intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Yếu tố nào tạo nên sức mạnh cường quốc kinh tế của Trung Quốc?

Chia sẻ: Đinh Phương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

66
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nêu lên một số đánh giá của giới chuyên gia nước ngoài về các yếu tố tạo nên sức mạnh cường quốc kinh tế của Trung Quốc với các nội dung chủ yếu: Thị trường nội địa đã tạo nội lực để phát triển nền kinh tế trước khi hướng ngoại, “Mô hình  Trung  Quốc” đang khẳng  định sức mạnh tăng trưởng vượt trội với biện pháp “tự xoay chuyển” và “cùng xoay chuyển”, ... Để tìm hiểu rõ hơn, mời các bạn cùng xem và tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Yếu tố nào tạo nên sức mạnh cường quốc kinh tế của Trung Quốc?

Nghiên cứu Quốc tế số 1 (84) , 3/2011:135-148. Các vấn đề Quốc tế trường bằng cả ba nước trên cộng lại. Với sức mạnh từ thị trường nội địa, trong lần họp đầu tiên của khối BRIC tại Nga (tháng 6/2009), Trung Quốc đã đại diện cho bốn nước nêu lên kế hoạch định hình lại trật tự thế giới thành các khối đa cực với các cường quốc kinh tế và chính trị trong từng khu vực. Điều này khẳng định mọi biến động kinh tế của Bra-xin, Nga, Ấn Độ và các khu vực lân cận (từ châu Á đến châu Mỹ La-tinh) đều tùy vào nhịp đập của nền kinh tế Trung Quốc. Ảnh hưởng của Trung Quốc từ thị trường nội địa vô cùng lớn, tạo tiền đề cho sự phát triển nền kinh tế trong nước trước khi hướng ra thế giới. YẾU TỐ NÀO TẠO NÊN SỨC MẠNH CƯỜNG QUỐC KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC? Nguyễn Nhâm Thời gian gần đây, nhận định về nền kinh tế Trung Quốc, giới chuyên gia nước ngoài tồn tại hai luồng ý kiến. Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng Trung Quốc đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng tài chính với việc tăng trưởng nóng, lạm phát cao, đổ vỡ hệ thống ngân hàng, vỡ “bong bóng” tài sản. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng nền kinh tế Trung Quốc khó có khả năng rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính và nền kinh tế này đã chính thức trở thành một cường quốc kinh tế với khả năng can thiệp sâu vào diễn biến kinh tế thế giới. “Mô hình Trung Quốc” đang khẳng định sức mạnh tăng trưởng vượt trội với biện pháp “tự xoay chuyển” và “cùng xoay chuyển” Đại sứ Richard S. Williamson (nguyên Ngoại trưởng Mỹ, Trợ lý Tổng thống về các vấn đề liên chính phủ dưới thời Ronald Reagan, đặc phái viên của Tổng thống George W. Bush về Xu-đăng), Giáo sư Regina Abrami (Đại học Havard), Stephen Green (đứng đầu bộ phận nghiên cứu về thị trường Trung Quốc của Ngân hàng Standard Chartered tại Thượng Hải), Gabriel Profiti (nhà báo chuyên về chủ đề kinh tế của Ác- hen-ti-na) đều có chung nhận định xung quanh “mô hình Trung Quốc”. Trong khi mô hình “tự do dân chủ + kinh tế thị trường” của Mỹ - Anh bị nghi ngờ, thì “mô hình Trung Quốc” đã tạo thế mạnh riêng. Mô hình này được tập hợp bởi các biện pháp Trung Quốc “tự xoay chuyển” và “cùng xoay chuyển”. Tác giả bài viết xin nêu lên một số đánh giá của giới chuyên gia nước ngoài về các yếu tố tạo nên sức mạnh cường quốc kinh tế của Trung Quốc với các nội dung chủ yếu sau: Thị trường nội địa đã tạo nội lực để phát triển nền kinh tế trước khi hướng ngoại Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, thị