intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xác định mức bổ sung men bánh mì khi nuôi sinh khối luân trùng Brachionus plicatilis bằng vi tảo Nannochloropsis oculata

Chia sẻ: Danh Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

41
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luân trùng Brachionus plicatilis là một loại thức ăn sống không thể thiếu trong sản xuất giống nhiều đối tượng hải sản, nhất là cá biển. Việc xác định chế độ cho ăn thích hợp khi nuôi luân trùng là một yêu cầu quan trọng để thu được sinh khối cao và ổn định.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xác định mức bổ sung men bánh mì khi nuôi sinh khối luân trùng Brachionus plicatilis bằng vi tảo Nannochloropsis oculata

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br /> VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU<br /> <br /> XÁC ĐỊNH MỨC BỔ SUNG MEN BÁNH MÌ KHI NUÔI SINH KHỐI LUÂN TRÙNG<br /> Brachionus plicatilis BNG VI TO Nannochloropsis oculata<br /> OPTIMIZATION OF SUPPLEMENTAL BAKER’S YEAST FEEDING RATES IN MASS CULTURE OF<br /> ROTIFER Brachionus plicatilis WITH MICROALGAE Nannochloropsis oculata<br /> <br /> Cái Ngọc Bảo Anh1, Helge R. Reinertsen2 và Nguyễn Hữu Dũng1<br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> Trường Đại học Nha Trang<br /> Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Na Uy<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Luân trùng Brachionus plicatilis là một loại thức ăn sống không thể thiếu trong sản xuất giống<br /> nhiều đối tượng hải sản, nhất là cá biển. Việc xác định chế độ cho ăn thích hợp khi nuôi luân trùng là<br /> một yêu cầu quan trọng để thu được sinh khối cao và ổn định. Thí nghiệm nuôi luân trùng bằng tảo<br /> Nannochloropsis oculata (cung cấp hàng ngày với mật độ 6,4 – 6,8 triệu tế bào/mL) có bổ sung<br /> thêm men bánh mì với các mức bổ sung gồm 1; 2; 3; 4; 5 và 6 g men/triệu cá thể/ngày đã được tiến<br /> hành. Sinh trưởng quần thể của luân trùng thí nghiệm được đánh giá dựa trên các tiêu chí: mật độ, tỷ<br /> lệ trứng, tốc độ sinh trưởng quần thể, biến động các yếu tố môi trường nuôi - nhiệt độ nước, pH, hàm<br /> lượng ôxy hòa tan được theo dõi liên tục trong thời gian thí nghiệm. Kết quả thí nghiệm cho thấy khi<br /> nuôi sinh khối luân trùng bằng tảo Nannochloropsis oculata, có thể bổ sung men bánh mì với mức bổ<br /> sung cần được điều chỉnh theo hướng giảm dần theo thời gian nuôi từ 5 g đến 1 g men/triệu cá<br /> thể/ngày, tùy thuộc mật độ luân trùng trong bể.<br /> Từ khóa: Brachionus plicatilis, men bánh mì, nuôi sinh khối, Nannochloropsis oculata.<br /> Abstract<br /> Rotifers Brachionus plicatilis is an irreplaceable live feed in marine seed production, particularly<br /> marine finfishes. Optimization of feeding regime in mass culture of rotifer is an important issue for<br /> predictable and high production. In the current study, rotifers were fed with microalgae<br /> Nannochloropsis oculata (6.7±0,1 millions cells/mL), supplemented with baker’s yeast at various<br /> feeding rates of 1; 2; 3; 4; 5 and 6g yeast/million rotifers/day. Water temperature, pH and dissolved<br /> oxygen were monitored during the trial. Rotifer density, egg ratio and specific growth rate of the<br /> experimental populations were analyzed to determine appropriate supplemental rate of baker’s yeast<br /> in rotifer mass production. The results showed that optimal supplement baker’s yeast feeding rate<br /> should be reduced along with culture time from 5 to 1g yeast/million rotifers/day, in accordance with<br /> the rotifer density.