XÂY DỰNG VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG – NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIẢNG VIÊN<br />
TS. Lê Văn Hùng<br />
Khoa Lý luận chính trị và Xã hội<br />
Văn hoá học đường là môi trường để giáo dục và rèn luyện nhân cách con người, đặc biệt<br />
là thế hệ trẻ. Nếu môi trường học đường bị “ô nhiễm” thì nhà trường không thực hiện được chức<br />
năng truyền tải tri thức, các giá trị, chuẩn mực văn hóa đến thế hệ trẻ. Trong môi trường đại học<br />
hiện nay, đa số các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục vẫn giữ được các giá trị, nét đẹp của<br />
nền giáo dục truyền thống, đặc biệt chuẩn mực đạo đức yêu trò, kính thầy vẫn là tư tưởng chủ<br />
đạo. Bên cạnh đó, trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự bùng nổ của công<br />
nghệ thông tin, đặc biệt sự du nhập của văn hóa phương Tây đã làm cho môi trường đại học bị<br />
biến đổi, đạo đức của một bộ phận giảng viên đang bị xuống cấp, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu<br />
cực trong giảng đường đại học. Có thể nói môi trường đại học là một xã hội thu nhỏ, ở ngoài xã<br />
hội có tệ nạn gì thì ở trong môi trường đại học có tiêu cực đó. Sự vi phạm các chuẩn mực đạo<br />
đức, văn hóa trong môi trường đại học diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển<br />
của xã hội, đánh giá về vấn đề này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nhiều biểu hiện<br />
tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong<br />
quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn<br />
chơi, nghiện ma túy, tệ nạn xã hội… ở một bộ phận học sinh, sinh viên”[1].<br />
1. Quan niệm về văn hóa học đường<br />
Văn hoá học đường là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của<br />
một nền giáo dục, trong môi trường này tất cả các chủ thể tham gia từ người học đến nhà quản<br />
lý, giáo viên, nhân viên đều phải tuân thủ pháp luật, quy định, rèn luyện đạo đức, lối sống... Nếu<br />
môi trường học đường không giữ được nền nếp, giá trị, chuẩn mực, thầy không ra thầy, trò<br />
không ra trò thì nhà trường không thể thực hiện được chức năng truyền tải, giáo dục văn hóa.<br />
Để xây dựng văn hóa học đường cần thực hiện đồng bộ từ cơ chế, chính sách, pháp luật,<br />
quy định đến việc giữ đúng chuẩn mực đạo đức, văn hóa của mỗi chủ thể tham gia vào quá trình<br />
giáo dục. Có thể nói, khái niệm văn hóa học đường là một khái niệm còn mới ở Việt Nam, đến<br />
nay có một số nghiên cứu cũng bước đầu đề cập đến khái niệm này: “Văn hoá học đường là hệ<br />
thống những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành và tích luỹ trong lịch sử bao gồm<br />
những suy nghĩ, quan niệm thói quen, tập quán, tư tưởng, luật pháp... nhằm thiết lập mối quan<br />
hệ giữa thầy, trò và các thành viên có liên quan để việc dạy và học đạt kết quả cao”[2]. Ở một<br />
khía cạnh khác, khái niệm văn hóa học đường được đề cập đến ở những nội dung cụ thể hơn<br />
“Văn hóa học đường là toàn bộ yếu tố vật chất (giảng đường, phòng thí nghiệm, xưởng thực<br />
hành, không gian, cảnh quan) đảm bảo tính thẩm mỹ, giáo dục, góp phần tạo nên môi trường và<br />
phương tiện giáo dục tốt nhất; nội quy, quy chế của nhà trường phù hợp với chuẩn mực văn hóa<br />
chung của xã hội, phù hợp với nội quy, quy định của môi trường học đường đảm bảo cho các<br />
hoạt động trong trường học diễn ra lành mạnh, đạt mục tiêu giáo dục là đào tạo những con<br />
người toàn diện, có đủ đức, trí, mỹ, thể, có tri thức và có hoài bão khát vọng vươn lên[3]. Như<br />
