TAØI CHÍNH<br />
<br />
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CẢNH BẢO SỚM KHỦNG HOẢNG<br />
KINH TẾ, TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ SỰ CẦN THIẾT<br />
ĐỐI VỚI VIỆT NAM<br />
Nguyễn Thị Lan*<br />
Tóm tắt<br />
Lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm cho thấy trong quá trình phát triển của hệ thống tài chính<br />
và ngân hàng của các nước thường xảy ra khủng hoảng theo chu kỳ và gây ra hậu quả tiêu cực<br />
về kinh tế-xã hội hết sức nặng nề. Nhằm đối mặt với các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính và<br />
hạn chế những tiêu cực của nó, các nhà kinh tế học trên thế giới đã nghiên cứu và xây dựng một<br />
Hệ thống cảnh báo sớm (EWS) có thể nâng cao khả năng ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng xảy ra<br />
trong tương lai. Xu hướng toàn cầu hóa với sự di chuyển tự do của dòng vốn, sự yếu kém nội tại của<br />
hệ thống ngân hàng Việt Nam và sự cạnh tranh gay gắt của các công ty tài chính nước ngoài đã và<br />
đang làm gia tăng tính dễ tổn thương của nền kinh tế và hệ thống tiền tệ, tài chính, ngân hàng Việt<br />
Nam trước các cú sốc bên trong và bên ngoài thị trường, đặt các hệ thống này trước nguy cơ bất ổn<br />
và rủi ro luôn thường trực, khó lường. Do vậy, việc thiết lập và vận hành EWS tại Việt Nam là hết<br />
sức cần thiết và cấp bách.<br />
Từ khóa: hệ thống cảnh báo sớm; khủng hoảng tài chính- tiền tệ; mô hình tín hiệu - mô hình<br />
phi tham số; mô hình hồi quy - mô hình tham số; mô hình chỉ tiêu.<br />
Mã số: 253. Ngày nhận bài: 05/04/2016. Ngày hoàn thành biên tập: 20/04/2016. Ngày duyệt đăng: 20/04/2016.<br />
<br />
Abstract<br />
The theoretical and experimental studies show that in the process of development of the banking<br />
and financial systems of all countries there are often occurring cyclical crisis and have caused<br />
negative effects on socio-economic. In order to deal with the financial and economic crisis and limit<br />
its negative effects, economic scholars have studied the construction of an Early Warning System<br />
(EWS) which can detect the ability of preventing the financial and economic crisis occurring in<br />
the future. The trend of globalization with free capital flow transition, the internal weaknesses of<br />
Vietnam’s banking system and sharp competition of foreign financial firms have been increasing<br />
vulnerable feature of economy and monetary, financial and banking system of Vietnam while<br />
occurring shock inside and outside market, putting such systems to be in danger of instability and<br />
standing, unmanaged risks. For this reasons, the establishment and operation of EWS in Vietnam<br />
is necessary and urgent..<br />
Key words: Early Warning System-EWS; Financial- money crisis; Signal model -non parametric<br />
model; Regression model -Parametric model; Indicator model.<br />
Paper No.253. Date of receipt: 05/04/2016. Date of revision: 20/04/2016. Date of approval: 20/04/2016.<br />
<br />
*<br />
<br />
TS, Trường Đại học Ngoại thương; email: buichuclinh@gmail.com<br />
<br />
52<br />
<br />
Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI<br />
<br />
