độc hóa học. Sau giải phóng, mi ền
Nam còn có sự phức tạp về mặt xã hội.Chiến tranh và quá trình c ưỡng b ức
đô thị hóa của Mỹ đã gây xáo trộn trong phân b ố l ực l ượng lao đ ộng. Nông
thôn nông nghiệp thiếu lao động. Các vùng đô thị, mật đ ộ dân s ố quá đông,
không tương xứng với sự phát triển về kinh tế.
Sau chiến tranh, quần chúng nhân dân rất phấn kh ởi, nhanh chóng b ắt tay
vào xây dựng chế độ mới, nhưng cũng còn một bộ phận, nhất là nh ững
người đã từng tham gia trong bộ máy quân sự và chính tr ị c ủa chính quy ền
Sài Gòn tỏ ra lo ngại, thậm chí có người lợi dụng Nhà nước gặp khó khăn đ ể
kích động, lôi kéo quần chúng, móc nối với các thế lực phản động bên ngoài,
gây rối loạn trong nước.
Những di hại do chế độ thực dân mới của Mỹ để lại cũng rất nặng nề như tệ
nạn ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm... ; số người thất nghiệp, đặc bi ệt là
số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.
Sau ba năm khôi phục nền kinh tế do chiến tranh tàn phá, hoà nh ịp
với trào lưu chung của thế giới, miền Bắc nước ta cũng b ước vào th ời kỳ xây
dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ch ủ nghĩa, v ận hành theo c ơ ch ế k ế
hoạch hoá tập trung. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn gi ải phóng, đ ất
nước được hoà bình thống nhất, năm 1976, chúng ta đã quy ết đ ịnh đ ưa c ả
nước cùng đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng của n ền kinh t ế xã h ội ch ủ
đuổi thời bấy giờ
nghĩa chúng ta theo là:
- Sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư li ệu sản xu ất
được biểu hiện dưới hai hình thức: toàn dân và t ập thể. T ương ứng v ới hai
hình thức sở hữu đó là hai loại hình doanh nghi ệp: Doanh nghi ệp qu ốc doanh
và hợp tác xã các loại. Kinh tế tư nhân được coi là loại hình kinh t ế phi xã h ội
chủ bị loại bỏ.
nghĩa, nên
- Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh t ế đ ều ph ải theo
sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương, tức là các doanh nghi ệp mu ốn sản
xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất bằng cách nào, sản xu ất xong tiêu
thụ sản phẩm ở đâu, với giá cả như thế nào.v.v.. tất cả đều phải theo m ột k ế
hoạch thống nhất từ ương.
Trung
phẩm cả nhà cứ phấp phỏng, rình mò và hít khói bếp.
Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng cộng
sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có
khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế
để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước. Cần phải nói rằng ngay
khi đất nước mới lâm vào khủng hoảng, trong nền kinh tế Việt Nam, dưới áp
lực của thực tiễn, đã diễn ra hai cuộc thử nghiệm quan trọng:
i) Áp dụng chế độ khoán sản phẩm đến hộ gia đình nông dân trong
Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp.
ii) Triển khai chế độ "kế hoạch 3 phần " ở các xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh. Về nguyên tắc, cả hai cuộc thử nghiệm này đều diễn ra theo một xu
hướng chung: nới lỏng các ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mở
rộng hơn phạm vi hoạt động của các quan hệ thị trường, trao nhiều quyền
chủ động kinh doanh hơn cho các chủ thể kinh tế và người lao động. Phong
trào lan rộng ra khắp nền kinh tế và đã nhanh chóng đưa lại những thành tựu
nổi bật, trước hết là trên mặt trận nông nghiệp.
Mặc dù vậy, kết quả của xu hướng cải cách này còn bị hạn chế do
việc thực hiện những cải cách theo hướng thị trường mới mang tính cục bộ
và chỉ dừng lại ở cấp vi mô, trong khuôn khổ cố gắng bảo tồn cơ chế kế
hoạch hoá tập trung ở tầm vĩ mô. Vì vậy, những cuộc thử nghiệm này tuy
đưa đến những thành tựu nổi bật trong nông nghiệp nhưng vẫn không ngăn
cản được cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên trầm trọng. Tình hình đó đã
khiến cho đổi mới trở thành một nhu cầu hết sức bức bách, là đ ỏi hỏi bức
thiết của cuộc sống.