<br /> I. MỞ ĐẦU<br /> Luân trùng (Brachionus plicatilis Muller,<br /> <br /> nhiên, việc nuôi luân trùng hoàn toàn bằng vi<br /> tảo là điều khó thực hiện ở các trại giống vì gia<br /> <br /> 1786) được sử dụng làm thức ăn sống để ương<br /> nuôi cá bột nhiều loài cá, đặc biệt đối với cá<br /> <br /> tăng chi phí và nhân công khi phải sản xuất tảo<br /> ở qui mô lớn. Do đó, từ năm 1967, Hirata đã<br /> <br /> biển giai đoạn bắt đầu ăn ngoài. Do đó các trại<br /> sản xuất giống cá biển có nhu cầu luân trùng<br /> <br /> nghiên cứu và thấy rằng men bánh mì có thể<br /> dùng làm thức ăn thay thế vi tảo để nuôi luân<br /> <br /> với số lượng lớn để làm thức ăn cho cá con.<br /> <br /> trùng. Chính nhờ việc thay thế vi tảo bằng men<br /> <br /> Cho đến nay, vi tảo được xem là loại thức ăn tốt<br /> nhất để nuôi sinh khối luân trùng vì cho tốc độ<br /> <br /> bánh mì mà việc sản xuất sinh khối luân trùng<br /> trở nên dễ dàng hơn. Men bánh mì được sản<br /> <br /> sinh trưởng của quần thể luân trùng cao. Tuy<br /> <br /> xuất qui mô công nghiệp, sẵn có trên thị trường<br /> <br /> 51<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br /> tương đối rẻ. Điểm hạn chế khi thay thế<br /> <br /> tươi (30% trọng lượng khô) (Lesaffre - Cát<br /> <br /> hoàn toàn vi tảo bằng men bánh mì để làm thức<br /> <br /> Tường), bảo quản ở 4 C. Thí nghiệm được thực<br /> <br /> ăn cho luân trùng là thường gặp hiện tượng<br /> quần thể luân trùng đột ngột bị tàn lụi<br /> <br /> hiện với các mức bổ sung men bánh mì - 1; 2;<br /> 3; 4; 5 và 6 g men/triệu cá thể/ngày. Luân trùng<br /> <br /> (Hirayama, 1987). Mặt khác, cá con được cho<br /> ăn luân trùng nuôi hoàn toàn bằng men bánh mì<br /> <br /> được cho ăn bổ sung men bánh mì 3 lần/ngày<br /> vào các thời điểm 7 giờ (sau khi thay nước và<br /> <br /> thường có tỷ lệ dị hình cao hơn. Nguyên nhân<br /> <br /> đếm mật độ), 15 giờ và 23 giờ. Mỗi mức bổ<br /> <br /> của hiện tượng này được cho là do men bánh<br /> mì thiếu các axít béo không no thiết yếu, dẫn<br /> <br /> sung men bánh mì được lặp lại đồng thời ở 3 bể.<br /> 2.3. Thu thập và xử lý số liệu<br /> <br /> đến chất lượng dinh dưỡng của luân trùng thấp<br /> (Femandez-Reiriz và ctv, 1993). Vì vậy, việc<br /> <br /> Các yếu tố môi trường được theo dõi trong<br /> quá trình thí nghiệm bao gồm nhiệt độ (đo bằng<br /> nhiệt kế điện tử HANNA-Checktemp1, độ chính<br /> <br /> và<br /> <br /> nuôi sinh khối luân trùng trên cơ sở nguồn thức<br /> ăn là tảo Nannochloropsis oculata nhưng thay<br /> <br /> o<br /> <br /> o<br /> <br /> xác 0,1 C); độ mặn (đo bằng khúc xạ kế<br /> <br /> thế một phần bằng men bánh mì được xem là<br /> <br /> ATAGO-S10, độ chính xác 1‰); hàm lượng ôxy<br /> <br /> giải pháp khắc phục nhược điểm của từng loại<br /> thức ăn riêng rẽ để bảo đảm sinh khối luân<br /> <br /> hòa tan và độ bão hòa (đo bằng máy đo<br /> OXYGUARD, độ chính xác 0,1 mg/L) và pH (đo<br /> <br /> trùng cao và ổn định. Mục đích của nghiên cứu<br /> này nhằm xác định mức bổ sung men bánh mì<br /> <br /> bằng pH kế HANNA-HI98107, độ chính xác 0,1).