CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ <br />
<br />
Xây dựng chỉ số tài chính bao trùm:<br />
Kết quả từ phương pháp phân tích thành phần<br />
chính hai bước<br />
Chu Khánh Lân<br />
Nguyễn Minh Phương<br />
Trương Hoàng Diệp Hương<br />
Ngày nhận: 20/12/2018 <br />
<br />
Ngày nhận bản sửa: 09/01/2019 <br />
<br />
Ngày duyệt đăng: 29/01/2019<br />
<br />
Mục tiêu của nghiên cứu là xếp hạng mức độ tài chính bao trùm tại<br />
các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi thực hiện phân tích thành phần<br />
chính hai bước để tính chỉ số tài chính bao trùm và ba cấu phần của<br />
nó. Chúng tôi nhận thấy các quốc gia phát triển có chỉ số tài chính<br />
bao trùm cao và ổn định hơn. Cấu phần gửi và vay chiếm tỷ trọng lớn<br />
nhất trong việc giải thích sự biến động của tài chính bao trùm, tiếp<br />
theo sau là cấu phần tài khoản và thanh toán mặc dù sự khác biệt<br />
giữa ba cấu phần là không đáng kể. Để cải thiện tài chính bao trùm,<br />
những người làm chính sách cần thực hiện các giải pháp tại cả ba<br />
cấu phần một cách đồng thời và bền vững.<br />
Từ khóa: tài chính bao trùm, phân tích thành phần chính<br />
<br />
1. Giới thiệu<br />
ài chính bao<br />
trùm dù là một<br />
vấn đề quan<br />
trọng nhưng vẫn<br />
còn là vấn đề<br />
mới nổi trong lý thuyết kinh<br />
tế hiện đại. Do đó, số lượng<br />
các nghiên cứu thực nghiệm<br />
liên quan đến chủ đề này còn<br />
khá hạn chế. Mỗi nghiên cứu<br />
lại đưa ra một định nghĩa khác<br />
© Học viện Ngân hàng<br />
ISSN 1859 - 011X<br />
<br />
nhau về tài chính bao trùm,<br />
nhưng tất cả đều thừa nhận<br />
rằng tài chính bao trùm là một<br />
nỗ lực nhằm loại bỏ rào cản<br />
trong việc sử dụng các dịch<br />
vụ tài chính. Trong đó, Mohan<br />
(2006) nhận định tài chính bao<br />
trùm là tình huống mà những<br />
người chưa tiếp cận tới hệ<br />
thống tài chính được cung cấp<br />
các sản phẩm tài chính với chi<br />
phí thấp, an toàn và hợp lý.<br />
Tương tự, Ajide (2015) cũng<br />
<br />
42<br />
<br />
cho rằng tài chính bao trùm là<br />
việc cung cấp các dịch vụ tài<br />
chính có giá cả phải chăng, kịp<br />
thời và dễ tiếp cận tới tất cả<br />
các thành viên trong xã hội.<br />
Chúng tôi xây dựng chỉ số tài<br />
chính bao trùm và ba cấu phần<br />
của tài chính bao trùm, gồm<br />
tài khoản, thanh toán, vay và<br />
gửi. Sử dụng dữ liệu Tài chính<br />
bao trùm toàn cầu của Ngân<br />
hàng Thế giới (WB), chúng tôi<br />
thực hiện phân tích thành phần<br />
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019<br />
<br />
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br />
<br />
chính hai bước để tính chỉ<br />
số tài chính bao trùm cho 95<br />
quốc gia trong hai năm 2014<br />
và 2017.<br />
Thông qua việc xây dựng chỉ<br />
số tài chính bao trùm trên cơ<br />
sở dữ liệu có tính toàn diện<br />