vậy, nhìn chung khái niệm văn hóa học đường được biểu hiện ở một số nội dung sau: Văn hóa<br />
học đường là khái niệm đề cập đến toàn bộ hoạt động vật chất, tinh thần của một nhà trường;<br />
biểu hiện trước hết ở hệ thống các giá trị, chuẩn mực, niềm tin, quy tắc ứng xử tốt đẹp giữa các<br />
chủ thể trong môi trường giáo dục; đóng góp tích cực vào quá trình hoàn thiện, phát triển nhân<br />
cách người học, hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ.<br />
<br />
Thực tế những năm vừa qua, môi trường giáo dục đại học của Việt Nam có nhiều biểu<br />
hiện tiêu cực. Tuy nhiên, có một điểm đáng lưu ý là sự vi phạm văn hóa học đường thời gian qua<br />
không chỉ xuất phát từ phía người học mà không ít trường hợp nó đến từ những người thầy,<br />
người cô, những người đáng lẽ phải là những “khuôn mẫu” đạo đức, văn hóa trong môi trường<br />
giáo dục. Như vậy, để đánh giá khách quan, toàn diện hiện tượng vi phạm văn hóa học đường<br />
phải xét toàn diện các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục như nhà quản lý, nhà giáo, nhân<br />
viên, học sinh, sinh viên, từ pháp luật đến quy định của nhà trường… Tuy nhiên, trong phạm vi<br />
của bài viết, tác giả chỉ tiếp cận thực trạng văn hóa học đường – Nhìn từ góc độ của giảng viên,<br />
còn các chủ thể khác tác giả không đề cập đến.<br />
Câu hỏi xuất phát của vấn đề nghiên cứu rằng tại sao tác giả lại nhấn mạnh đến vai trò<br />
của giảng viên khi xây dựng văn hóa học đường? Như chúng ta đã biết, trường đại học là nơi xây<br />
dựng môi trường văn hóa, truyền tải văn hóa, mà người giữ trọng trách cơ bản ở đây chính là<br />
giảng viên, bởi vậy để tạo nên một nhân cách có văn hóa thì trước hết, nhà giáo dục phải là<br />
người có văn hóa. Thực tế đã chứng minh, muốn có trò giỏi, trò ngoan thì trước hết, thầy phải<br />
giỏi, phải chuẩn mực, bởi vậy C. Mác đã nhấn mạnh rằng, bản thân “nhà giáo dục cũng cần phải<br />
được giáo dục"[4]. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì lại nhấn mạnh: “thầy tốt thì ảnh hưởng tốt,<br />
thầy xấu thì ảnh hưởng xấu”[5]. Nhà trường không chỉ là nơi dạy chữ, mà còn là nơi dạy người,<br />
dạy cách ứng xử, lối sống có văn hóa, có đạo đức nên vai trò của người thầy rất quan trọng và<br />
không phải người nào cũng có thể làm thầy “thầy phải xứng đáng là thầy, thầy phải được lựa<br />
chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm thầy được”, thầy “phải là kiểu mẫu về mọi mặt, tư<br />
tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Như vậy có thể thấy, các nhà lý luận mác xít đều khẳng định<br />
phương pháp nêu gương của người thầy trong môi trường giáo dục.<br />
2. Một số biểu hiện vi phạm văn hóa học đường của giảng viên trong môi trường đại học<br />
hiện nay<br />
Dân tộc Việt Nam đã đúc rút được chân lý “không thầy đố mày làm nên” nhưng cũng rất<br />
biện chứng khi khẳng định “Thượng bất chính, hạ tất loạn”, “Người trên ở chẳng chính ngôi;<br />
Khiến cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào” hay muốn trò “tôn sư” thì trước hết thầy phải “trọng<br />
đạo”... Đứng trên quan điểm biện chứng, hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong môi trường đại học<br />
hiện nay không thể và không nên đổ lỗi tất cả cho sinh viên, có thể nói đó là cách nhìn phiến<br />
diện, bởi vì, những lỗi đó có thể bắt nguồn từ sự thiếu trách nhiệm, từ sự vi phạm văn hóa học<br />
đường của chính giảng viên. Đánh giá về hiện tượng này, Chiến lược phát triển giáo dục đã<br />
khẳng định, hiện nay “vẫn còn một bộ phận nhỏ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có biểu hiện<br />