Soá 82 (5/2016)<br />
<br />
TAØI CHÍNH<br />
<br />
1. Hệ thống cảnh báo sớm là gì?<br />
Xét một cách tổng quan, hệ thống cảnh<br />
báo sớm (Early Warning System-EWS) là hệ<br />
thống được một cá nhân hay tổ chức thiết lập<br />
ra để cảnh báo về một mối nguy hiểm trong<br />
tương lai, nhằm giúp họ chuẩn bị trước để đối<br />
mặt với rủi ro này và có các giải pháp để giảm<br />
thiểu hoặc phòng tránh mối nguy hiểm đó.<br />
Trong lĩnh vực kinh tế, tài chính- tiền tệ<br />
và hoạt động ngân hàng, EWS được hiểu là<br />
một hệ thống các chỉ số hoặc các thước đo,<br />
tiêu chí giúp nhận diện sớm và cảnh báo cho<br />
các cấp có thẩm quyền và các NHTM về các<br />
nguy cơ, rủi ro tiềm tàng của sự bất ổn, tổn<br />
thương về kinh tế vĩ mô, tài chính- tiền tệ của<br />
một nước, từ đó cho phép sớm nhận diện được<br />
nguy cơ một cuộc khủng hoảng trong tương<br />
lai ngay từ giai đoạn đầu hình thành và có<br />
những phản ứng chính sách kịp thời để ngăn<br />
ngừa không cho xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại<br />
của các cuộc khủng hoảng.<br />
Thực tế cho thấy, các cuộc khủng hoảng<br />
kinh tế, tài chính- tiền tệ đã xảy ra trong vòng<br />
hơn 20 năm trở lại đây như khủng hoảng kinh<br />
tế của Mexico (1994-1995), khủng hoảng tài<br />
chính-tiền tệ khu vực Châu Á (1997-1998),<br />
khủng hoảng Braxin và khủng hoảng tài chính<br />
toàn cầu năm 2008 gần đây nhất.v.v. đã gây ra<br />
những thiệt hại to lớn, nặng nề về tài chính và<br />
tiềm lực kinh tế. Do vậy, việc xây dựng và vận<br />
hành hệ thống cảnh báo sớm (EWS) về khủng<br />
hoảng kinh tế, tài chính- tiền tệ là vấn đề hết<br />
sức cần thiết đặc biệt là đối với các nước đang<br />
phát triển và mới nổi, trong đó có Việt Nam.<br />
2. Nguy cơ xảy ra khủng hoảng tài chính<br />
tiền tệ và sự cần thiết phải xây dựng EWS<br />
cho Việt Nam<br />
2.1. Nguy cơ xảy ra khủng hoảng tài<br />
chính- tiền tệ ở Việt Nam<br />
Soá 82 (5/2016)<br />
<br />
Là một nền kinh tế đang phát triển, đã và<br />
đang rất tích cực hội nhập với nền kinh tế thế<br />
giới, nền kinh tế Việt Nam đang tiềm ẩn những<br />
nguy cơ xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ,<br />
vì những bất ổn sau:<br />
Trước hết, có thể thấy sự bất ổn trong chất<br />
lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Theo số<br />
liệu từ Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng tổng<br />
sản phẩm trong nước (GDP) trong giai đoạn<br />
(2010-2015) bình quân 5 năm đạt trên 5,9%/<br />
năm, trong đó năm 2014 đạt 5,98%, năm<br />
2015 đạt 6,68%, được đánh giá là khá cao so<br />
với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, chất<br />
lượng tăng trưởng và năng suất nhiều ngành,<br />
lĩnh vực còn thấp, hệ số sử dụng vốn (ICOR)<br />
còn khá cao. Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch<br />
và Đầu tư, hệ số ICOR trung bình giai đoạn<br />
2001-2005 đạt 4,88, giai đoạn 2006-2010 tăng<br />
lên 6,96 và giai đoạn 2011-2015 là 6,91. Tuy<br />
nhiên, so với các quốc gia khác đã trải qua<br />
giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam<br />
thì hệ số ICOR của Việt Nam hiện nay vẫn ở<br />