<br /> Các yếu tố môi trường được đo hàng giờ trong<br /> <br /> thích hợp khi nuôi luân trùng bằng vi tảo<br /> Nannochloropsis oculata, xây dựng cơ sở cho<br /> <br /> khoảng thời gian giữa lần cho ăn thứ nhất và<br /> thứ ba (từ 7 giờ đến 23 giờ).<br /> <br /> biện pháp kỹ thuật nuôi thu sinh khối luân trùng<br /> <br /> Các chỉ tiêu quần thể như mật độ luân<br /> <br /> phục vụ cho việc sản xuất giống cá biển ở Việt Nam.<br /> II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG<br /> <br /> trùng, tỷ lệ trứng, tốc độ sinh trưởng quần thể<br /> được xác định (theo Reitan và ctv, 1993) hàng<br /> <br /> PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 2.1. Nguồn luân trùng giống<br /> <br /> ngày sau khi thay nước.<br /> Cách thu mẫu: Dụng cụ thu mẫu có đường<br /> <br /> Luân trùng Brachionus plicatilis giống ban<br /> đầu được phân lập từ các ao nuôi tôm ở Khánh<br /> <br /> kính trong 8mm, dài 1m. Mỗi bể nuôi được thu<br /> mẫu theo cột nước ở 5 vị trí khác nhau. Mẫu<br /> <br /> Hòa và tạo dòng thuần từ năm 1997. Chiều dài<br /> <br /> luân trùng được cho vào cốc đốt 1L, khuấy đều.<br /> <br /> vỏ giáp là 172,9±17,8µm. Trước khi thí nghiệm<br /> luân trùng được nuôi giữ giống bằng tảo<br /> Nannochloropsis oculata.<br /> 2.2. Bố trí thí nghiệm<br /> <br /> Sau đó, luân trùng được lấy mẫu để đếm bằng<br /> micropipet với thể tích 100µL/mẫu. Số lượng<br /> mẫu cần đếm cho mỗi bể là 10. Đếm số lượng<br /> cá thể và số trứng luân trùng trực tiếp dưới kính<br /> <br /> Thí nghiệm được tiến hành trong các bể có<br /> thể tích 200L, Hình trụ đáy nón. Nước biển (độ<br /> <br /> hiển vi soi nổi có độ phóng đại 4×8.<br /> Phép phân tích thống kê t-test được dùng<br /> <br /> mặn 30‰) được lọc qua mắt lưới 10µm. Bể<br /> nuôi được sục khí liên tục bằng đá bọt đặt cách<br /> đáy 10cm với tốc độ sục khí 400L/phút. Mật độ<br /> <br /> để so sánh giá trị trung bình của hai mẫu .<br /> III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> 3.1. Biến động của các yếu tố môi trường<br /> <br /> giống ban đầu là 100 cá thể/mL.<br /> Chế độ cho ăn gồm tảo Nannochloropsis<br /> <br /> Nhiệt độ nước trong suốt quá trình nuôi ở<br /> các bể thí nghiệm đều như nhau và dao động<br /> <br /> oculata và bổ sung thêm men bánh mì. Bể nuôi<br /> <br /> trong khoảng 25,2 – 25,9 C.<br /> Giá trị pH ở tất cả các bể nuôi dao động<br /> <br /> được thay nước 30% hàng ngày vào buổi sáng.<br /> Lượng nước thay được cấp trở lại bằng tảo<br /> Nannochloropsis oculata với mật độ tảo đưa<br /> vào bể nuôi luân trùng là 6,4 – 6,8 triệu tế<br /> bào/mL. Men bánh mì dùng làm thức ăn bổ<br /> sung cho luân trùng trong các thí nghiệm là men<br /> <br /> 52<br /> <br /> o<br /> <br /> trong khoảng 6,8 – 7,7 trong suốt quá trình nuôi.