thiếu trách nhiệm và tâm huyết với nghề, vi phạm đạo đức và lối sống, ảnh hưởng không tốt tới<br />
uy tín của nhà giáo trong xã hội”[6]. Có thể khái quát một số biểu hiện vi phạm văn hóa học<br />
đường của một bộ phận giảng viên hiện nay:<br />
- Vi phạm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước: Đã là giảng viên đại học, là<br />
người có trình độ cao, được Đảng và Nhà nước tạo điều kiện để học tập, nâng cao trình độ<br />
chuyên môn, thậm chí hàng năm, Nhà nước còn phải bỏ ngân sách để đưa giảng viên đi đào tạo ở<br />
nước ngoài. Với trình độ cao, đáng lẽ giảng viên phải là người hiểu biết, tích cực truyền bá<br />
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến người học, phải tích cực truyền bá<br />
tri thức khoa học giúp phát triển nền giáo dục nước nhà, giáo dục tinh thần yêu nước, đạo đức<br />
cách mạng. Tuy nhiên, hiện nay có một bộ phận giảng viên do sự suy thoái về tư tưởng, chính trị,<br />
đạo đức, lối sống… bởi sự tác động của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các<br />
thế lực thù địch nên vô tình hay hữu ý vi phạm chuẩn mực đạo đức nhà giáo, vi phạm chính sách,<br />
<br />
pháp luật của Đảng và Nhà nước. Thiết nghĩ, trong điều kiện hiện nay, Đảng ta ngoài việc tăng<br />
cường xây dựng chỉnh đốn để làm tốt vai trò lãnh đạo thì cũng cần phải loại bỏ những phần tử<br />
thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng, đồng thời các cơ quan, đoàn thể cũng phải cho thôi việc, chấm<br />
dứt hợp đồng lao động với những kẻ suy thoái về đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, xuyên<br />
tạc đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt đối với giảng viên, là người<br />
truyền thụ tri thức, đạo đức, nhân cách, ảnh hưởng đến nhiều thế hệ càng cần phải đặt ra yêu cầu<br />
cao về phẩm chất chính trị, tư tưởng, trình độ, năng lực, nếu họ thoái hóa, biến chất sẽ làm vẩn<br />
đục, đầu độc nhân cách của nhiều thế hệ, do đó, cần phải loại bỏ ra khỏi môi trường giáo dục.<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa<br />
trắng, nhuộm xanh thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ, vì vậy sự học tập ở nhà trường có ảnh<br />
hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của thanh niên là tương lai của nước<br />
nhà”[7].<br />
- Vi phạm các quy định về văn hóa trang phục: Trong giảng đường đại học, giảng viên<br />
không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn là tấm gương về đạo đức để sinh viên noi theo từ<br />
trang phục đến giao tiếp, ứng xử… Trong đó, trang phục đến trường của mỗi giảng viên cũng là<br />
một yếu tố tác động đến suy nghĩ, nhận thức, lối sống của sinh viên. Nếu giảng viên ăn mặc thiếu<br />
nghiêm túc, đi đứng, ngôn ngữ thiếu chuẩn mực… sẽ ảnh hưởng không tốt đến môi trường giáo<br />
dục vốn lấy đạo đức, lễ nghĩa, nghi thức làm trọng. Có một mâu thuẫn ở đây là, đối với giáo dục<br />
phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định tất cả học sinh phải mặc đồng phục, trong khi đó,<br />
các thầy cô giáo (không có quy định bắt buộc) lại được mặc tự do, theo sở thích. Đối với bậc đại<br />
học, chỉ có một số trường quy định sinh viên, giảng viên phải mặc đồng phục, còn đại đa số là<br />
không có quy định, đặc biệt là đối với giảng viên. Tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam, điều 6<br />
quy định đối với cán bộ, viên chức phải “đeo thẻ cán bộ, viên chức, trang phục gọn gàng, lịch sự,<br />
đi giày hoặc dép có quai hậu”[8]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có không ít giảng viên tự cho mình<br />
