intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng đội ngũ giảng viên - Yếu tố quan trọng của tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Xây dựng đội ngũ giảng viên - Yếu tố quan trọng của tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay" trình bày tổng quan về tự chủ đại học; tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên đối với quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng đội ngũ giảng viên - Yếu tố quan trọng của tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay

  1. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN - YẾU TỐ QUAN TRỌNG CỦA TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Phan Thị Hồng Duyên1 Nguyễn Thị Thu Thủy Trường Đại học Hoa Lư, Ninh Bình Abstract Autonomy is currently a mandatory development trend, a necessary condition for higher education institutions in Vietnam in training human resources, especially high-quality human resources, meeting the requirements of the Fourth Industrial Revolution and international integration. The article presents a general overview of university autonomy; the importance of teaching staff to the autonomy of higher education institutions; proposes some key solutions to build a teaching staff to meet the requirements of university autonomy in Vietnam today. Keywords: University, lecturer, autonomy, Viet Nam, build. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong điều kiện đổi mới giáo dục hiện nay, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ đã có tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của đất nước về đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần phải tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó đổi mới quản lý trường đại học, nâng cao tính tự chủ là một yêu cầu cấp thiết. Thực tế ở nước ta cho thấy, việc triển khai tự chủ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học (GDĐH) ở nước ta được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó đội ngũ giảng viên (GV) giữ vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, vừa là chủ thể định hướng kiến tạo sự phát triển bền vững của xã hội. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu tự chủ để nâng cao chất lượng giáo dục là vấn đề mà các cơ sở GDĐH cần quan tâm hiện nay. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái quát chung về tự chủ đại học 2.1.1. Khái niệm tự chủ đại học Tự chủ đại học không phải là một thuật ngữ mới đối với GDĐH trên thế giới và ở Việt Nam. Theo Hiệp hội các Trường đại học và Cao đẳng Việt Nam cho rằng, tự chủ đại học có nghĩa là “một cơ chế đồng bộ và phù hợp để cung cấp cho tổ chức GDĐH, một thực thể pháp lý có mối liên hệ cơ học và thống nhất về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với nghề nghiệp, tổ chức, nguồn nhân lực (NNL), phân bổ, sử dụng các nguồn lực…tạo động lực cho phát triển bền vững và hoạt động hiệu quả của cơ sở GDĐH nhằm thực hiện tốt nhất mục đích nâng cao chất lượng GDĐH, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và quốc gia và hội nhập quốc tế” [1]. Mặc dù, có những quan niệm khác nhau về tự chủ đại học, song hiểu một cách chung nhất, tự chủ đại học là việc cho phép một cơ sở GDĐH điều hành hoạt động của tổ 1 pthduyen@hluv.edu.vn 254
  2. chức mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Tuy nhiên, tự chủ không có nghĩa cơ sở GDĐH đó nằm ngoài sự chi phối của luật pháp và không có sự đầu tư của nhà nước. Tự chủ đại học được xác định bởi mối quan hệ giữa nhà nước, xã hội và cơ sở GDĐH. Điều đó, một mặt, phát huy năng lực nội tại của các cơ sở GDĐH, mặt khác, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền đối với các cơ sở GDĐH. 2.1.2. Nội dung về tự chủ đại học Tự chủ là quyền phổ biến của các trường đại học trên thế giới, song được thực hiện với những mức độ và cách thức khác nhau tùy mỗi nước. Ở Việt Nam, tự chủ đại học được xác định tại khoản 2, điều 32, Luật bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật GDĐH 2018, bao gồm các nội dung chủ yếu: “3. Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật. 4. Quyền tự chủ trong tổ chức, nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng, cho thôi việc đối với GV, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở GDĐH phù hợp với quy định của pháp luật. 5. Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý, sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật”[2]. Qua các nội dung quy định nói trên có thể thấy, quyền tự chủ về học thuật của cơ sở GDĐH về bản chất đó là sự chủ động trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng của mình. Các cơ sở GDĐH khi đủ điều kiện theo quy định sẽ được tự quyết định về những vấn đề đào tạo; mở ngành và xây dựng, ban hành các chương trình đào tạo; các tiêu chuẩn học thuật, phương thức, số lượng và chất lượng tuyển sinh; các công bố khoa học, sáng tạo, chuyển giao công nghệ; hoạt động phục vụ cộng đồng. Bản chất quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự đó là các cơ sở GDĐH có sự chủ động về các phương thức tổ chức, quản lý nguồn lực bên trong (con người, cơ sở vật chất…) nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng các hoạt động để phát triển nhà trường. Vì vậy, thực hiện tự chủ thì các cơ sở GDĐH cần được tự quyết định và chủ động trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức, phân tách, thành lập các đơn vị thuộc và trực thuộc, tuyển dụng, quy hoạch, bồi dưỡng, bổ nhiệm, điều động, đãi ngộ nhân tài, đồng thời xây dựng chiến lược phát triển nhà trường có tầm nhìn dài hạn và định hướng rõ ràng. Quyền tự chủ trong tài chính, tài sản của cơ sở GDĐH là các trường đại học được trao quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về các khoản thu, chi của đơn vị mình đảm bảo các nguồn lực bên trong phục vụ cho các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng của cơ sở giáo dục đào tạo đại học trong khuôn khổ mà pháp luật quy định. Theo đó, các trường đại học cần được tự quyết định, chủ động trong việc khai thác, tìm kiếm các nguồn lực tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính, tài sản hiện có, có kế hoạch đầu tư tài sản ngắn, dài hạn; cân đối các nguồn thu chi tài chính để đảm bảo hệ thống tài chính minh bạch và theo đúng quy định của pháp luật. 255
  3. 2.1.3. Mục tiêu của tự chủ đối với các cơ sở GDĐH Thứ nhất, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ sở GDĐH trong học thuật, tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy nhân sự và nguồn lực tài chính, tài sản để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của cơ sở GDĐH để đào tạo NNL chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu, nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho cán bộ, GV, nhân viên; đầu tư phát triển nhà trường. Thứ hai, tạo thế chủ động, nâng cao năng lực của các cơ sở GDĐH trong việc GD&ĐT, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng; bố trí, sử dụng có hiệu quả NNL chất lượng cao; quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính đúng quy định của pháp luật để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ đó, nó đã góp phần tăng nguồn thu, nâng cao đời sống của cán bộ, GV, nhân viên nhà trường. Đồng thời, phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động của cán bộ, GV, nhân viên trong việc xây dựng và phát triển “thương hiệu” nhà trường. Theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn: “Mục tiêu của tự chủ đại học là tối ưu hóa hoạt động của toàn hệ thống. Theo đó, các trường đại học năng động, sáng tạo, hoạt động hiệu quả hơn; cơ quan quản lý tập trung làm tốt hơn chức năng giám sát, hỗ trợ; cùng với đó là nâng cao chất lượng, mang lại lợi ích lớn hơn cho người học và xã hội” [3]. 2.1.4. Điều kiện để các trường đại học thực hiện tự chủ Tự chủ là yêu cầu cần thiết đối với các cơ sở GDĐH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Đẩy mạnh tự chủ đại học” [4]. Để thực hiện được điều đó, các cơ sở GDĐH cần có các điều kiện cơ bản như: Có được thương hiệu và khẳng định đẳng cấp về quy mô và chất lượng đào tạo; các ngành nghề đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội, có khả năng ổn định về đầu vào và được xã hội chấp nhận sử dụng sản phẩm đầu ra; cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị đảm bảo phục vụ đầy đủ cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng (giảng đường, phòng thực hành thí nghiệm, nhà đa năng, khu vui chơi sinh hoạt văn hóa thể thao, ký túc xá, căng tin...); hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tạo và chuyển giao công nghệ phát triển về số lượng, chất lượng, được áp dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn, có năng lực quản lý tốt; đội ngũ giảng viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, có khả năng chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong mọi hoạt động của nhà trường; mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ sở GDĐH, doanh nghiệp trong và ngoài nước để khai thác các nguồn lực đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững của nhà trường. Trong đó, đội ngũ GV là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng. 2.2. Tầm quan trọng của đội ngũ GV đối với tự chủ GDĐH Việt Nam hiện nay Thứ nhất, khái niệm GV đại học. Theo Thông tư số 40/2020/TT-BGDĐT ngày 26/10/2020 Quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức giảng dạy trong các cơ sở GDĐH công lập bao gồm: GV cao cấp (hạng I) - Mã số: V.07.01.01; GV chính (hạng II) - Mã số: V.07.01.02; GV (hạng III) - Mã số: V.07.01.03; Trợ giảng (hạng III) - Mã số: V.07.01.23. Đồng thời, Thông tư đã quy định rõ tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp; tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với từng loại GV. Trong đó, cơ bản là: GV tâm huyết với nghề, giữ gìn phẩm chất, danh dự nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, tôn trọng và hợp tác với đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao 256
