JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8A, pp. 101-110<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0135<br />
<br />
XÂY DỰNG CHUẨN ĐẦU RA – GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG NÂNG CAO<br />
CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM<br />
Nguyễn Thị Kim Dung<br />
<br />
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Đổi mới giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ, đồng bộ ở mọi cấp học từ mầm non,<br />
giáo dục phổ thông đến đại học và ở mọi khâu của quá trình giáo dục. Chuẩn hóa là một<br />
trong những khía cạnh đổi mới quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung<br />
và nâng cao uy tín của các cơ sở giáo dục có chất lượng, trong đó các các trường đại học sư<br />
phạm.Bài viết này đi sâu phân tích những căn cứ để xây dựng chuẩn đầu ra và những nội<br />
dung cơ bản trong chuẩn đầu ra đối với sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm.<br />
Từ khóa: Chuẩn đầu ra, chất lượng đào tạo, sinh viên tốt nghiệp, đại học sư phạm.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Triết lí về giáo dục cho thế kỉ XXI có những biến đổi sâu sắc. Đó là lấy việc “học thường<br />
xuyên, suốt đời” làm nền móng, dựa trên các mục tiêu tổng quát – 4 trụ cột của giáo dục, là: “Học<br />
để biết”; “Học để làm”; “Học để cùng chung sống” và “Học để làm người”. Trong nền giáo dục<br />
mới có sự chuyển đổi cơ bản vai trò, vị trí của người học. Người học phải ở vị trí trung tâm của<br />
nhà trường, là người tham gia trực tiếp, tích cực vào quá trình học tập, phát triển óc tò mò, thái độ<br />
hoài nghi khoa học, ý chí, khả năng chọn lựa hành động và cam kết thực hiện. Sự thay đổi vai trò<br />
của người học trong nền giáo dục hiện đại đã dẫn đến sự thay đổi chức năng và vai trò của giáo<br />
viên (GV), từ vai trò là người cung cấp thông tin, trở thành người nhạc trưởng, tổ chức, hướng dẫn<br />
quá trình học của học sinh (HS).<br />
Những yêu cầu mới của xã hội, những thay đổi về vai trò, vị trí của người học và người dạy<br />
trong những hoàn cảnh biến đổi nhanh, phức tạp đòi hỏi xem xét, xác định chuẩn đầu ra (CĐR)<br />
đối với sinh viên tốt nghiệp (SVTN) các cơ sở đào tạo giáo viên (ĐTGV) để chuẩn bị cho họ có<br />
khả năng đáp ứng linh hoạt và hiệu quả trước những yêu cầu mới của đổi mới căn bản, toàn diện<br />
giáo dục (GD) Việt Nam.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Những căn cứ xây dựng chuẩn đầu ra đối với sinh viên tốt nghiệp đại học<br />
sư phạm<br />
Yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục [4]<br />
<br />
Ngày nhận bài: 22/8/2016. Ngày nhận đăng: 23/9/2016.<br />
Liên hệ: Nguyễn Thị Kim Dung, e-mail: kimdung28863@gmail.com<br />
<br />
101<br />
<br />
Nguyễn Thị Kim Dung<br />
<br />
Nghị quyết 29-NQ/TW (NQ 29) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu<br />
rõ mục tiêu và những yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Đây là một trong những<br />
căn cứ quan trọng để xây dựng CĐR đối với SVTN ĐHSP. Chuẩn đầu ra phải đáp ứng những yêu<br />
cầu đổi mới của chương trình giáo dục. Cụ thể:<br />
- Mục tiêu tổng quát của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo<br />
“Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng<br />
ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục<br />
con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của<br />
mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”.<br />
Đối với giáo dục phổ thông, NQ 29 yêu cầu “tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành<br />
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho<br />
học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo<br />
đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.<br />
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.<br />
Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, NQ 29 yêu cầu phải xác định rõ và công<br />
khai mục tiêu, CĐR của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo.<br />
Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ<br />
giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.<br />
- Yêu cầu đổi mới về nội dung, phương pháp dạy và học<br />
“Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí,<br />
thể, mĩ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện<br />
đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức<br />
vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công<br />
dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lí dân tộc, tinh hoa văn<br />
hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. . . . .”.<br />
Nghị quyết yêu cầu cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại;<br />
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học... Tập<br />
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới<br />
tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học<br />
tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng<br />
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.Những yêu cầu này đặt ra đối với toàn bộ<br />
hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học, đặc biệt là các trường sư phạm phải tính đến khi xây<br />
dựng CĐR đối với sinh viên tốt nghiệp.<br />
Vai trò, vị trí của đội ngũ giáo viên trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông<br />
Xu thế hội nhập quốc tế và những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá của đất nước hiện nay<br />
đang đưa đến những cơ hội và thách thức lớn lao đối với giáo dục nói chung và GV nói riêng. Tổ<br />
chức UNESCO cho rằng vai trò của người giáo viên trong thế kỉ 21 có những thay đổi theo những<br />
hướng sau: đảm nhiệm nhiều chức năng hơn, trách nhiệm lựa chọn nội dung giáo dục, dạy học<br />
nặng nề hơn; phải chuyển từ cách truyền thụ tri thức sang cách tổ chức học sinh hoạt động chiếm<br />
lĩnh tri thức, coi trọng dạy học phân hoá cá nhân; biết sử dụng tối đa những nguồn tri thức trong<br />
xã hội; phải biết sử dụng vi tính, phương tiện kĩ thuật dạy học, phải tự học để nâng cao trình độ<br />
chuyên môn nghiệp vụ; yêu cầu hợp tác với đồng nghiệp chặt chẽ hơn, quan hệ ứng xử của giáo<br />
viên, với cha mẹ học sinh, với học sinh và các tổ chức xã hội có thay đổi theo hướng hợp tác, phối<br />
hợp, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; yêu cầu giáo viên tham gia hoạt động rộng rãi trong và ngoài<br />
nhà trường;... Nhìn chung vai trò của GV đã có những thay đổi tập trung vào bốn vai trò căn bản:<br />
102<br />
<br />
Xây dựng chuẩn đầu ra – Giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên...<br />
<br />
(1) nhà GD chuyên nghiệp (tức là nhà sư phạm); (2) nhà nghiên cứu ứng dụng (tức là nhà nghiên<br />
cứu thực hành); nhà văn hoá (tức là nhà canh tân xã hội); và đồng thời (3) người học suốt đời (tức<br />
là nhà chuyên gia về học) [5, 6]. Do đó, CĐR của ngành sư phạm ĐTGV phải hướng đến hình<br />
thành các năng lực tương ứng để GV thực hiện tốt cả những vai trò này.<br />
Lao động của người giáo viên đòi hỏi tính nghệ thuật và sáng tạo cao<br />
Đối tượng của lao động GV là những con người sống động, những HS vốn có tính chủ động,<br />
hoạt bát. Trong lao động của GV không chỉ có yếu tố năng động của GV mà còn có yếu tố năng<br />
động của HS - những con người đang trong quá trình phát triển không ngừng và khác nhau ở từng<br />
thời kì cả về thể chất và tinh thần. Hơn nữa, quá trình lớn lên và trưởng thành của HS còn chịu ảnh<br />
hưởng từ nhiều phía như: gia đình, nhà trường, môi trường xã hội bên ngoài.... Điều này đòi hỏi<br />
người GV trong quá trình lao động của mình phải có sự điều chỉnh, sự sáng tạo và nghệ thuật cao.<br />
Tính sáng tạo trong công việc của người giáo viên trước hết được biểu hiện trong quá trình dạy<br />
học; ở sự ứng xử có tính phân hóa đối với HS; ở khả năng thuyết phục và cảm hóa học sinh; ở khả<br />
năng phân tích và đưa ra cách xử lí các tình huống sư phạm. Đây được xem như một phần của tài<br />
nghệ sư phạm.<br />
Có thể nói sư phạm là một nghề mang tính nghệ thuật. Nếu người GV chỉ có kiến thức và kĩ<br />
năng chuyên môn thôi thì chưa đủ mà cái quan trọng là phải biết làm thế nào để chuyển tải những<br />
cái đó đến HS một cách có hiệu quả, làm thế nào để khơi dạy ở các em niềm đam mê, sự say sưa<br />
học tập và hướng dẫn các em cách học có hiệu quả, làm thế nào để giải quyết các tình huống sư<br />