cao, nghiên cứu đã giúp nhà<br />
làm chính sách hiểu hơn về<br />
thực trạng tài chính bao trùm,<br />
các cấu phần của tài chính bao<br />
trùm, giúp họ xây dựng được<br />
các chính sách phù hợp. Kết<br />
quả nghiên cứu cho thấy, các<br />
quốc gia phát triển có chỉ số<br />
tài chính bao trùm và các cấu<br />
phần bên trong cao và ổn định<br />
hơn các quốc gia đang phát<br />
triển. Cấu phần vay và gửi<br />
giải thích nhiều nhất sự biến<br />
động trong chỉ số tài chính<br />
bao trùm, kế đến là cấu phần<br />
tài khoản và thanh toán, mặc<br />
dù sự khác biệt trong tỷ trọng<br />
của từng cấu phần là khá thấp.<br />
Phần còn lại của nghiên cứu<br />
được trình bày như sau: Phần<br />
2 trình bày các nghiên cứu<br />
liên quan tới xây dựng chỉ số<br />
tài chính bao trùm, Phần 3 mô<br />
tả phương pháp và dữ liệu sử<br />
dụng để tính chỉ số tài chính<br />
bao trùm và các cấu phần của<br />
nó, Phần 4 trình bày và thảo<br />
luận kết quả, Phần 5 trình bày<br />
kết luận.<br />
2. Tổng quan nghiên cứu<br />
Cuộc khủng hoảng tài chính<br />
gần đây đã nhấn mạnh tầm<br />
quan trọng của tài chính bao<br />
trùm trong việc thúc đẩy<br />
tăng trưởng kinh tế, giảm đói<br />
nghèo và giảm bất bình đẳng<br />
thu nhập. Kể từ đó, chủ đề này<br />
đã thu hút sự quan tâm của<br />
các nhà nghiên cứu, các nhà<br />
<br />
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
<br />
hoạch định chính sách nhằm<br />
khám phá khái niệm tài chính<br />
bao trùm, đo lường mức độ<br />
tiếp cận, đo lường các nhân<br />
tố ảnh hưởng và tác động của<br />
tài chính bao trùm ở các nhóm<br />
quốc gia khác nhau.<br />
Theo báo cáo mới nhất của<br />
WB (2017) về việc sử dụng<br />
các dịch vụ tài chính, mức<br />
độ tài chính bao trùm đã tăng<br />
lên trên toàn cầu, nhờ sự phát<br />
triển của điện thoại di động<br />
và mạng internet. Tuy nhiên,<br />
mức độ tăng tài chính bao<br />
trùm không cân bằng giữa<br />
các quốc gia. Tỷ lệ người<br />
trưởng thành có tài khoản tại<br />
tổ chức tài chính chính thức<br />
tăng nhanh từ mức 51% năm<br />
2011 lên mức 62% năm 2014<br />
và đạt mức 69% năm 2017,<br />
đạt khoảng 3,8 tỷ người trên<br />
toàn thế giới. Cùng với sự<br />
phát triển của điện thoại di<br />
động và internet, tỷ lệ chủ sở<br />
hữu tài khoản gửi hoặc nhận<br />
thanh toán điện tử tăng từ mức<br />
67% năm 2014 lên 76% năm<br />
2017. Ở một số quốc gia như<br />
khu vực Châu Phi cận Sahara,<br />
công nghệ là yếu tố quyết<br />
định tới việc tăng tài chính<br />
bao trùm. Tuy nhiên, hiện nay<br />
còn khoảng 1,7 tỷ người vẫn<br />
chưa được tiếp cận dịch vụ tài<br />
chính, dù thực tế là gần 70%<br />
trong số họ sở hữu điện thoại<br />
di động. Đồng thời, vẫn tồn<br />
tại chênh lệch về tỷ lệ người<br />
trưởng thành được tiếp cận<br />
các dịch vụ tài chính giữa nam<br />
và nữ, nông thôn và thành thị,<br />