<br /> Theo Dhert (1996), khoảng nhiệt độ và pH trên<br /> hoàn toàn nằm trong khoảng thích hợp đối với<br /> luân trùng Brachionus plicatilis. Ngược với yếu<br /> tố nhiệt độ nước và pH, hàm lượng ôxy hòa tan<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br /> (DO), đặc biệt là giá trị ôxy hòa tan thấp nhất<br /> <br /> nuôi luân trùng với mức bổ sung 3, 4 và 5 g<br /> <br /> trong ngày (DOmin) có biến động lớn ở các bể<br /> <br /> men/triệu cá thể/ngày, DOmin cũng giảm nhiều –<br /> <br /> nuôi với các mức bổ sung men bánh mì khác<br /> nhau (Hình 1). Ở mức bổ sung 6 g men/triệu cá<br /> <br /> từ 6,7 mgO2/L lần lượt xuống 4,8 mgO2/L, 4,4<br /> mgO2/L và 4,1 mgO2/L vào ngày nuôi thứ 3, sau<br /> <br /> thể/ngày, DOmin giữ ở mức cao trong ngày nuôi<br /> đầu tiên (6,5 mgO2/L) nhưng đến ngày nuôi thứ<br /> <br /> đó đột ngột giảm mạnh ở ngày nuôi thứ 5 – còn<br /> 1,4 mgO2/L đối với mức bổ sung 3 g men/triệu<br /> <br /> hai giá trị này giảm xuống còn 5 mg O2/L, sau<br /> <br /> cá thể/ngày; 0,8 mgO2/L và 0,7 mgO2/L lần lượt<br /> <br /> đó hàm lượng ôxy hòa tan giảm đều qua các<br /> ngày nuôi và có giá trị thấp nhất vào ngày nuôi<br /> <br /> đối với hai mức bổ sung 4 và 5 g men/triệu cá<br /> thể/ngày.<br /> <br /> thứ 4, chỉ còn 0,8 mgO2/L. Tương tự, ở các bể<br /> DOmin<br /> (mgO2/mL)<br /> 10.0<br /> <br /> 8.0<br /> <br /> 1g men/triệu ct/ngày<br /> 2g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 6.0<br /> <br /> 3g men/triệu ct/ngày<br /> 4g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 4.0<br /> <br /> 5g men/triệu ct/ngày<br /> 6g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 2.0<br /> <br /> 0 1<br /> <br /> 2 3<br /> <br /> 4 5<br /> <br /> 6 7 8<br /> <br /> 9 10 11 12 13 14 15 Ngày nuôi<br /> <br /> Hình 1. Biến động của hàm lượng ôxy hòa tan thấp nhất trong ngày ở các bể nuôi<br /> luân trùng khi cho ăn tảo N. oculata với các mức bổ sung men bánh mì khác nhau<br /> Bể nuôi luân trùng với mức bổ sung 2 g<br /> men/triệu cá thể/ngày có mức ôxy hòa tan thấp<br /> <br /> Nannochloropsis oculata và bổ sung men bánh<br /> <br /> nhất trong ngày cũng giảm dần nhưng chậm<br /> hơn, từ 7 mgO2/L vào lúc mới thả giống sau đó<br /> <br /> hiện ở Hình 2. Ở mức bổ sung cao nhất, mật độ<br /> luân trùng đạt cực đại vào ngày nuôi thứ 6<br /> <br /> giảm dần đều qua các ngày nuôi nhưng đến<br /> <br /> (1520±82 cá thể/mL) nhưng đột ngột tàn lụi vào<br /> <br /> ngày nuôi thứ 9 mới thấp hơn 1,0 mgO2/L. Chỉ<br /> có bể nuôi luân trùng với mức bổ sung 1 g<br /> <br /> ngày hôm sau. Ở mức 4 và 5 g men/triệu cá<br /> thể/ngày, mật độ luân trùng cực đại lần lượt là<br /> <br /> men/triệu cá thể/ngày là giữ được giá trị DOmin<br /> luôn luôn cao hơn 6,0 mgO2/L.<br /> 3.2. Mật độ luân trùng<br /> <br /> 1834±76 và 1872±102 cá thể/mL vào ngày nuôi<br /> thứ 7 và thứ 8. Pha cân bằng của quần thể luân<br /> <br /> Biến động mật độ luân trùng khi cho ăn tảo<br /> <br /> mì với các mức bổ sung khác nhau được thể<br /> <br /> trùng cho ăn ở hai mức này cũng kéo dài trong<br /> hai ngày thứ 7 và 8, sau đó tàn lụi.