phạm một cách khéo léo, linh hoạt... tức là đòi hỏi ở người GV tài nghệ sư phạm. Tuy nhiên, không<br />
phải tự nhiên mà tất cả GV đều có thể có được những tài nghệ sư phạm đó mà họ phải được đào<br />
tạo ngay từ trong các trường đại học. Nó phải trở thành một trong những nội dung trọng tâm trong<br />
đào tạo GV cho SV ở các trường sư phạm và làmột khía cạnh quan trọng trong CĐR của ngành sư<br />
phạm ĐTGV trung học.<br />
Thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên phổ thông còn nhiều bất cập<br />
Đổi mới GD phổ thông ở nước ta trong những năm qua đã mang lại những thay đổi tích cực<br />
đáng kể. Tuy nhiên, khó có thể phủ nhận một thực tế là GD phổ thông của chúng ta vẫn còn tồn<br />
tại nhiều vấn đề, nhiều bất cập, yếu kém, nhất là về chất lượng GD. Xu hướng dạy và học để đáp<br />
ứng thi cử dẫn đến lối học thụ động, học vẹt vẫn khá phổ biến. Điều này dẫn đến sự thiếu năng<br />
động, linh hoạt, không đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn ở đại đa số học sinh. Bên cạnh đó, xu<br />
hướng chạy theo những lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt đang lấn át những lợi ích chung, lợi ích<br />
lâu dài. . .<br />
Nguyên nhân của tình trạng đó thì có nhiều, nhưng một trong những nguyên nhân quan<br />
trọng là do sự bất cập của đội ngũ nhà giáo. Nhiều GV chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới tư<br />
duy và đổi mới phương pháp GD, tỏ ra thiếu kĩ năng sư phạm (bao gồm cả kĩ năng dạy học và kĩ<br />
năng GD); thiếu kĩ năng thực hành công tác xã hội, đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hiện đại,năng<br />
lực nghiên cứu GD và năng lực phát triển nghề nghiệp cũng yếu. Mặt khác, bản thân người GV<br />
cũng gặp khó khăn khi thích ứng và đương đầu với các hoàn cảnh, tình huống sư phạm trong thực<br />
tế nghề nghiệp. Tóm lại, đội ngũ GV phổ thông hiện nay bộc lộ nhiều hạn chế về năng lực tác<br />
nghiệp, đặc biệt là các năng lực sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp đã được ban hành và theo yêu<br />
cầu mới của nhà trường phổ thông. Điều này phần nào do cách thức đào tạo chủ yếu dựa vào sách<br />
vở, theo lối mòn đã có và khép kín trong nhà trường sư phạm hơn là dựa vào thực tiễn, các tình<br />
huống sinh động, đa dạng hàng ngày.<br />
Theo kết quả điều tra của đề tài của đề tài B2009-17-177 tiến hành năm 2010 và đề tài<br />
B2011-17-CT04 được tiến hành vào tháng 12 năm 2013 cho thấy 10 khó khăn nhất mà GV trẻ gặp<br />
103<br />
<br />
Nguyễn Thị Kim Dung<br />
<br />
phải khi đứng lớp ở phổ thông như sau [2]:<br />
- Giải quyết các tình huống sư phạm;<br />
- Tìm hiểu đối tượng GD;<br />
- Quản lí học sinh;<br />
- Giáo dục học sinh;<br />
- Công tác chủ nhiệm lớp;<br />
- Trình bày bài giảng;<br />
- Giao tiếp với học sinh;<br />
- Sử dụng các phương tiện dạy học, công nghệ thông tin;<br />
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS;<br />
- Biên soạn và quản lí hồ sơ, giáo án.<br />
Căn cứ pháp lí<br />
Chuẩn phải phù hợp tham chiếu những quy định đối với đội ngũ giáo viên trong những văn<br />
bản pháp quy hiện hành của Việt Nam.<br />
(i) Luật giáo dục (2009). Chuẩn đầu ra không được có điểm nào trái với Luật Giáo dục.<br />
Trong Luật Giáo dục, các điều từ 26 đến 29 đã ghi rõ mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục<br />
của giáo dục phổ thông. Ở chương IV – Nhà giáo, các điều 70 72, 73, 75 đã quy định rõ ràng tiêu<br />
chuẩn của nhà giáo, nhiệm vụ, quyền của nhà giáo và những hành vi nhà giáo không được phép.<br />
Ở Chương V- Người học, các điều 85,86 quy định rõ nhiệm vụ và quyền của người học. Đây là<br />
những quy định mà Chuẩn đầu ra phải tuyệt đối tuân thủ.<br />
(ii) Điều lệ trường Đại học và Điều lệ trường Trung học. Các Điều lệ trường Đại học và<br />
trường Trung học là sự cụ thể hoá của Luật Giáo dục. Trong điều lệ các nhà trường đã qui định<br />
rõ những điều liên quan đến người học và đội ngũ GV của trường như cơ cấu và nhiệm vụ của tổ<br />
chuyên môn; trình độ đào tạo, phẩm chất đạo đức và nhiệm vụ của người GV. Chuẩn đầu ra phải<br />
phản ánh được những qui định này.<br />
(iii) Chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông<br />