và các nước đang phát triển và<br />
phát triển. Những tồn tại này<br />
yêu cầu phải tiếp tục nghiên<br />
cứu nhằm đẩy mạnh mức độ<br />
tài chính bao trùm trên toàn<br />
<br />
thế giới.<br />
Để đo lường mức độ tài chính<br />
bao trùm, hầu hết các nghiên<br />
cứu đều xây dựng chỉ số tài<br />
chính bao trùm tổng hợp từ<br />
các chỉ tiêu lựa chọn. Trong<br />
bước đầu tiên, các chỉ tiêu đo<br />
lường tài chính bao trùm được<br />
lựa chọn và được chuẩn hóa<br />
bằng cách lấy giá trị thực của<br />
chỉ tiêu trừ đi giá trị nhỏ nhất<br />
của chỉ tiêu đó, sau đó chia<br />
cho chênh lệch giữa giá trị lớn<br />
nhất và giá trị nhỏ nhất của<br />
chỉ tiêu đó. Bước tiếp theo,<br />
chỉ số tài chính bao trùm được<br />
tính toán bằng phương pháp<br />
khoảng cách nghịch đảo bình<br />
phương Euclidean (Sarma,<br />
2008; Kim, 2016; Park và<br />
Mercado, 2015…), hoặc<br />
phương pháp phân tích thành<br />
phần chính PCA.<br />
Điểm khác biệt chính giữa hai<br />
phương pháp này là mức trọng<br />
số gắn với từng chỉ tiêu. Ví<br />
dụ, Sarma (2008) xây dựng<br />
chỉ số tài chính bao trùm bao<br />
gồm ba cấu phần (mức độ tiếp<br />
cận, mức độ sẵn có và mức<br />
độ sử dụng). Sarma (2008)<br />
không áp dụng các kỹ thuật<br />
thống kê để xác định trọng số<br />
cho từng chỉ tiêu, mà chỉ áp<br />
dụng mức trọng số thấp hơn<br />
cho các chỉ tiêu bị thiếu dữ<br />
liệu. Camara và Tuesta (2014)<br />
lại chia các chỉ tiêu thành<br />
ba cấu phần khác, đó là mức<br />
độ sử dụng, mức độ tiếp cận<br />
và các rào cản, và sử dụng<br />
phương pháp phân tích thành<br />
phần chính hai giai đoạn để đo<br />
lường trọng số gắn với từng<br />
chỉ tiêu và với từng cấu phần.<br />
Park và Mercado (2018) kết<br />
hợp các phương pháp Sarma<br />
(2008) và Camara và Tuesta<br />
<br />
Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br />
<br />
43<br />
<br />
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br />
<br />
(2014), bằng cách sử dụng các<br />
cấu phần giống như Sarma<br />
(2008) (mức độ tiếp cận, mức<br />
độ sẵn có và mức độ sử dụng).<br />
Họ chuẩn hóa từng chỉ tiêu,<br />
sau đó sử dụng phương pháp<br />
phân tích thành phần chính<br />
để tính từng cấu phần. Sau<br />
khi có được chỉ tiêu đo lường<br />
từng cấu phần của tài chính<br />
bao trùm, họ tiếp tục sử dụng<br />
phương pháp phân tích thành<br />
phần chính lần thứ hai để tìm<br />
ra mức trọng số gắn với từng<br />
cấu phần và tổng hợp thành<br />
chỉ số tài chính bao trùm.<br />
Bằng cách xây dựng chỉ số<br />
tài chính bao trùm dựa trên<br />
ba cấu phần mới (tài khoản,<br />
thanh toán, vay và tiết kiệm)<br />
và sử dụng dữ liệu được cập<br />
nhật từ WB (2017), bài viết<br />
này cung cấp một đánh giá<br />
toàn diện hơn về tài chính bao<br />
trùm tại mỗi quốc gia.<br />
3. Phương pháp và dữ liệu<br />
3.1. Cấu phần của tài chính<br />