mức cao. Điều này thể hiện chất lượng tăng<br />
trưởng của Việt Nam là khá thấp, tăng trưởng<br />
Việt Nam hiện nay quá phụ thuộc vào vốn, do<br />
vậy, nền kinh tế dễ bị “tổn thương” nặng nề<br />
do những biến động bất lợi từ môi trường bên<br />
ngoài.<br />
Thứ hai, sự tăng trưởng tín dụng quá nóng<br />
của Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn<br />
2009-2011. Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh<br />
của Việt Nam thể hiện ở hình 1.<br />
Thực tiễn quan sát các nước có khủng<br />
hoảng tiền tệ và hoạt động ngân hàng cho<br />
thấy tăng trưởng tín dụng cao luôn đi trước<br />
khủng hoảng tiền tệ. Việt Nam đã tăng trưởng<br />
tín dụng quá nhanh trong suốt những năm<br />
vừa qua. Như một hệ quả tất yếu thì lạm phát<br />
cũng leo thang với tốc độ nhanh. Tất cả đều<br />
Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI<br />
<br />
53<br />
<br />
TAØI CHÍNH<br />
%<br />
<br />
50<br />
45<br />
40<br />
35<br />
30<br />
25<br />
20<br />
15<br />
10<br />
5<br />
0<br />
-5<br />
<br />
T7/2009<br />
<br />
T1/2010<br />
<br />
T7/2010<br />
<br />
T1/2011<br />
<br />
T7/2011<br />
<br />
T1/2012<br />
<br />
T7/2012<br />
<br />
Hình 1. Tăng trưởng tín dụng của Việt Nam từ 2009 đến 2012<br />
Nguồn: OECD Statistic, 2013<br />
<br />
cho thấy một sự tăng trưởng tín dụng nóng<br />
của Việt Nam, kéo theo là một nguy cơ khủng<br />
hoảng tài chính tiền tệ ngày càng hiện hữu.<br />
Thứ ba, sự bất ổn của hệ thống ngân hàng<br />
Việt Nam<br />
Việc thành lập ồ at, quá nhiều NHTM và<br />
các định chế tài chính phi ngân hàng với quy<br />
mô nhỏ dẫn đến các ngân hàng quy mô nhỏ<br />
không đủ đáp ứng yêu cầu trong hoạt động<br />
kinh doanh, thua lỗ kéo dài và buộc phải sát<br />
nhập vào các ngân hàng lớn. Tính đến ngày<br />
31/12/2015 trên lãnh thổ Việt Nam vẫn còn<br />
36 NHTM. Tuy nhiên đây vẫn là con số lớn1<br />
so với quy mô một nền kinh tế khá chật hẹp<br />
với GDP năm 2015 chỉ khoảng 193 tỷ USD<br />
(Tổng cục Thống kê, 2015). Đồng thời năng<br />
lực vốn của hầu hết các ngân hàng là rất thấp<br />
so với các nước trong khu vực. Trong số 36<br />
ngân hàng vẫn có 17 ngân hàng vốn điều lệ<br />
dưới 5.000 tỷ, trong đó có 9 ngân hàng vốn<br />
chỉ khoảng 3.000 tỷ (vốn tối thiểu theo quy<br />
1 <br />
<br />
định của NHNN). Vietinbank hiện là ngân<br />
hàng dẫn đầu hệ thống về vốn điều lệ với hơn<br />
37.234 tỷ đồng (tương đương khoảng 1,7 tỷ<br />
USD), nếu so với các ngân hàng của các nước<br />
trong khu vực thì con số này khá nhỏ.<br />
Năng lực vốn thấp, cộng với sự tăng trưởng<br />
tín dụng nóng và nợ xấu của các NHTM vẫn ở<br />
mức khá cao sẽ làm gia tăng những rủi ro tiềm<br />
tàng đối với sự an toàn trong hoạt động của hệ<br />
thống tài chính, tiền tệ, ngân hàng Việt Nam.<br />
Thứ tư, bội chi NSNN vẫn ở mức cao, nợ<br />
công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn<br />
Theo số liệu mới nhất từ Bộ Tài chính, mức<br />
bội chi NSNN của Việt Nam, từ 2009 đến nay<br />
nhìn chung luôn ở mức cao trên 5%/GDP, đặc<br />
biệt là năm 2010 (gần 7%/GDP), mặc dù có sự<br />
cải thiện ở năm 2012 nhưng từ năm 2013 đến<br />
nay đều ở mức cao (năm 2015 là 6,1%/GDP).<br />