đặc quyền là không phải đeo thẻ công chức, điều đáng buồn hơn là nó diễn ra không chỉ ở giảng<br />
viên mà còn ở cả cán bộ - giảng viên. Khi lên lớp, giảng viên nào cũng giao giảng về quy định,<br />
đặt ra hết quy định này đến quy định khác đối với sinh viên tuy nhiên, có một quy định tối thiểu<br />
là đeo thẻ đến công sở thì giảng viên đó cũng không thực hiện được, vậy giảng viên đó còn giáo<br />
dục được ai nữa? Còn về trang phục, nếu chú ý quan sát chúng ta cũng sẽ không khó để bắt gặp<br />
những hình ảnh giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ có trang phục “kiệm vải”, mong manh lên<br />
giảng đường…<br />
- Vi phạm quy định về thời gian lên lớp, thời gian công bố điểm: Giờ vào lớp, giờ giải<br />
lao, giờ kết thúc đều ghi rõ trong quy định của Nhà trường và được ghi rõ trong phòng chờ giảng<br />
viên nhưng có không ít giảng viên không thực hiện quy định này. Khi vào lớp nhiều giảng viên<br />
không cho sinh viên vào muộn, đưa ra quy định về trừ điểm chuyên cần khi đến muộn, khi nghỉ<br />
không có lý do nhưng có một thực tế là có một bộ phận không nhỏ giảng viên thường xuyên đến<br />
muộn và vào lớp muộn, ra giải lao rất lâu nhưng lại cho về sớm so với thời gian quy định. Có thể<br />
nói bộ phận giảng viên này đã không tận tâm với nhiệm vụ lên lớp, không làm tròn trách nhiệm<br />
của giảng viên khi lên giảng đường. Thậm chí có giảng viên có việc (nếu là đột xuất) có lẽ cũng<br />
không cần bàn nhưng thực tế có những việc khác vẫn có thể xếp lại được nhưng họ sẵn sàng cho<br />
nghỉ mà không báo lại cho Bộ môn biết để sau này dạy bù sau, với họ ưu tiên số một chưa phải là<br />
việc lên lớp. Thử hỏi lớp có sĩ số một trăm sinh viên, có những sinh viên ở xa đi học nhưng khi<br />
đến lớp nhận được một tin ngắn “thầy cô ốm”, với ứng xử của giảng viên như vậy, họ sẵn sàng<br />
hy sinh thời gian, công sức, tiền bạc của số đông sinh viên để thuận lợi cho công việc riêng của<br />
họ. Việc này không loại trừ khả năng, có một số giảng viên còn lợi dụng khe hở trong quản của<br />
<br />
nhà trường, vì dạy bù rất khó thanh tra nên có thể cho lớp về sớm chăng? Những việc đó có lẽ<br />
chỉ những sinh viên – người trong cuộc, là nạn nhân của sự tùy tiện đó mới hiểu rõ được. Văn<br />
hóa học đường được nhà trường đặt ra nhưng chính người thực hiện nó - giảng viên đã vi phạm<br />
một cách trắng trợn những chuẩn mực tối thiểu, thử hỏi làm sao sinh viên không vi phạm văn<br />
hóa học đường, không coi thường giảng viên.<br />
Có lẽ cũng xuất phát từ thực tế nhiều giảng viên không hoàn thành thời gian nộp điểm về<br />
Ban Quản lý đào tạo đúng thời hạn nên Nhà trường đã đưa ra quy định giảng viên phải nộp điểm<br />
về Ban quản lý đào tạo sau 20 ngày thi. Tuy nhiên, thực tế có một bộ phận không nhỏ giảng viên<br />
vi phạm điều này, thậm chí có giảng viên vi phạm thường xuyên nhưng không bị xử lý. Đặc biệt,<br />
thông thường buổi học cuối cùng của môn học, giảng viên phải công bố công khai điểm giữa kỳ,<br />
điểm chuyên cần của sinh viên, tuy nhiên, điều tối thiểu này cũng có giảng viên cố tình không<br />
thực hiện… Việc chậm công bố điểm của sinh viên có thể ảnh hưởng đến kết quả xét tốt nghiệp,<br />
xét học bổng của sinh viên và không loại trừ có thể nảy sinh tiêu cực trong quá trình chấm điểm<br />
của giảng viên. Thực tế hiện nay, trong môi trường đại học, có một bộ phận giảng viên chỉ xem<br />
nghề dạy là “công cụ” kiếm sống, thậm chí sẵn sàng bán rẻ nhân cách để “đổi điểm lấy tiền”,<br />
“đổi điểm lấy tình” như báo chí đã thông tin. Hiện tượng này có thể chưa trở thành phổ biến<br />