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chuẩn nghề nghiệp giáo viên (NNGV) trung học tại<br />
thông tư số 30/2009/TT ngày 22/10/2009. Chuẩn này quy định chi tiết, có hệ thống nội dung về<br />
phẩm chất, năng lực nghề nghiệp của GV. Một trong những mục đích chính của việc ban hành<br />
chuẩn là làm cơ sở để xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng GV.<br />
Trường ĐHSP đào tạo sinh viên trở thành GV các cấp học. Như vậy, mục tiêu đào tạo của<br />
trường ĐHSP là đào tạo nghề giáo thì đương nhiên người tốt nghiệp cũng phải đạt được các tiêu<br />
chí nghề nghiệp về phẩm chất nhân cách và các năng lực tương ứng chuẩn NNGV.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Chuẩn đầu ra đối với sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm<br />
<br />
Cấu trúc khung chuẩn đầu ra đối với sinh viên tốt nghiệp đại học sư phạm<br />
CĐR mô tả những gì sinh viên cần biết, nắm chắc và có thể làm được (có kĩ năng) và cả giá<br />
trị, thái độ SV cần có để giúp họ trở thành những giáo viên chuyên nghiệp và giảng dạy – giáo dục<br />
có hiệu quả.Đó là hệ thống các yêu cầu cơ bản về phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp mà<br />
sinh viên phải đạt được khi kết thúc khóa đào tạo để có thể thực hiện được các nhiệm vụ, vai trò,<br />
chức năng của người GV trung học ở mức đạt yêu cầu tối thiểu.<br />
Mục đích ban hành chuẩn đầu ra là:<br />
104<br />
<br />
Xây dựng chuẩn đầu ra – Giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên...<br />
<br />
- Tạo khung chuẩn để các ngành đào tạo của các trường thiết kế chuẩn đầu ra của từng khối<br />
ngành đào tạo/khoa;<br />
- Làm căn cứ để cơ sở đào tạo điều chỉnh, xây dựng mới chương trình đào tạo GV. Từ đó<br />
xây dựng giáo trình, tổ chức các hoạt động đào tạo (hoạt động dạy và học);<br />
- Định hướng cho người dạy cụ thể hóa mục tiêu giảng dạy, lựa chọn hình thức, phương<br />
pháp dạy và học; đánh giá sinh viên tốt nghiệp theo chuẩn (cả trong quá trình giảng dạy cũng như<br />
thực tập sư phạm).<br />
- Để người học biết rõ mình phải đạt được những năng lực (kiến thức, kĩ năng) gì khi kết<br />
thúc khóa đào tạo, từ đó xây dựng kế hoạch học tập, rèn luyện bản thân;<br />
- Là căn cứ cho việc kiểm định chất lượng của một chương trình đào tạo;<br />
- Công khai và cam kết với xã hội về chất lượng đào tạo của trường; tạo cơ hội tăng cường<br />
hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và cơ sở sử dụng nhân lực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng<br />
đào tạo, đáp ứng yêu cầu của các nhà sử dụng lao động.<br />
Dựa trên những căn cứ phân tích ở trên, chúng tôi xác định khung CĐR bao gồm các phẩm<br />
chất/giá trị và 3 nhóm năng lực nghề như sau:<br />
* Phẩm chất/giá trị nghề nghiệp:<br />
- Những phẩm chất/giá trị hướng vào học sinh<br />
- Những phẩm chất/giá trị mang bản sắc người giáo viên<br />
- Những phẩm chất/giá trị phục vụ nghề nghiệp<br />
* Năng lực nghề nghiệp:<br />
- Nhóm năng lực nền tảng:<br />
(i) Năng lực giao tiếp và hợp tác<br />
(ii) Năng lực Ngoại ngữ và Công nghệ thông tin<br />
(iii) Năng lực thích ứng với sự thay đổi<br />
(iv) Năng lực nghiên cứu khoa học<br />
- Nhóm năng lực chuyên ngành – do từng chuyên ngành xác định<br />
- Nhóm năng lực nghiệp vụ sư phạm:<br />
(i) Năng lực định hướng sự phát triển học sinh<br />
(ii) Năng lực dạy học<br />
(iii) Năng lực giáo dục<br />
(iv) Năng lực công tác xã hội<br />
(v) Năng lực học tập và phát triển nghề nghiệp<br />
Mỗi nhóm năng lực gồm các tiêu chuẩn. Mỗi tiêu chuẩn là các tiêu chí và mỗi tiêu chí mô<br />
tả một công việc mà giáo sinh phải hoàn thành. Số lượng các tiêu chí trong một tiêu chuẩn ứng với<br />
một số công việc hoàn thành để đạt tiêu chuẩn đó. Mỗi tiêu chí được cụ thể hoá thành các yêu cầu<br />
cần có để thực hiện được công việc đã nêu ở tiêu chí. Cách viết từng chuẩn như sau:<br />
Tên tiêu chuẩn: Mỗi tiêu chuẩn có tên gọi ngắn gọn, súc tích định hướng hành động chính<br />
trong hoạt động nghề nghiệp của GV tương lai.<br />
Mô tả chuẩn: Mô tả nội dung cốt lõi của từng chuẩn – tức là mô tả cái mong đợi cơ bản<br />
nhất mà SV phải đạt được ở mỗi chuẩn.<br />
105<br />
<br />