Mức bội chi NSNN cao và kéo dài nhiều năm<br />
sẽ kéo theo nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ<br />
<br />
Nếu như so sánh với Hàn Quốc, nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới mà cũng chỉ có khoảng 25 ngân hàng, hoặc<br />
Thái Lan, nền kinh tế có mức GDP trong những năm gần đây gấp 2 Việt Nam cũng có không đến 30 ngân hàng.<br />
<br />
54<br />
<br />
Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI<br />
<br />
Soá 82 (5/2016)<br />
<br />
TAØI CHÍNH<br />
<br />
lớn (tỷ lệ nợ công/GDP vào cuối năm 2015<br />
khoảng 62,2%, nợ Chính phủ/GDP là 50,3%,<br />
nợ nước ngoài của quốc gia/GDP là 43,1%).<br />
Do nợ công phần lớn là nợ nước ngoài nên nợ<br />
nước ngoài của quốc gia cũng sẽ tăng theo nợ<br />
công, gây sức ép đối với tài khoản vãng lai và<br />
ổn định tỷ giá. Và ngược lại, rủi ro tỷ giá cũng<br />
<br />
tạo áp lực trở lại lên nợ công, cộng thêm việc<br />
sử dụng vốn vay ở một số dự án kém hiệu quả<br />
và còn thất thoát, lãng phí làm gia tăng những<br />
rủi ro tiềm tàng đối với sự an toàn trong hoạt<br />
động của hệ thống tài chính, tiền tệ, ngân hàng<br />
Việt Nam.<br />
<br />
Hình 2: Nợ công và thâm hụt NSNN (% GDP)<br />
Nguồn: Bộ Tài chính, (*) số liệu Bộ Tài chính ước<br />
<br />
Thứ năm, tài khoản vãng lai của Việt Nam<br />
trong nhiều năm liên tục ở trạng thái thâm hụt.<br />
Mặc dù có sự cải thiện trong 2 năm 2012-2013<br />
nhưng nhìn chung tài khoản vãng lai của Việt<br />
Nam từ năm 2002 đến nay nhiều năm liên tục<br />
ở trạng thái thâm hụt. Điều này có nghĩa là<br />
tiết kiệm luôn thấp hơn đầu tư trong nước, để<br />
bù đắp trong khoảng thâm hụt này, bình quân<br />
mỗi năm Việt Nam sẽ phải đi vay nước ngoài<br />
một khoản vay tương ứng khoảng từ 6,5 - 7%<br />
GDP. Hơn nữa, xuất khẩu của Việt Nam hiện<br />
nay chủ yếu là xuất thô và các hàng hóa có giá<br />
trị thấp, trong khi đó phải nhập khẩu hầu hết<br />
các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Điều này làm<br />
tăng nguy cơ khủng hoảng cho hệ thống tài<br />
chính tiền tệ.<br />
Soá 82 (5/2016)<br />
<br />
Hình 3: Cán cân vãng lai của Việt Nam giai<br />
đoạn 2002-2012<br />
Nguồn: NHNN, 2013<br />
Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI<br />
<br />
55<br />
<br />
TAØI CHÍNH<br />
<br />
Thứ sáu, xu hướng toàn cầu hóa, mở cửa,<br />
hội nhập với thị trường thế giới cùng với sự<br />
dịch chuyển tự do của dòng vốn, nhu cầu đối<br />
với các hoạt động kinh tế đối ngoại tăng cao<br />
và sự cạnh tranh gay gắt của các công ty, tổ<br />
chức tài chính nước ngoài đã và đang làm gia<br />
tăng tính dễ tổn thương của nền kinh tế và hệ<br />
thống tiền tệ, tài chính, ngân hàng Việt Nam<br />
trước các cú sốc, biến động và diễn biến không<br />
thuận bên trong và bên ngoài thị trường, đặt<br />
các hệ thống này trước nguy cơ bất ổn và rủi<br />
ro luôn thường trực, đa dạng, khó lường.<br />
Từ những lý do trên có thể thấy Việt Nam<br />
vẫn đang ở trong giai đoạn có thể xảy ra khủng<br />
hoảng tài chính - tiền tệ với xác suất không nhỏ.<br />
2.2. Sự cần thiết phải xây dựng và vận<br />
hành hệ thống cảnh báo sớm (EWS) về khủng<br />
hoảng kinh tế, tài chính- tiền tệ ở Việt Nam<br />