nhưng cũng không còn là hiện tượng “con sâu bỏ rầu nồi canh” nữa. Do đó, cần phải “chú trọng<br />
nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong và tư cách của đội ngũ nhà giáo để làm gương cho học<br />
sinh, sinh viên”[9]. Có thể khẳng định, nếu giảng viên thực sự tôn trọng sinh viên, có tinh thần<br />
trách nhiệm với nghề nghiệp thì sẽ không có những hành động vi phạm quy chế về học và thi cử<br />
như vậy. Chính sự vi phạm quy định lên lớp, thi và chấm thi của một bộ phận giảng viên đã ảnh<br />
hưởng xấu đến tâm lý, tình cảm, động lực, động cơ học tập, phấn đấu của sinh viên.<br />
- Vi phạm sự phân công của Bộ môn khi lên lớp: Bên cạnh sự tùy tiện về thời gian lên<br />
lớp, còn có một vi phạm khác của giảng viên mà các trường ít quan tâm. Hiện nay, sinh viên<br />
đăng ký theo tín chỉ, khi đăng ký môn học sinh viên đã lựa chọn giảng viên dạy môn học đó. Tuy<br />
nhiên, có những giảng viên rất “hồn nhiên” vì một lý do nào đó như ở xa, dạy tiết 1, đi học nước<br />
ngoài… nên đã chủ động đổi lớp cho giảng viên khác. Điều này cũng tác động lớn đến tâm lý,<br />
tình cảm của sinh viên khi vào học môn học, họ bị rơi vào tình trạng “hẫng hụt”, “bị lừa”, “treo<br />
đầu dê bán thịt chó”… sinh viên không biết kêu ai mà chỉ biết than vãn với nhau “đăng ký cô này<br />
nhưng lại được học cô khác”. Với cách ứng xử tùy tiện của một số giảng viên như vậy đã vô tình<br />
vi phạm quyền dân chủ của sinh viên là được lựa chọn giảng viên khi học, ảnh hưởng đến tâm lý,<br />
kết quả học tập của sinh viên, lỗi này thuộc về giảng viên, Bộ môn và Ban Quản lý đào tạo<br />
nhưng trước hết là thuộc về giảng viên. Giảng viên cần tôn trọng người học, trong đó có quyền<br />
được lựa chọn giảng viên trong quá trình học. Từ thực tế là có một bộ phận nhỏ giảng viên do<br />
trình độ, năng lực, phẩm chất hạn chế nên đã tạo ra điều tiếng không hay cho Bộ môn, Khoa, có<br />
sinh viên khi xin mở lớp đặc biệt đã đề nghị từ chối học một số giảng viên, nếu Bộ môn quyết<br />
tâm phân công cho giảng viên đó thì sinh viên đó miễn cưỡng chấp nhận và không thực hiện các<br />
bước tiếp theo để mở lớp đặc biệt.<br />
- Bảo thủ, không đổi mới hoặc lạm dụng đổi mới phương pháp giáo dục: Trong những<br />
năm qua, Đảng và Nhà nước đang thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, trong<br />
đó có nội dung đổi mới phương pháp giáo dục. Phương pháp giáo dục được sử dụng phổ biến<br />
hiện nay là “lấy người học làm trung tâm”, với mục tiêu là biến quá trình giáo dục thành quá<br />
trình tự giáo dục, quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, phát huy tính tích cực, chủ<br />
động, sáng tạo của người học. Giảng viên không còn đóng vai trò là người truyền thụ tri thức<br />
<br />
mà chủ yếu giữ vai trò là người định hướng, gợi mở. Thấy được những tồn tại, yếu kém của giáo<br />
dục và đào tạo những năm qua, Đảng ta đã khẳng định cần phải “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ<br />
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận<br />
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy<br />
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật<br />
và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”[10]. Trước tiên cần khẳng định, để đổi mới<br />
phương pháp giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố từ cơ sở vật chất của nhà trường; năng lực,<br />
trình độ, phương pháp giảng dạy của giảng viên; điểm đầu vào, năng lực, trình độ nhận thức của<br />
sinh viên… đồng thời, nó còn phụ thuộc vào nội dung chương trình của từng môn học để lựa<br />