bao trùm<br />
Khó khăn trong việc xây<br />
dựng tài chính bao trùm là<br />
làm sao xây dựng được một<br />
chỉ số toàn diện mà vẫn bảo<br />
đảm được chỉ số bao gồm<br />
nhiều quốc gia trên thế giới<br />
khi mà dữ liệu về tài chính<br />
bao trùm tại các quốc gia là<br />
không giống nhau và khó so<br />
sánh. Có một vài phương pháp<br />
đo lường chỉ số tài chính bao<br />
trùm sử dụng các cấu phần<br />
khác nhau của tài chính bao<br />
trùm như sử dụng, truy cập,<br />
trở ngại hoặc truy cập, sẵn<br />
có, và sử dụng (Honohan,<br />
2008; Sarma, 2008 và 2015;<br />
<br />
44<br />
<br />
Demirgüç-Kunt và Klapper,<br />
2012; Cámara và Tuesta,<br />
2014). Trong khi Sarma<br />
(2008) tập trung quá nhiều<br />
vào hệ thống ngân hàng mà bỏ<br />
qua vấn đề thanh toán và các<br />
dịch vụ do hệ thống tài chính<br />
không phải ngân hàng cung<br />
cấp thì Cámara và Tuesta<br />
(2014) chưa xác định rõ ràng<br />
về khái niệm tài chính bao<br />
trùm khi họ kết hợp nguyên<br />
nhân sử dụng và không sử<br />
dụng các dịch vụ tài chính vào<br />
một chỉ số (Park, 2018).<br />
Cơ sở dữ liệu Tài chính bao<br />
trùm toàn cầu do WB xây<br />
dựng vào năm 2011 cung cấp<br />
dữ liệu mô tả dân cư toàn cầu<br />
tiết kiệm, thanh toán và vay,<br />
gửi. Cơ sở dữ liệu này thu<br />
thập dữ liệu từ 150.000 cư<br />
dân (từ 15 tuổi trở lên) tại hơn<br />
140 quốc gia về cách thức họ<br />
tiếp cận và sử dụng các dịch<br />
vụ tài chính chính thức và phi<br />
chính thức. Mặc dù cơ sở dữ<br />
liệu đo lường nhiều khía cạnh<br />
khác nhau của tài chính bao<br />
trùm nhưng chủ yếu tập trung<br />
vào tài khoản, thanh toán, vay<br />
và gửi. Chúng tôi sử dụng cơ<br />
sở dữ liệu lớn và chi tiết này<br />
để xây dựng ba cấu phần, tài<br />
khoản, thanh toán, vay và gửi<br />
và chỉ số tài chính bao trùm<br />
tổng thể. Điểm mới của chỉ số<br />
này là nó được xây dựng trên<br />
ba cấu phần dễ diễn giải và<br />
có giá trị tham khảo cho quá<br />
trình xây dựng chính sách.<br />
Tăng cường mức độ sở hữu và<br />
sử dụng tài khoản là một trong<br />
các biện pháp quan trọng để<br />
phát triển tài chính bao trùm<br />
do hầu hết các dịch vụ tài<br />
chính chính thức đều gắn với<br />
việc sở hữu và sử dụng tài<br />
<br />
Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br />
<br />
khoản. Mức độ phổ biến của<br />
tài khoản còn được đo lường<br />
bởi phần trăm người lớn có<br />
thẻ tín dụng ghi nợ và ghi có.<br />
Tuy nhiên, sở hữu tài khoản<br />
không phản ánh được mức độ<br />
sử dụng tài khoản. Mức độ<br />
sử dụng tài khoản cho phép<br />
người nắm giữ hưởng lợi tối<br />
đa từ tài chính bao trùm thông<br />
qua gửi tiền hoặc rút tiền<br />
trong khi thẻ ghi nợ, thẻ tín<br />
dụng cho phép họ thanh toán<br />
các khoản chi tiêu. Do vậy, để<br />
đo lường cấu phần tài khoản,<br />
chúng tôi sử dụng 6 chỉ báo:<br />