Việc xây dựng và vận hành hệ thống cảnh<br />
báo sớm (EWS) về khủng hoảng kinh tế, tài<br />
chính- tiền tệ là vấn đề hết sức cần thiết ở Việt<br />
Nam hiện nay. Điều này xuất phát từ những<br />
lý do sau:<br />
Một là, do tầm quan trọng mang tính nền<br />
tảng và cốt lõi của ổn định kinh tế vĩ mô đến<br />
toàn bộ các hoạt động kinh tế, xã hội, chính<br />
trị, an ninh, đặc biệt là hệ thống tài chính, tiền<br />
tệ, ngân hàng cũng như vai trò đặc biệt của sự<br />
ổn định về tiền tệ, tài chính, ngân hàng đến sự<br />
ổn định của nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế.<br />
Hai là, với những bất ổn của nền kinh tế<br />
đã nêu ở trên cho thấy các nguy cơ tiềm tàng<br />
về rủi ro, bất ổn kinh tế vĩ mô và căng thẳng,<br />
khủng hoảng về tài chính tiền tệ ngày càng gia<br />
tăng, luôn đe dọa nền kinh tế và hệ thống tài<br />
chính, ngân hàng Việt Nam.<br />
Ba là, kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới<br />
cho thấy tổn thất mà các cuộc khủng hoảng<br />
gây ra và chi phí để giải quyết, xử lý hậu quả<br />
thường vô cùng nặng nề, đồng thời tác động<br />
56<br />
<br />
Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI<br />
<br />
của khủng hoảng là sâu rộng và kéo dài nhiều<br />
năm. Với những lợi ích quan trọng và thiết<br />
thực trong việc nhận diện, giám sát có hiệu<br />
quả các nguy cơ tiềm ẩn rủi ro, hệ thống cảnh<br />
báo sớm (EWS) được xem như là một trong<br />
những công cụ cảnh báo đắc lực, cho phép<br />
Chính phủ và các cơ quan hoạch định chính<br />
sách Việt Nam có thể kịp thời đưa ra những<br />
đối sách thích hợp nhằm phòng ngừa, ngăn<br />
chặn khủng hoảng hoặc giảm thiểu những rủi<br />
ro tiêu cực đến nền kinh tế.<br />
Bốn là, những hệ thống và mô hình hiện<br />
tại không đủ để cho phép cảnh báo sớm nguy<br />
cơ rủi ro, khủng hoảng. Hiện nay, chưa có Bộ,<br />
Ngành nào của Việt Nam chính thức công bố<br />
về việc thiết lập và vận hành một hệ thống cảnh<br />
báo sớm giúp nhận diện sớm các rủi ro và nguy<br />
cơ khủng hoảng/căng thẳng của nền kinh tế và<br />
hệ thống tài chính- tiền tệ, ngân hàng.<br />
Trong bối cảnh của những vấn đề bất ổn nói<br />
trên, một hệ thống cảnh báo sớm rủi ro kinh tế<br />
vĩ mô, tài chính-tiền tệ và hoạt động ngân hàng<br />
cần được thiết lập để giám sát, nhận diện sớm<br />
về những rủi ro, nguy cơ tiềm tàng của sự bất<br />
ổn về kinh tế vĩ mô, hoặc nguy cơ xảy ra khủng<br />
hoảng tài chính, tiền tệ, từ đó có những phản<br />
ứng, điều chỉnh hoặc biện pháp chính sách kịp<br />
thời để ngăn ngừa, hoặc xử lý, giảm thiểu tối<br />
đa nguy cơ, mức độ bất ổn, khủng hoảng xảy<br />
ra trong nền kinh tế và trên toàn hệ thống ngân<br />
hàng là hết sức cần thiết và cấp bách.<br />
3. Các phương pháp phổ biến trên thế<br />
giới được sử dụng trong xây dựng hệ thống<br />
EWS<br />
Thực tế, những công trình nghiên cứu trên<br />
thế giới về thiết lập hệ thống cảnh báo sớm<br />
đều dựa chủ yếu vào 3 phương pháp cơ bản,<br />
đó là: (1) phương pháp tín hiệu (hay còn gọi<br />
là phi tham số); (2) phương pháp hồi quy<br />
(hay còn gọi là tham số) và (3) phương pháp<br />
Soá 82 (5/2016)<br />
<br />