trường nội địa của Trung Quốc tạo nên ảnh hưởng vô cùng lớn. Đây là thị trường nổi bật nhất trong khối BRIC (Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) - khối chiếm hơn 1/4 tổng diện tích sinh sống và hơn 40% dân số thế giới. 1 Sức mạnh của khối BRIC hoàn toàn phụ thuộc vào Trung Quốc với sức mua thị Về biện pháp “tự xoay chuyển”: Trung Quốc tiếp tục kiên trì cải cách mở cửa thực hiện “tự chuyển động”, giữ cho chính trị, kinh tế, xã hội trong nước ổn định. Trung Quốc tìm cách chống lại sự bất ổn xã hội, đặc biệt là các bất ổn ở nông thôn thông qua việc mở rộng sự thịnh 1 Thực Anh, “BRIC trụ cột mới trong một trật tự thế giới đang định hình”, Vfinance, ngày 20/4/2010. 3/2011 135 1 136 3/2011 Nghiên cứu Quốc tế số 1 (84) Các vấn đề Quốc tế vượng kinh tế từ vùng duyên hải sang các khu vực nông thôn nội địa; biến “ý thức công dân” trở thành nhu cầu tự giác của mọi người, vượt trên ý nghĩa chính trị và ý thức hệ trước đây (tinh thần sẵn sàng tiếp nhận những nguy cơ khó khăn về kinh tế và tiếp tục tiến lên). Trung Quốc tiếp tục tận dụng thời cơ khủng hoảng để đầu tư vào các nền tảng chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng nội địa trong dài hạn. Trung Quốc không chọn cách cố hàn gắn “vết thương” từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà thúc đẩy hoạt động ngoại giao với hàng loạt chuyến thăm Trung Đông, châu Đại Dương, châu Mỹ La-tinh để tìm kiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm duy trì sự tăng trưởng kinh tế dài hạn của họ. Đây chính là những nỗ lực vượt bậc giúp Trung Quốc không chỉ thoát khỏi tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, mà còn khẳng định được sức mạnh vượt trội từ cuộc khủng hoảng này. thể. Các nước châu Âu sẽ sớm trở thành một đối tác kinh tế mạnh và vững bền của Trung Quốc. Với “Mô hình Trung Quốc”, mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã “làm kinh ngạc thế giới hết từ con số này qua con số khác”. Theo báo cáo của chính phủ Trung Quốc ngày 21/01/2010, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 10,7% trong quý 4/2009 bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động nặng nề đến lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc, tổng sản phẩm quốc nội đạt 4.900 tỷ USD, tăng 8,7% so với 2008, vượt chỉ tiêu tăng trưởng 8,3% đề ra, doanh số bán lẻ năm 2009 đã tăng 16,9% nhờ chính sách khuyến khích chi tiêu nội địa để bù đắp cho hoạt động xuất khẩu, 2 đã đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, vượt qua Nhật Bản và chỉ đứng sau Mỹ. Theo hãng tin tài chính Bloomberg (dẫn thông tin từ Cơ quan Thống kê Nhà nước Trung Quốc ngày 15/4/2010): “GDP của Trung Quốc trong quý 1/2010 tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước”. Mức tăng này cao hơn dự báo 11,7% mà Bloomberg đưa ra trước đó. Ngày 14/4/2010, Cơ quan Thống kê Nhà nước Trung Quốc đã công bố giá bất động sản tháng ba ở nước này tăng với tốc độ kỷ lục 11,7%. Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tính đến cuối tháng 3/2010 lập kỷ lục mới 2.447 tỷ USD, tăng 25,25% so với ở thời điểm cuối tháng 3/2009. Xuất khẩu quý 1 của nước này tăng 29%. IMF dự báo GDP của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 10% trong cả hai năm 2010 và 2011. 