tài khoản (tài khoản, % tuổi từ<br />
15 trở lên), gửi tiền (gửi tiền<br />
trong năm vừa rồi, tại tổ chức<br />
tài chính, tuổi từ 15 trở lên),<br />
rút tiền (rút tiền trong năm<br />
vừa rồi, tại tổ chức tài chính,<br />
tuổi từ 15 trở lên), thẻ ghi nợ<br />
(sở hữu thẻ ghi nợ, % tuổi từ<br />
15 trở lên), thẻ tín dụng (sở<br />
hữu thẻ tín dụng, % tuổi từ 15<br />
trở lên), và sử dụng thẻ (sử<br />
dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín<br />
dụng trong năm vừa rồi, %<br />
tuổi từ 15 trở lên).<br />
Chúng tôi nhận định sự phổ<br />
biến của các phương thức<br />
thanh toán không dùng tiền<br />
mặt là sự phản ánh sự phát<br />
triển của tài chính bao trùm.<br />
Chuyển dịch từ thanh toán<br />
tiền mặt như trả hóa đơn,<br />
nhận tiền lương, thanh toán<br />
từ chính phủ sang sử dụng tài<br />
khoản sẽ mang lại những lợi<br />
ích cho người sử dụng. Chúng<br />
tôi sử dụng 3 chỉ báo: thanh<br />
toán hóa đơn (thanh toán hóa<br />
đơn qua tài khoản, % người<br />
thanh toán, tuổi từ 15 trở lên),<br />
nhận thanh toán từ chính phủ<br />
(nhận thanh toán từ chính phủ<br />
qua tài khoản, % người nhận,<br />
<br />
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
<br />
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br />
<br />
tuổi từ 15 trở lên), nhận lương<br />
(nhận lương qua tài khoản,<br />
% người nhận, tuổi từ 15 trở<br />
lên). Chúng tôi sử dụng cả chỉ<br />
số thanh toán số (nhận hoặc<br />
chuyển tiền thanh toán số<br />
trong năm vừa rồi, % tuổi từ<br />
15 trở lên) để xem xét cả lợi<br />
ích từ việc chuyển từ thanh<br />
toán tiền mặt sang thanh toán<br />
số. Giảm chi phí, tăng tốc độ<br />
thanh toán, bảo đảm an toàn<br />
và minh bạch là những lợi ích<br />
tiềm năng có thể nhận thấy.<br />
Tiết kiệm tiền và vay tiền từ<br />
các tổ chức tài chính chính<br />
thức có vai trò quan trọng<br />
trong phổ biến tài chính bao<br />
trùm. Chúng tôi sử dụng hai<br />
chỉ báo: vay (vay từ tổ chức<br />
tài chính hoặc sử dụng thẻ tín<br />
dụng, % tuổi từ 15 trở lên) và<br />
tiết kiệm (gửi tiền tại tổ chức<br />
tài chính, % tuổi từ 15 trở lên)<br />
để đo lường cách thức người<br />
lớn sử dụng các dịch vụ tài<br />
chính để tiết kiệm cho tương<br />
lai hoặc giải quyết các thiếu<br />
hụt tài chính tại thời điểm<br />
hiện tại.<br />
3.2. Phương pháp<br />
Chúng tôi áp dụng phương<br />
pháp phân tích thành phần<br />
chính hai giai đoạn của<br />
Cámara và Tuesta (2014) để<br />
tính các cấu phần và chỉ số<br />
tài chính bao trùm. Như đã<br />
phân tích ở trên, tài chính bao<br />
trùm được xác định thông<br />
qua nhiều chỉ báo và được giả<br />
định tồn tại một cấu trúc cơ sở<br />
ẩn sau một nhóm các chỉ báo<br />
có mối quan hệ tương quan<br />
cao. Tài chính bao trùm có thể<br />
được trình bày dưới dạng sau:<br />
FIIi = ω1Yia + ω2Yip + ω3Yib&s<br />
<br />