  4. dung, độ lượng, tận tụy với công việc; thực hiện đúng nội quy, quy chế của cơ sở GDĐH công lập và các quy định pháp luật của ngành Giáo dục. Về năng lực chuyên môn: nắm vững kiến thức cơ bản hoặc có kiến thức vững vàng, chuyên sâu về môn học được phân công giảng dạy và có kiến thức tổng quát về một số môn học có liên quan trong chuyên ngành đào tạo được giao đảm nhiệm; có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ trong thực hiện các chức năng của GV trường đại học. Có thể hiểu GV là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở GDĐH; có trình độ chuyên môn từ thạc sĩ trở lên, được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy; có phẩm chất đạo đức tốt, có đủ điều kiện tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở trường đại học. Thứ hai, tầm quan trọng của đội ngũ GV đối với tự chủ GDĐH Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện phát triển của khoa học và công nghệ hiện nay, tự chủ đại học là yếu tố cơ bản, điều kiện, tiền đề cần thiết để các cơ sở GDĐH có thể tự quyết định trong các hoạt động, nhằm phát huy tiềm lực, cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo trong bối cảnh mới. Vì vậy, trong điều kiện nguồn lực đầu tư của nhà nước cho giáo dục còn hạn hẹp, việc trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở GDĐH là biện pháp đột phá, hữu hiệu để phát triển nâng cao chất lượng giáo dục đại học nước ta hiện nay. Ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”. Trong đó, tự chủ đại học được Trung ương chỉ đạo rất cụ thể: “Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng, hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học; bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch hội đồng trường” [5]. Điều đó cho thấy, lãnh đạo các trường đại học phải xem mình như là những doanh nghiệp và thường xuyên điều chỉnh chiến lược phát triển môi trường cạnh tranh như hiện nay. Đặc biệt, trước yêu cầu của nền kinh tế thị trường, bối cảnh toàn cầu hóa và đổi mới giáo dục, đòi hỏi các cơ sở GDĐH phải vận dụng các thể chế, quy luật, mô hình quản trị NNL của doanh nghiệp để quản trị nhà trường, trong đó, có hoạt động phát triển đội ngũ GV. Bởi vì, đội ngũ GV là nhân tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. GV là chủ thể của quá trình GD&ĐT. Phẩm chất đạo đức, khả năng, trình độ nhận thức và sự phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của sinh viên một mặt, phụ thuộc vào chương trình giáo dục, sách giáo khoa, nhân cách của họ; mặt khác, phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức, chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của GV - “nhân vật chủ đạo” trong nhà trường. Mặc dù, sự phát triển của khoa học và công nghệ, các phương tiện dạy học có hiện đại đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể thay thế được hoàn toàn vai trò của người GV. Trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, cần phải đào tạo được NNL chất lượng cao và nâng cao mặt bằng dân trí trong toàn xã hội. Song trước hết, phải biết nuôi dưỡng, phát triển NNL ngay từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành và trong suốt cuộc đời của mỗi một con người về các mặt trí lực, thể lực, tâm lực, nhất là về mặt năng lực nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Trọng trách này được giao cho ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), mà lực lượng nòng cốt là đội ngũ nhà giáo. 257
  5. 2.3. Thực trạng đội ngũ GV ở các cơ sở GDĐH hiện nay Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, các cơ sở GDĐH muốn thực hiện được tự chủ, trước hết, cần phải nâng cao chất lượng đào tạo, hiệu quả giảng dạy. Sứ mệnh hiện nay của các cơ sở GDĐH là đào tạo, bồi dưỡng NNL cho chuyên môn nghiệp vụ cao, có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng được yêu cầu phát triển một nền giáo dục tiên tiến, trách nhiệm, hiện đại. Do đó, việc phát triển đội ngũ GV nâng cao về số lượng và chất lượng, năng động, đổi mới, sáng tạo, có trình độ chuyên môn vững vàng, phương pháp giảng dạy tích cực, thích ứng đòi hỏi thực tiễn là yêu cầu cấp bách hiện nay. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê số liệu GV đại học trong vòng 5 năm (từ năm 2015 - 2020) có tăng cả về số lượng và chất lượng: “Năm 2015, cả nước có khoảng 69.591 GV, đến năm 2020, đội ngũ GV đã tăng lên 76.576 GV. Như vậy, trong vòng 5 năm qua, cả nước được bổ sung thêm khoảng hơn 7.000 GV - tính ra trung bình mỗi năm có thêm khoảng hơn 1.400 GV giảng dạy” [6]. Về trình độ chuyên môn của GV phần lớn được đào tạo đại học và trên đại học. Tuy nhiên, “tính đến năm 2020, số lượng GV có trình độ đại học, cao đẳng vẫn còn 5.980 GV (chiếm 7,81%)... Số lượng GV cần đào tạo để nâng trình độ đạt trình độ chuẩn thạc sĩ khoảng gần 6.000 người”[6]. Theo thông tin từ Bộ GD&ĐT, “tỷ lệ GV đại học có học hàm giáo sư của cả nước chưa đến 1% tổng số GV trong cả nước. Tổng số GV làm việc toàn thời gian của cả nước tính đến 31/12/2021 là hơn 85.000 người. Trong đó, số GV có chức danh Giáo sư chỉ là 757 người - đây là số lượng giáo sư đang giảng dạy, không tính những người đã về hưu hoặc không tham gia giảng dạy - chiếm tỷ lệ chỉ 0,89%. Đây cũng là thành phần ít nhất trong cơ cấu trình độ GV. Số GV có trình độ thạc sĩ chiếm tỷ lệ đông đảo nhất với 60,35%. Số GV có chức danh Phó giáo sư cũng chỉ chiếm 6,21%. Số GV có học vị tiến sĩ là 25,19% và có trình độ đại học là 7,36%” [7]. Đội ngũ GV đang bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp; trình độ chuyên môn của một bộ phận nhà giáo còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu dạy, học theo định hướng phát triển năng lực. Khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học trong quản lý, dạy và học của nhiều giáo viên còn hạn chế, nhất là ở những giáo viên lớn tuổi… Cơ cấu đội ngũ GV đại học chưa hợp lý. Việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo sư phạm giáo viên phổ thông chủ yếu dựa trên năng lực của cơ sở đào tạo, chưa xuất phát từ nhu cầu xã hội, gắn với nhu cầu đào tạo giáo viên theo từng cấp học, môn học, vùng, miền, địa phương dẫn đến cung vượt cầu và tình trạng vừa thừa, vừa thiếu” [8]. Vì vậy, các cơ sở GDĐH cần phải có các biện pháp để thực hiện tốt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ GV, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT giai đoạn 2019 - 2030”. 2.4. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, các cơ sở GDĐH phải xây dựng và thực hiện tốt chiến lược phát triển đội ngũ GV nhằm đáp ứng yêu cầu tự chủ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ... Phát huy 258
  6. truyền thống “tôn sư trọng đạo”, sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi ngộ theo tài năng và cống hiến với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề dạy học” [9]. Do đó, trước hết các cơ sở GDĐH cần rà soát, đánh giá kỹ lưỡng nhu cầu xã hội để xây dựng chiến lược phát triển ngành đào tạo đại học và sau đại học. Từ đó, có chiến lược phát triển đội ngũ GV phù hợp bảo đảm phát triển cả về số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng được củng cố và nâng cao. Tăng cường phát triển đội ngũ GV có trình độ cao (tiến sĩ, học hàm giáo sư, phó giáo sư), GV có nhiều kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Thứ hai, đẩy mạnh tự chủ giáo dục theo lộ trình tạo động lực để đội ngũ GV nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tự chủ giúp cho các cơ sở GDĐH hoạt động năng động, linh hoạt trong môi trường cạnh tranh, là động lực to lớn cho sự đổi mới và phát triển của cơ sở giáo dục. Bởi, chất lượng, uy tín của cơ sở GDĐH tự chủ có mối quan hệ biện chứng với cuộc sống của đội ngũ cán bộ, GV, nhân viên ở đó. Thu nhập của cán bộ, GV, nhân viên được xây dựng trên uy tín và chất lượng “thương hiệu” của cơ sở GDĐH. Vì vậy, để thực hiện tự chủ các cơ sở giáo dục phải xây dựng lộ trình và nghiêm túc thực hiện, trước hết, cần xây dựng cơ chế đặc thù để tuyển dụng nhân tài, có kế hoạch, chế độ, chính sách khuyến khích, bắt buộc GV đi học, bồi dưỡng nâng cao trình độ tiến sỹ, ngoại ngữ, tin học, nghiên cứu khoa học; xây dựng chính sách cụ thể để “tạo nguồn” giáo sư, phó giáo sư với những GV có tiềm năng; có những biện pháp giữ chân GV giỏi, cam kết sau khi đào tạo sẽ tiếp tục giảng dạy tại trường; kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục theo quy định của Bộ GD&ĐT; phát triển và đổi mới các ngành đào tạo mũi nhọn và cơ cấu lại các ngành quản lý hiện có theo hướng đổi mới tiếp cận nhu cầu xã hội. Thực hiện tốt “Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ GV và cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH cần được coi trọng vì đây là yếu tố quyết định chất lượng GDĐH” [10]. Thứ ba, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tự chủ đại học. Để thực hiện tự chủ đại học có hiệu quả, cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan nhằm đảm