<br /> <br /> Mật độ (cá thể/mL)<br /> 3200<br /> 2800<br /> <br /> 1g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 2400<br /> <br /> 2g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 2000<br /> <br /> 3g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 1600<br /> <br /> 4g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 1200<br /> <br /> 5g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 800<br /> <br /> 6g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 400<br /> 0<br /> <br /> Ngày nuôi<br /> <br /> 0<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> 7<br /> <br /> 8<br /> <br /> 9 10 11 12 13 14 15<br /> <br /> Hình 2. Biến động mật độ luân trùng Brachionus plicatilis khi cho ăn<br /> vi tảo N. oculata với các mức bổ sung men bánh mì khác nhau<br /> <br /> 53<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br /> Ở mức bổ sung 3 g men/triệu cá thể/ngày,<br /> <br /> thấp, mức bổ sung men bánh mì cao đã giúp<br /> <br /> quần thể luân trùng đạt mật độ cực đại chậm –<br /> <br /> tăng khả năng bắt gặp thức ăn cho luân trùng.<br /> <br /> vào ngày nuôi thứ 10 (2860±116 cá thể/mL) và<br /> pha cân bằng kéo dài từ ngày thứ 6 đến ngày<br /> <br /> Từ đó tạo ra tỷ lệ trứng của quần thể cao ngay<br /> từ những ngày nuôi đầu tiên. Cụ thể, mức bổ<br /> <br /> thứ 10. Khi giảm mức bổ sung men bánh mì còn<br /> 2 g men/triệu cá thể/ngày, thời gian đạt mật độ<br /> <br /> sung 6 g men/triệu cá thể/ngày cho tỷ lệ trứng<br /> cao nhất - 0,71 ở ngày nuôi thứ 2, tạo ra tốc độ<br /> <br /> cực đại là ngày nuôi thứ 13 nhưng giá trị mật độ<br /> <br /> sinh sản cao và nhanh chóng gia tăng mật độ<br /> <br /> cực đại là 3114±134 cá thể/mL, đồng thời pha<br /> cân bằng có xu hướng kéo dài - từ ngày thứ 7<br /> <br /> luân trùng trong quần thể. Kết quả nghiên cứu<br /> của các tác giả khác cho thấy rằng mức cho ăn<br /> <br /> đến ngày thứ 14. Trong khi đó, mặc dù đạt mật<br /> độ cực đại (1414±84 cá thể/mL) chậm - vào<br /> <br /> cao có xu hướng tạo ra tốc độ sinh trưởng và<br /> phát triển của từng cá thể luân trùng tốt và từ đó<br /> <br /> ngày nuôi thứ 15 nhưng quần thể luân trùng<br /> được cho ăn bổ sung men bánh mì ở mức 1 g<br /> <br /> nâng cao tỷ lệ trứng của quần thể (Øie và<br /> Olsen, 1997). Tuy nhiên, việc nâng mức bổ<br /> <br /> men/triệu cá thể/ngày không hề có dấu hiệu tàn lụi.<br /> 3.3. Tỷ lệ trứng của quần thể luân trùng<br /> <br /> sung men bánh mì có thể dẫn đến tình trạng<br /> thừa thức ăn, gây ô nhiễm bể nuôi. Kết quả theo<br /> dõi các yếu tố môi trường đã chứng tỏ rằng,<br /> <br /> Tỷ lệ trứng của quần thể luân trùng khi cho<br /> ăn tảo Nannochloropsis oculata và bổ sung men<br /> bánh mì với các mức bổ sung khác nhau được<br /> <br /> mặc dù nhiệt độ và pH nằm trong khoảng thích<br /> hợp nhưng hàm lượng ôxy hòa tan giảm rất<br /> <br /> thể hiện ở Hình 3. Ở mức bổ sung 6 g men/triệu<br /> cá thể/ngày, tỷ lệ trứng của quần thể luân trùng<br /> <br /> nhanh khi bổ sung men bánh mì ở mức cao là<br /> nguyên nhân chính làm quần thể luân trùng chết<br /> <br /> luôn đạt cao – từ 0,33 đến 0,71, mặc dù quần<br /> <br /> đột ngột.