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
<br />
(1)<br />
Trong đó, i chỉ các nước, (Yia,<br />
Yip, Yib&s) đại diện cho các cấu<br />
phần tài khoản, thanh toán,<br />
vay và gửi.<br />
Phân tích thành phần chính<br />
giai đoạn 1 đo lường các biến<br />
số (Yia, Yip, Yib&s) và các thông<br />
số của 3 phương trình sau:<br />
Yia = α1accounti + α2depositi +<br />
α3withdrawli + α4debit cardi +<br />
α5credit cardi + α6card usagei<br />
(2)<br />
Yip = β1paid utility billsi +<br />
β2paid utility billsi + β3paid<br />
utility billsi + β4paid utility<br />
billsi (3)<br />
Yib&s = γ1borrowi + γ2savei (4)<br />
Rp,(p×p) là ma trận tương<br />
quan của p chỉ báo đối với<br />
mỗi cấu phần. λj (j=1,…,m)<br />
là giá trị eigenvalue thứ j,<br />
trong đó j là số lượng thành<br />
phần chính tương ứng với số<br />
lượng chỉ báo p. φj (p×1) là<br />
eigenvector của ma trận tương<br />
quan. Đối với mỗi cấu phần,<br />
chúng tôi giả định λ1 > λ2 > …<br />
> λm và gọi Pk (k=1,…,m) là<br />
cấu phần thứ k. Mỗi cấu phần<br />
được tính như sau:<br />
m<br />
m<br />
a<br />
Y i = ∑ j,k=1 λ ja P aki (∑ j=1 λ aj )-1 (5)<br />
p<br />
<br />
m<br />
<br />
p<br />
<br />
p<br />
<br />
m<br />
<br />
p<br />
<br />
Y i = ∑ j,k=1 λ j P ki (∑ j=1 λ j )-1<br />
b&s<br />
<br />
m<br />
<br />
b&s<br />
<br />
b&s<br />
<br />
m<br />
<br />
(6)<br />
b&s<br />
<br />
Y i = ∑ j,k=1 λ j P ki (∑ j=1 λ j )-1<br />
(7)<br />
Trong đó Pk = λmX. λm là<br />
phương sai của cấu phần thứ<br />
m và X là ma trận các chỉ báo.<br />
Do tỷ trọng của mỗi cấu phần<br />
giảm dần, phần lớn sự biến<br />
động của cấu phần được giải<br />
thích bởi thành phần chính<br />
đầu tiên và giảm dần theo thứ<br />
tự cấu phần tiếp theo. Mặc dù<br />
thông lệ là thay thế toàn bộ<br />
các biến số bằng một vài cấu<br />
<br />
phần chính ban đầu, chúng tôi<br />
sử dụng tất cả các cấu phần<br />
chính để ghi nhận toàn bộ<br />
100% sự biến động của các<br />
chỉ số.<br />
Sau khi tính được chỉ số riêng<br />
cho ba cấu phần, chúng tôi sử<br />
dụng phương pháp phân tích<br />
thành phần chính giai đoạn<br />
hai tính tỷ trọng cho từng cấu<br />
phần để tính chỉ số tài chính<br />
bao trùm.<br />
m<br />
<br />
m<br />
<br />
FIIi = ∑ j,k=1 λ j P ki (∑ j=1 λ j )-1 (8)<br />
Trong đó FIIi là chỉ số tài<br />
chính bao trùm tổng quát cho<br />
nước i. Pk = λmX. λm là phương<br />
sai của cấu phần thứ m và X<br />
là ma trận các chỉ báo. Chúng<br />
tôi tiếp tục sử dụng tất cả các<br />
cấu phần chính để ghi nhận<br />
toàn bộ 100% sự biến động<br />
của các chỉ số. Sau khi biến<br />
đổi, chúng tôi viết mỗi cấu<br />
phần Pki dưới dạng sau:<br />
P1i = φ11Yia + φ12Yip + φ13Yib&s <br />
(9)<br />
P2i = φ21Yia + φ22Yip + φ23Yib&s <br />
(10)<br />
P3i = φ31Yia + φ32Yip + φ33Yib&s <br />
(11)<br />
Chỉ số tài chính bao trùm tổng<br />
quát được trình bày lại dưới<br />