3 Chuyên gia Mỹ đoạt giải Nobel Kinh tế Robert Fogel dự đoán vào năm 2040, Trung Quốc sẽ chiếm 40% sản lượng kinh tế toàn cầu trong khi kinh tế Mỹ chỉ chiếm 14%. Ông Fogel tuyên bố: “Đó có thể Về biện pháp “cùng xoay chuyển”: Trung Quốc theo sát nhịp bước thời đại thực hiện “cùng chuyển động”, gắn với vận mệnh thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa. Trong lĩnh vực tiền tệ quốc tế, Trung Quốc từng bước khẳng định vị trí nước lớn (với mức dự trữ ngoại hối khổng lồ và đang trở thành lực lượng quan trọng để ổn định thị trường tiền tệ quốc tế). Trung Quốc đang tìm cách thực hiện việc tăng tốc cải tạo và tái tạo thể chế tiền tệ trong nước; phát huy vai trò trong quá trình xây dựng lại trật tự tiền tệ quốc tế (trong đó cơ chế G20 là một vũ đài quan trọng); thường xuyên có những động thái để tránh sự cô lập ngoại giao, đặc biệt là việc bền bỉ chống lại những áp lực đòi điều chỉnh tỷ giá đồng Nhân dân tệ bằng những điều chỉnh định kỳ trên danh nghĩa (Trung Quốc đã phát huy hiệu quả thông qua việc cố tránh nói “không” và bền bỉ tránh nói “có”). Trung Quốc cũng đang xây dựng một chiến lược thương mại một cách tỉ mỉ đối với các nước châu Âu trong tinh thần sẵn sàng cùng hợp sức bảo vệ kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghiệp và lợi ích tập 3/2011 137 2 “Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 8,7% trong năm 2009”, www.dantri.co m, ngày 21/ 01/ 2010. 3 “Kinh tế Trung Quốc vượt Nhật Bản đứng thứ hai thế giới: Nhất thời hay tất yếu?”, Báo Người đại biểu nhân dân, ngày 19/08/2010. 2 138 3/2011 Nghiên cứu Quốc tế số 1 (84) Các vấn đề Quốc tế là những gì mà quyền bá chủ kinh tế thể hiện”. Các nhà kinh tế dự đoán trong khoảng từ năm 2040 - 2050, Trung Quốc sẽ đạt mức GDP lớn nhất thế giới và có một tầng lớp trung lưu khoảng 527 triệu người (tương đương với toàn bộ dân số Mỹ La-tinh). Sergio Cesarin, chuyên gia thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật quốc gia của Ác-hen-ti- na (CONICET), khẳng định: “Trung Quốc là người thắng cuộc trong cuộc khủng hoảng những năm 1990 và lại là người thắng lớn trong cuộc khủng hoảng vừa qua. Giờ đây họ đã trở thành những tài phiệt thượng lưu và có quyền áp đặt luật lệ của cuộc chơi”. nhập vào cộng đồng thế giới một cách sâu rộng và toàn diện. Các chuyên gia quốc tế thừa nhận việc Trung Quốc thực thi hàng loạt hoạt động đối ngoại tới Trung Đông, châu Đại Dương, Mỹ La-tinh để tìm kiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên là một “động thái thông minh”, theo cái gọi là “vết thương kinh tế mở ra cơ hội mới”. Theo đó: - Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ song phương trên lĩnh vực thương mại và đầu tư với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản. + Quan hệ Trung - Mỹ: Mặc dù cuộc chiến tỷ giá hối đoái giữa Trung Quốc và Mỹ có thời điểm bị đẩy cao song Trung Quốc đã làm trỗi dậy “Chủ nghĩa thực dụng Bắc Kinh” để không ngừng khẳng định hợp tác trên lĩnh vực kinh tế thương mại vẫn là trục chính trong mối quan hệ Trung - Mỹ, mối quan hệ được Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào khẳng định tại Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Trung - Mỹ vòng 2 là quan trọng nhất thế giới, không chỉ mang lại lợi ích cho hai nước Trung - Mỹ mà còn góp phần duy trì nền hòa bình, ổn định và sự hưng thịnh cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương và các khu vực lân cận. Chủ tịch Hội Thương mại Trung Quốc - Mỹ Hoa Kim Thanh tuyên bố trong 30 năm tới mối quan hệ kinh tế hai nước sẽ thực hiện ba dự án nghìn tỷ USD. Đó là, tới năm 2039 sẽ thực hiện xuất khẩu từ Mỹ sang Trung Quốc đạt kim ngạch 1000 tỷ USD/năm; doanh số bán hàng tại Trung Quốc của các doanh nghiệp Mỹ đạt 1000 tỷ USD và đầu tư tại Mỹ của các doanh nghiệp Trung Quốc đạt 1000 tỷ USD. 4 Chủ nghĩa thực dụng của Trung Quốc khiến lãnh đạo Trung Quốc và Mỹ đều nhận rõ: không nên khuếch đại sự xung đột mà hợp tác vẫn rất cần là trục chính trong mối quan hệ Sự trỗi dậy của “Chủ nghĩa thực dụng Bắc Kinh” đã giúp Trung Quốc hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, góp phần cân bằng lại sức mạnh kinh tế thế giới Chủ nghĩa thực dụng Bắc Kinh ngày nay không dừng lại ở chủ thuyết “mèo trắng, mèo đen” mà thể hiện nổi bật ở chính sách đối ngoại kinh tế, lấy lợi ích kinh tế thương mại làm trung tâm, là trục chính cho mọi mối quan hệ; chủ động giảm thiểu các xung đột, mâu thuẫn; “biến họa người thành phúc ta”; tiếp cận “phi tư tưởng” với các đối tác và còn “phá lệ” với cả đối tác chưa tuân thủ nguyên tắc “một Trung Quốc”. Bản sắc riêng của chủ nghĩa thực dụng Bắc Kinh đã và đang thể hiện tính ưu việt của mình so với chủ nghĩa thực dụng của Mỹ. Ngày nay, Trung Quốc coi chính sách ngoại giao như một phương tiện quan trọng và hiệu quả để khuyến khích lợi ích thương mại. Theo Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á tại The Heritage Foundation ở Washington, Trung Quốc đã tiếp cận các vấn đề liên quan đến ngoại giao kinh tế theo cách mà Mỹ không làm. Trong khi chính quyền Obama chưa đề ra một chương trình nghị sự thương mại bao quát hơn thì thông qua chính sách ngoại giao kinh tế, Trung Quốc đã hội 3/2011 139 “Mối quan hệ tế nhị Trung Quốc - Mỹ”, xem tại: www.ckxx.in fo/focus/focus , ngày 09/ 02/ 2010. 4 3 140 3/2011 Nghiên cứu Quốc tế số 1 (84) Các vấn đề Quốc tế giới, giữa Nhật Bản và Trung Quốc ngày càng có sự phụ thuộc lẫn nhau về phát triển, thương mại và kinh doanh; đồng thời, đề nghị hai nước cần thiết lập mối quan hệ chiến lược vững chắc, hai bên cùng có lợi, đối mặt với khủng hoảng và cùng vượt qua khó khăn hiện nay. Hiện Trung Quốc đã thay thế Mỹ để trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản. hai nước. Giới chuyên gia kinh tế Mỹ và Trung Quốc đều có chung quan điểm cho rằng lập trường của Mỹ thúc ép đồng Nhân dân tệ tăng giá cũng đã có sự dao động, cuộc tranh chấp về tỷ giá đồng Nhân dân tệ giữa Trung Quốc và Mỹ có triển vọng được giải quyết êm thấm trong bối cảnh này. Mỹ đang chuyển đổi từ “tâm trạng hoá” sang “lý trí hóa” để nhìn nhận vấn đề tỷ giá đồng Nhân dân tệ một cách khách quan và toàn diện chứ không phiến diện, chủ quan như trước đây (muốn tiến hành cuộc chiến thương mại, cuộc chiến tiền tệ với Trung Quốc). + Quan hệ Trung - Ấn: Theo Chen Deming, Bộ trưởng Thương mại của Trung Quốc, việc tăng cường mối quan hệ hợp tác thương mại Trung - Ấn có thể giúp thế giới hồi phục sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Bộ trưởng Thương mại của Trung Quốc và Ấn Độ đã đồng ý tăng cường vốn đầu tư giữa hai bên. Hiện Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn thứ hai của Ấn Độ. Kim ngạch thương mại hai chiều đã tăng lên đến 50 tỷ USD vào năm 2009. Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp của Ấn Độ, ông Anand Sharma, hy vọng rằng con số này sẽ tăng lên 60 tỷ USD trong năm 2010. Cả hai nước đều đang tìm kiếm các đặc quyền thương mại trong việc hợp tác này. Theo đánh giá của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, năm 2010, Trung Quốc và Ấn Độ hiện được xem là đã sẵn sàng với vai trò lãnh đạo nền kinh tế toàn cầu thoát khỏi tình trạng trì trệ. Thương mại Trung Quốc - Ấn Độ tăng trưởng mạnh và có thể lên mức 60 tỷ USD trong năm 2010 và Trung Quốc trở thành thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu lớn nhất cho nhóm nước công nghiệp phát triển tại Đông Á. + Quan hệ Trung - Nga: Thông qua cuộc hội đàm cấp cao bên lề Hội nghị thượng đỉnh thường niên lần thứ 10 của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), lãnh đạo hai nước Trung Quốc và Nga đã tuyên bố sẵn sàng thúc đẩy hơn nữa hoạt động hợp tác trong lĩnh vực thương mại, kinh tế, năng lượng đặc biệt là giữa các địa phương nhằm nâng cao hơn nữa sự hợp tác thực tiễn, đạt được những kết quả to lớn hơn. Nga đang “chờ đón” khoản vay trị giá 25 tỷ USD từ Trung Quốc, đổi lại, Nga sẽ cung ứng dầu mỏ trong dài hạn cho Trung Quốc (bắt đầu từ năm 2011, khi đường ống Thái Bình Dương - Đông Xi-bê-ri hoàn tất, hai công ty của Nga Rosneft và Transneft sẽ cung cấp 300 nghìn thùng dầu thô một ngày cho Trung Quốc trong 20 năm). Giới chuyên gia quốc tế nhấn mạnh: liên kết về năng lượng giữa Nga và Trung Quốc ngày một vững mạnh, thậm chí, để đảm bảo nguồn cung cho Trung Quốc, Nga có thể bỏ qua bạn hàng châu Âu trong giai đoạn 2010-2011.5 + Ngoài ra, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc, chiếm tới 19,6% tổng kim ngạch ngoại thương của nước này. Trung Quốc cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Phi- líp-pin và là nguồn tài trợ lớn nhất về năng lượng, nông nghiệp và cơ sở hạ tầng. Chiến dịch lấy lòng của Trung Quốc đối với Phi- líp-pin làm suy yếu vị trí là đối tác kinh tế và an ninh hàng đầu tại Phi- líp-pin của Mỹ. Thành công nổi bật của Trung Quốc trong phát triển cơ sở hạ tầng đã thúc đẩy Ấn Độ + Quan hệ Trung - Nhật: Tại cuộc gặp với các đại diện doanh nghiệp Nhật Bản ở thủ đô Tokyo (ngày 30/5/2010), Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhấn mạnh với tư cách là hai nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế “Ai chiếm lĩnh thị trường năng lượng Trung Á?”, Tạp chí Dầu khí, số tháng 9/2010, tr. 61. 5 3/2011 141 4 142 3/2011 Nghiên cứu Quốc tế số 1 (84) Các vấn đề Quốc tế và In-đô-nê-xi-a cố gắng học tập hình mẫu của Trung Quốc. Các chuyên gia quốc tế cũng cho rằng, thông qua việc Tập đoàn đường sắt Trung Quốc bảo đảm có một hợp đồng 4,8 tỷ USD xây dựng và vận hành một mạng lưới vận chuyển than ở Nam Sumatra đã khẳng định sự hiện diện kinh tế đang phát triển của Trung Quốc ở In-đô-nê-xi-a (quốc gia vốn lo ngại sự lớn mạnh của Trung Quốc tại khu vực sẽ “tàn phá” ngành công nghiệp dệt, may mặc và giày dép của mình). diện thường trực tại Ban Thư ký ASEAN, tổ chức Hội chợ Trung Quốc ASEAN, tham gia Hội nghị cấp cao về Thương mại và Đầu tư Trung Quốc - ASEAN, Trung Quốc được nhìn nhận như “một dòng thuỷ triều đang lên có thể nâng đẩy tất cả các con thuyền trong khu vực”. Đáng chú ý, với việc bỏ ra 15 tỷ USD để cho vay nhằm