<br /> <br /> thể luân trùng chết đột ngột vào ngày nuôi thứ<br /> 7. Do luân trùng có đặc tính ăn lọc không chọn<br /> lựa nên khi mới thả giống là lúc mật độ nuôi còn<br /> Tỷ lệ trứng<br /> 1.00<br /> <br /> 0.80<br /> <br /> 0.60<br /> <br /> 0.40<br /> <br /> 0.20<br /> <br /> 0.00<br /> 0<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> 7<br /> <br /> 8<br /> <br /> 9<br /> <br /> 10<br /> <br /> 11<br /> <br /> 12<br /> <br /> 13<br /> <br /> 14<br /> <br /> Thời gian nuôi (ngày)<br /> 1g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 2g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 3g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 4g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 5g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> 6g men/triệu ct/ngày<br /> <br /> Hình 3. Biến động tỷ lệ trứng của quần thể luân trùng Brachionus plicatilis khi cho ăn<br /> tảo N. oculata với các mức bổ sung men bánh mì khác nhau<br /> Tương tự như vậy, ở các mức bổ sung 4<br /> và 5 g men/triệu cá thể/ngày, tỷ lệ trứng duy trì<br /> <br /> sung này đều duy trì cao từ ngày thứ nuôi thứ 2<br /> đến ngày nuôi thứ 7. Ngay khi các quần thể luân<br /> <br /> khá cao và đạt giá trị từ 0,43 đến 0,81 khi cho<br /> <br /> trùng được cho ăn bổ sung men bánh mì ở hai<br /> <br /> luân trùng ăn ở mức 5 g men/triệu cá thể/ngày<br /> hoặc từ 0,43 đến 0,58 khi cho ăn ở mức 4 g<br /> <br /> mức này tàn lụi vào ngày nuôi thứ 9, tỷ lệ trứng<br /> vẫn còn lần lượt là 0,22 và 0,25. Hiện tượng tàn<br /> <br /> men/triệu cá thể/ngày. Tỷ lệ trứng ở hai mức bổ<br /> <br /> lụi của các quần thể luân trùng được cho ăn bổ<br /> <br /> 54<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br /> sung men bánh mì ở mức 4 và 5 g men/triệu cá<br /> <br /> 0,4 mgO2/L. Mức cho ăn 2 g men/triệu cá<br /> <br /> thể/ngày cũng xảy ra khi hàm lượng ôxy hòa tan<br /> <br /> thể/ngày cho tỷ lệ trứng tương đối ổn định:<br /> <br /> giảm xuống thấp hơn 0,5 mgO2/L (ngày nuôi thứ 7).<br /> Mức bổ sung 3 g men/triệu cá thể/ngày tuy<br /> <br /> 0,38±0,09 (Bảng 1). Phân tích thống kê (độ tin<br /> cậy 95%) cho thấy tỷ lệ trứng trung bình của các<br /> <br /> không gây ra hiện tượng chết đột ngột nhưng<br /> cho tỷ lệ trứng giảm dần từ ngày nuôi thứ 9 –<br /> <br /> quần thể được cho ăn ở các mức từ 2 đến 6 g<br /> men/triệu cá thể/ngày không sai khác nhau<br /> <br /> khi mức ôxy hòa tan thấp nhất trong ngày còn<br /> (Bảng 1).<br /> Bảng 1. Tỷ lệ trứng trung bình của quần thể luân trùng khi cho ăn<br /> tảo N. oculata với các mức bổ sung men bánh mì khác nhau<br /> Mức bổ sung ( g men/triệu cá thể/ngày)<br /> 1<br /> TLTtb<br /> <br /> 2<br /> (a)<br /> <br /> 0,30 ±0,07<br /> <br /> 3<br /> (b)<br /> <br /> 0,38 ±0,09<br /> <br /> 4<br /> (b)<br /> <br /> 0,44 ±0,13<br /> <br /> 5<br /> (b)<br /> <br /> 0,41 ±0,14<br /> <br /> 6<br /> (b)<br /> <br /> (b)<br /> <br /> 0,46 ±0,20<br /> <br /> 0,47 ±0,15<br /> <br /> Ghi chú: TLTtb: tỷ lệ trứng trung bình của quần thể luân trùng từ khi thả giống đến pha cân bằng. Chữ cái<br /> trong ngoặc đơn ở cùng hàng giống nhau là sai khác không đáng kể và ngược lại (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2