dạng sau:<br />
3<br />
<br />
p<br />
<br />
a<br />
<br />
FIIi = ∑ j=1 λj(φj1Y i + φj2Yi +<br />
b&s<br />
<br />
3<br />
<br />
+ φj3Yi )(∑ j=1 λ j )-1<br />
<br />
(12)<br />
<br />
Chúng tôi có thể trình bày chỉ<br />
số tài chính bao trùm tổng<br />
quát dưới dạng bình quân có<br />
trọng số với là tỷ trọng mỗi<br />
cấu phần như sau:<br />
3<br />
<br />
3<br />
<br />
w k = ∑ j=1 λjφjk (∑ j=1 λ j )-1 (13)<br />
3.3. Dữ liệu<br />
Chúng tôi sử dụng dữ liệu Tài<br />
<br />
Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br />
<br />
45<br />
<br />
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br />
<br />
chính bao trùm toàn cầu năm<br />
2014 và 2017 của WB. Chỉ<br />
các quốc gia có dữ liệu cả hai<br />
năm 2014 và 2017 được lựa<br />
chọn. Việc lựa chọn này khiến<br />
số lượng quốc gia được lựa<br />
chọn giảm từ hơn 140 nước<br />
xuống còn 95 nước. Ma trận<br />
tương quan các chỉ báo được<br />
trình bày tại Bảng 1.<br />
4. Kết quả và thảo luận<br />
Tại bước phân tích thành phần<br />
chính thứ nhất, chúng tôi tính<br />
tỷ trọng cho các chỉ báo trong<br />
từng cấu phần tài khoản, thanh<br />
toán, vay và gửi. Kết quả tính<br />
toán các cấu phần này có giá<br />
trị đối với những người làm<br />
chính sách. Bảng 2 trình bày<br />
eigenvectors, eigenvalues,<br />
và tỷ trọng đối với từng cấu<br />
phần. Nhìn chung, tỷ trọng<br />
và mức độ giải thích sự biến<br />
động của từng thành phần khá<br />
ổn định qua hai năm 2014 và<br />
2017.<br />
Đối với cấu phần tài khoản,<br />
chỉ báo gửi và rút tiền có tỷ<br />
trọng cao nhất (0,19), theo sau<br />
là sử dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ<br />
tín dụng (0,17), sở hữu thẻ tín<br />
dụng (0,16), sở hữu thẻ ghi<br />
nợ (0,15) và sở hữu tài khoản<br />
(0,14). Mặc dù tỷ trọng các<br />
chỉ báo không đồng đều hoàn<br />
toàn, không có chỉ báo nào<br />
chiếm tỷ trọng quá lớn. Đây<br />
là một điều kiện tốt khi xây<br />
dựng chỉ số. Cần chú ý rằng,<br />
chỉ báo sở hữu tài khoản vốn<br />
được sử dụng nhiều trong các<br />
nghiên cứu về tài chính bao<br />
trùm lại chứa ít thông tin hơn<br />
các chỉ báo khác.<br />
Đối với cấu phần thanh toán,<br />
tỷ trọng của thanh toán số,<br />
<br />
46<br />
<br />
trả hóa đơn và trả lương khá<br />
tương đồng, lần lượt là 0,24,<br />
0,25, và 0,23, thấp hơn mức tỷ<br />
trọng của nhận thanh toán từ<br />
chính phủ là 0,28. Phần cuối<br />
của Bảng 2 chỉ ra tỷ trọng của<br />
việc gửi tiền vào tổ chức tài<br />
chính cao hơn so với tỷ trọng<br />
vay từ tổ chức tài chính, 0,54<br />
so với 0,46.<br />
Đối với cấu phần tài khoản,<br />
thành phần thứ nhất giải thích<br />
tới 83% các thông tin trong<br />
cấu phần, có mức độ phân bổ<br />
khá đồng đều đối với cả 6 chỉ<br />
báo (từ mức 0,37 tới 0,44).<br />
Kết quả này cho thấy cả 6 chỉ<br />
báo đều đo lường cùng một<br />