thúc đẩy sự liên kết và hội nhập trong khu vực, Trung Quốc đang cố gắng làm sâu sắc hợp tác kinh tế, thương mại giữa các nước ASEAN, cùng ứng đối với khủng hoảng tài chính tiền tệ, thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển bình ổn. ASEAN+3 tạo điều kiện cho hiệp định tự do giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc trở thành một liên minh kinh tế gần gũi hơn. CAFTA tạo ra các khu vực phi mậu dịch lớn nhất về dân số, lớn thứ ba về khối lượng mậu dịch và đang được Trung Quốc xem là “một sự kiện hạnh phúc lớn cho gia đình Trung Quốc - ASEAN”. Quỹ CMIM chính thức đi vào hoạt động có ý nghĩa quan trọng, góp phần khẳng định vị thế mới của châu Á trong các định chế tài chính quốc tế hiện nay, giúp các nước ASEAN+3 chủ động hơn trong ứng phó với mọi thách thức, sớm đưa nền kinh tế châu Á hồi phục nhanh chóng sau thời kỳ khủng hoảng. CGIF sẽ giúp cho các tập đoàn có thể phát hành trái phiếu tại thị trường nội địa, các thị trường láng giềng và trên khắp ASEAN+3, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và góp phần giảm nghèo cho khu vực. CGIF là sự tiếp nối của các nỗ lực nhằm thúc đẩy các thị trường trong cùng một khu vực ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau. Sức mạnh từ quyền lực mềm của Trung Quốc tại ASEAN đã khiến Ủy ban Nghiên cứu Kinh tế và An ninh Mỹ - Trung (USCC) phải tổ chức một buổi điều trần về các hoạt động của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á và tác động đối với lợi ích của Mỹ trong khu vực chiến lược này. Trong buổi điều trần, David Shear - Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ về vấn đề Đông Á- Thái Bình Dương phải thừa nhận: “Rõ ràng là cả Trung Quốc và các nước ASEAN đều thấy hai bên cùng có lợi khi việc mở rộng thương mại và quan hệ kinh tế của Trung - Ngoại giao quyền lực mềm của Trung Quốc được thực thi hiệu quả ở hầu hết các khu vực trên thế giới, giúp Trung Quốc hội nhập rộng rãi với nền kinh tế toàn cầu. Quyền lực mềm của Trung Quốc là sự hấp dẫn của Trung Quốc đối với các đối tác thông qua nền văn hoá, tư tưởng, chính trị, các chính sách và mô hình phát triển. Khác với quyền lực mềm của Mỹ là không có “hàng kèm” như dân chủ, nhân quyền…, những hỗ trợ với các đối tác về kinh tế, khoa học - công nghệ được sử dụng vào những vùng khó khăn, nhạy cảm và dễ hấp thụ nhất, quyền lực mềm còn được bảo đảm bằng chiến lược “phát triển hòa bình”. Vì thế, quyền lực mềm tác động toàn diện và sâu sắc đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc.6 + Tại ASEAN: Thông qua việc tham gia rộng rãi với vai trò hạt nhân vào Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc-ASEAN (CAFTA), chính thức đi vào hoạt động Quỹ Tài chính khu vực ASEAN + 3 (CMIM), thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng và đầu tư (CGIF) giữa ADB và các nước ASEAN+3 với quy mô 700 triệu USD (trong đó Trung Quốc góp 200 triệu USD, Nhật Bản 200 triệu USD, Hàn Quốc 100 triệu USD và các nước ASEAN góp 70 triệu USD), tìm cách thiết lập văn phòng đại Ngô Đức Tuyến, “Về sức mạnh mềm của Trung Quốc ở châu Á”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (72), 2008; Hồng Yến, “Sức mạnh mềm Trung Quốc vượt tới „sân sau‟ của Mỹ”, Vietnamnet, ngày 2/11/2009. 6 3/2011 143 5 144 3/2011

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2