chọn và triển khai phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng nội dung… Tuy nhiên, thực tế<br />
phương pháp giáo dục này đang “biến tướng” thành nhiều hình thức khác nhau:<br />
Đối với bộ phận giảng viên “thủ cựu”, họ phê phán phương pháp giáo dục lấy người học<br />
làm trung tâm. Họ vẫn tiếp tục với phương pháp lấy người dạy làm trung tâm: Giảng viên chủ<br />
yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, giảng viên nói sinh viên ghi, giảng viên trình bày toàn bộ<br />
nội dung bài học, tranh thủ truyền thụ vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mình. Trong khi đó, sinh<br />
viên tiếp thu thụ động, cố hiểu và nhớ những điều giảng viên đã giảng, trả lời những câu hỏi<br />
giảng viên nêu ra về những vấn đề đã dạy. Thực tế cho thấy, có không ít giảng viên hiện nay<br />
không thể đổi mới phương pháp giáo dục do hạn chế về năng lực, trình độ, phương pháp và mắc<br />
vào căn “bệnh” bảo thủ, ngại khó, ngại khổ để chuyển sang phương pháp mới. Bộ phận giảng<br />
viên có tư tưởng bảo thủ này còn khá nhiều và xem ra họ cũng “tâm huyết” với sinh viên, họ chỉ<br />
sợ đổi mới phương pháp giảng dạy thì sinh viên không thể tự học được. Do đó, những giờ học<br />
trên lớp, họ chỉ tập trung giúp sinh viên chép được những kiến thức ngắn hơn giáo trình, thời<br />
gian để mở rộng và đào sâu kiến thức gần như không có và đối với nhiều sinh viên thụ động, thì<br />
họ cũng thích phương pháp giảng dạy “truyền thống” này vì không phải tư duy nhiều và không<br />
phải đọc tài liệu. Trong thời đại cách mạng khoa học phát triển nhanh, vị trí, vai trò của giảng<br />
viên đã thay đổi nhiều so với truyền thống. Trong nền giáo dục truyền thống, người thầy là người<br />
nắm toàn bộ tri thức trong sách “Thánh hiền” nên phương pháp dạy học lấy người dạy làm trung<br />
tâm là phù hợp. Hiện nay, đặc biệt với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học,<br />
với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão, nếu giảng viên vẫn giữ<br />
phương pháp giảng dạy truyền thống sẽ không còn phù hợp. Đặc biệt với hình thức đào tạo tín<br />
chỉ đang triển khai ở nhiều trường đại học, cao đẳng, thời gian lên lớp của sinh viên rất ít, chủ<br />
yếu là thời gian tự học, tự nghiên cứu mà giảng viên không thay đổi phương pháp thì sẽ triệt tiêu<br />
mọi động lực học tập, nghiên cứu của sinh viên, lên lớp mà giảng viên vẫn sử dụng những câu<br />
quen thuộc như “ghi đi”, “chép đi”, v.v.. thì làm sao phát huy được năng lực chủ động, sáng tạo<br />
của sinh viên, và thực chất đó cũng không phải là giáo dục đại học mà cùng lắm mới chỉ dừng lại<br />
ở “giáo dục cấp 4” mà thôi.<br />
Đối với bộ phận giảng viên “cấp tiến” thì triệt để sử dụng phương pháp giáo dục lấy<br />
người học làm trung tâm. Ở phương pháp này, giảng viên coi trọng việc tổ chức cho sinh viên<br />
hoạt động độc lập hoặc theo nhóm (thảo luận, làm thí nghiệm…) thông qua đó sinh viên vừa chủ<br />
động nắm tri thức, kĩ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự học, làm quen với<br />
phương pháp nghiên cứu. Giảng viên quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng<br />
cá nhân và của tập thể nhóm sinh viên để hình thành, phát triển kiến thức, năng lực cho họ. Tuy<br />
nhiên, nếu sử dụng không đúng, lạm dụng phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm sẽ<br />
dẫn đến sinh viên “tự bơi” trong tri thức. Bộ phận này không nhiều nhưng cũng không phải hiếm<br />
trong môi trường đại học hiện nay. Thực chất của hiện tượng này là giảng viên rất giữ sức khi<br />
<br />