cấu trúc ẩn giống nhau. Các<br />
chỉ báo về gửi và rút tiền cung<br />
cấp thêm thông tin trong thành<br />
phần thứ hai trong khi sở hữu<br />
thẻ tín dụng cung cấp thêm<br />
thông tin trong thành phần thứ<br />
ba. Bảng 3 cũng cho thấy sự<br />
đồng đều trong 4 chỉ báo (từ<br />
mức 0,46 tới 0,53) trong thành<br />
phần thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ<br />
báo thanh toán từ chính phủ<br />
và thanh toán hóa đơn qua tài<br />
khoản có vai trò quan trọng<br />
hơn khi đóng góp thêm thông<br />
tin trong thành phần thứ hai<br />
và thứ ba. Cuối cùng, chỉ<br />
báo gửi và vay tại tổ chức tài<br />
chính đóng góp khá đồng đều<br />
trong thành phần thứ nhất,<br />
giải thích tới 92% sự biến<br />
động của cấu phần này.<br />
Tại bước thứ hai của phân tích<br />
thành phần chính, chúng tôi<br />
áp dụng phương pháp giống<br />
với khi tính toán các cấu phần<br />
của tài chính bao trùm. Bảng<br />
5 trình bày các thành phần của<br />
chính và tỷ trọng của mỗi cấu<br />
phần. Cấu phần gửi và vay<br />
chiếm tỷ trọng cao nhất trong<br />
<br />
Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br />
<br />
giải thích sự biến động của<br />
tài chính bao trùm (0,36), tiếp<br />
theo sau là tài khoản và thanh<br />
toán (0,32 và 0,31). Tuy vậy,<br />
sự khác biệt giữa các cấu phần<br />
là không đáng kể. Vì vậy, để<br />
có thể cải thiện tài chính bao<br />
trùm, chính sách cần được<br />
thiết kế và thực hiện đồng đều<br />
giữa cả ba cấu phần.<br />
Khi phân tích thành phần<br />
chính, thành phần thứ nhất<br />
giải thích tới 90% sự biến<br />
động của dữ liệu và có sự<br />
phân bổ đồng đều giữa cả ba<br />
cấu phần. Gửi và vay tại tổ<br />
chức tài chính cung cấp thêm<br />
thông tin thông qua thành<br />
phần thứ hai, và do đó, có ý<br />
nghĩa quan trọng hơn trong<br />
việc giải thích chỉ số tài chính<br />
bao trùm tổng thể (Bảng 6).<br />
Bảng 4 và 7 trình bày thứ tự<br />
xếp hạng của các quốc gia<br />
trong mẫu nghiên cứu theo<br />
các cấu phần và chỉ số tài<br />
chính bao trùm tổng thể trong<br />
năm 2017. Tại bảng 7, cột thứ<br />
hai cho biết mức độ thay đổi<br />
trong thứ tự xếp hạng giữa<br />
năm 2017 và 2014. Một số<br />
điểm đáng chú ý như sau: Các<br />
quốc gia phát triển có mức<br />
độ tài chính bao trùm và các<br />
cấu phần của nó cao hơn so<br />
với các nước đang phát triển.<br />
Các quốc gia phát triển cũng<br />
có mức độ ổn định trong mức<br />
độ tài chính bao trùm so trong<br />
giai đoạn từ 2014 đến 2017.<br />
Đối với chỉ số tài chính bao<br />
trùm tổng thể, phần tư thứ<br />
nhất chủ yếu là các quốc gia<br />
đến từ Châu Âu, Bắc Mỹ, trừ<br />
bốn quốc gia châu Á là Hàn<br />
Quốc, Nhật Bản, Singapore,<br />
và Hồng Kông. Phần tư thứ<br />
hai tiếp tục bao gồm các nước<br />
<br />
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
<br />