bảo tính đồng nhất và tạo điều kiện tốt để thực hiện thành công quyền tự chủ đại học trong các cơ sở GDĐH. Xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ, khả thi ràng buộc sự tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu nhà trường với xã hội về hiệu quả sử dụng tài sản và chất lượng của những sản phẩm do trường đào tạo, thông qua việc: xây dựng quy chế, quy định thực hiện các nội dung tự chủ với trách nhiệm đi kèm và khung pháp lý xử lý cụ thể; xây dựng cơ chế kiểm soát, tự giám sát chặt chẽ trong các lĩnh vực tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đồng thời, xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật và hướng dẫn cụ thể hơn nữa về tự chủ, nhất là tự chủ về học thuật, xác định quyền quyết định những vấn đề được nghiên cứu, giảng dạy, cách thức triển khai của cơ sở GDĐH. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, đưa ra những chính sách đồng bộ và chế độ quản lý phù hợp với đặc điểm của đại học hiện đại, nhằm tạo động lực cho các cơ sở giáo dục tự chủ, bảo đảm các nội dung đã được quy định trong Luật GDĐH. Thứ tư, tăng cường đánh giá chất lượng và nâng cao vai trò giám sát của các cơ quan chức năng và Nhân dân đối với cơ sở GDĐH. Đánh giá chất lượng của các cơ sở GDĐH có vai trò quan trọng, tăng tính minh bạch của thông tin và là điều kiện để đảm bảo chất lượng GDĐH, điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo, vị thế của các cơ sở GDĐH. Đây cũng chính là một hình 259
  7. thức quảng bá tốt nhất đối với “thương hiệu” của cơ sở GDĐH. Vì vậy, để thực hiện tốt điều này cần huy động các đối tượng xã hội tham gia thực hiện việc giám sát như các cơ quan tư vấn, đánh giá, kiểm định chất lượng, nhà tài trợ, nhân dân. Đa dạng hóa việc giám sát hoạt động của các cơ sở GDĐH như: đưa thông tin lên các diễn đàn, báo chí; đánh giá, kiểm định chất lượng đối với cơ sở giáo dục nhằm chống bệnh thành tích, hư học, hư danh, coi trọng “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Thứ năm, các cơ sở GDĐH cần coi trọng đầu tư cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập. Các cơ sở GDĐH cần chủ động đầu tư phát triển, sử dụng và khai thác hiệu quả cơ sở vật chất; nâng cấp giảng đường, phương tiện, thiết bị dạy học; thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục, ưu tiên đầu ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học. 3. KẾT LUẬN Tự chủ đại học là xu thế tất yếu trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện nay. Đó là điều kiện cần thiết để thực hiện phương thức quản trị đại học tiên tiến. Nó giúp cho các cơ sở GDĐH ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với xã hội, tạo điều kiện cho cơ sở GDĐH tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện sứ mạng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo và vấn đề cốt yếu là nâng cao chất lượng đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế. Trong quá trình đổi mới GDĐH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “... thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi mô hình trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư”. Do đó, việc nghiên cứu tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh hiện nay vừa mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cần thiết. Tuy nhiên, để tự chủ đại học các cơ sở GDĐH có nhiều giải pháp, trong đó quan tâm đầu tư xây dựng đội ngũ GV cả về số lượng và chất lượng là yêu cầu đặc biệt quan trọng. ________________ Tài liệu tham khảo [1] Hiệp hội Các trường đại học và cao đẳng Việt Nam (2017), Tự chủ đại học: Cơ hội và thách thức, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, tr. 22. [2] Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật số 34/2018.QH14, ngày 19/11/2018. [3] Mục tiêu của tự chủ đại học là tối ưu hóa hoạt động của toàn hệ thống. Nguồn: https://tuyensinh.tvu.edu.vn, ngày 27/11/2020. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 233. [5] Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. [6] Doãn Nhàn (2022), Cả nước có gần 6.000 giảng viên đại học chưa đạt chuẩn trình độ tính đến năm 2020. Nguồn: https://giaoduc.net.vn, ngày 29/8/2022. 260
  8. [7] Thanh Hùng (2022), Tỷ lệ giảng viên đại học có chức danh giáo sư ở Việt Nam chỉ đạt 0,89%. Nguồn: https://vietnamnet.vn, ngày 14/9/2022. [8] Nguyễn Hữu Độ (2019), “Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở Việt Nam”. Nguồn: https://tcnn.vn, ngày 8/3/2019. [9] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 13. [10] Thủ tướng Chính phủ (2019), Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 18/01/2019 Phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030”. 261
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2