intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ THAY NƯỚC KHÁC NHAU ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC LEN (CERITHIDEA OBTUSA)

Chia sẻ: Sunshine_4 Sunshine_4 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

70
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này được thực hiện trong 3 tháng nhằm đánh giá ảnh hưởng của các chế độ thay nước khác nhau đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc len (Cerithidea obtusa). Thí nghiệm được bố trí với 6 chế độ thay nước khác nhau theo số ngày là 1 (NT1), 3 (NT2), 5 (NT3), 7 (NT4), 10 (NT5) và 15 (NT6) với 3 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Số lượng ốc được thả vào mỗi bể PVC (diện tích ~0,8m2) là 20 con nhỏ (20 ≤ L ≤ 25mm) và 20 con trưởng thành (L ≥ 30mm). Kết quả cho...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ THAY NƯỚC KHÁC NHAU ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC LEN (CERITHIDEA OBTUSA)

  1. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ THAY NƯỚC KHÁC NHAU ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC LEN (CERITHIDEA OBTUSA) Ngô Thị Thu Thảo1 ABSTRACT This study was conducted for 3 months to determine the effects of different water- exchanged regimes on growth and survival rate of mangrove snail Cerithidea obtusa. The experiment comprised 6 water-exchanged treatments at different day intervals of 1 (NT1), 3 (NT2), 5 (NT3), 7 (NT4), 10 (NT5) and 15 days (NT6) and was run triplicates per treatment. Twenty juvenile snails (20 ≤ L ≤ 25mm) and twenty adult snails (L ≥ 30mm) were cultured together in each PVC tank (~0.8m2). Results showed that water exchanges significantly affected on survival rates of both juvenile and adult snails (p
  2. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ 1 GIỚI THIỆU Ốc len thường phân bố ở những khu rừng ngập mặn và đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái vùng ngập mặn. Hiện nay, tuy tôm sú đang là đối tượng nuôi phổ biến đem lại hiệu quả cao nhưng gần đây bệnh tôm xảy ra liên tục, lây lan rất nhanh và mang nhiều rủi ro cao. Do đó, việc đa dạng hóa đối tượng nuôi trong nuôi thủy sản cần được tiến hành. Trong quá trình này, nuôi ốc len đã bước đầu đem lại hiệu quả cao và đang được mở rộng tại các khu rừng ngập mặn Cà Mau. Tuy nhiên, mô hình nuôi phần lớn là do tự phát (Ngô Thu Thảo et al., 2007). Vì vậy, việc nghiên cứu về các đặc điểm sinh học của ốc len là cần thiết để góp phần nâng cao năng suất nuôi, cải thiện đời sống người dân ở các vùng ngập mặn ven biển. Tuy nhiên, do đặc điểm của vùng rừng ngập mặn ven biển có sự biến động lớn về độ mặn giữa mùa khô và mùa mưa nên độ mặn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của động vật thân mềm sống tại đây. Hiện nay theo kỹ thuật nuôi ốc len, nước thủy triều được đưa vào khu vực nuôi hoàn toàn tự nhiên. Những vùng rừng đước nằm sâu trong đất liền do phù sa bồi lắng có thể được tận dụng để nuôi ốc len. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đề cập đến ảnh hưởng của chu kỳ triều đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của loài ốc này. Mở rộng diện tích nuôi ốc len, tạo ra sự đa dạng đối tượng nuôi và góp phần vào sự tồn tại lâu bền của hệ sinh thái của khu hệ rừng ngập mặn cũng là mục tiêu của đề tài này. 2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu và phương pháp Bể thí nghiệm có thể tích 200L có lớp bùn đáy và lá mục dày 15 cm với một nửa ngập trong nước, mỗi khi cấp nước đảm bảo ngập đáy là 5cm. Trong quá trình thí nghiệm mức nước trên được duy trì trong 1 ngày rồi tháo cạn vào ngày tiếp theo, số ngày tháo cạn (1, 3, 5, 7, 15) phụ thuộc vào các nghiệm thức khác nhau. Ốc giống được thu từ tự nhiên với 2 loại kích cỡ là cỡ nhỏ có chiều cao vỏ (L) là 20mm  L  25mm và cỡ lớn có chiều cao vỏ L  30mm. Ốc len được thả với mật độ 40 con/bể (20 con nhỏ + 20 con lớn). Thức ăn cung cấp cho ốc len là hỗn hợp bao gồm cám gạo và bột cá được bổ sung theo tỷ lệ 11:1 (Ngô Thị Thu Thảo et al., 2008). Ốc được cho ăn 2 ngày/lần. Nước trong bể được rút cạn trước khi cho ăn. Thức ăn pha với ít nước trong bể rồi rải lên bề mặt trảng. Cho ăn với lượng bằng 3 – 5% trọng lượng ốc trong bể nuôi. 2.2 Thu thập và xử lý số liệu Chiều cao (L), chiều rộng (R) và khối lượng của từng cá thể ốc (Wt) được xác định 15 ngày một lần nhằm đánh giá sự tăng trưởng chiều dài, khối lượng của ốc nuôi. Đồng thời xác định sinh khối ốc trong bể để điều chỉnh lượng thức ăn. Tăng trưởng chiều cao tuyệt đối (DGRL, mm/ngày) DGRL (mm/ngày) = (Lt-Lo)/t Trong đó: (L0): chiều cao ban đầu (mm); (Lt): chiều cao lúc thu hoạch (mm); (t): thời gian nuôi (ngày) Tăng trưởng chiều rộng tuyệt đối (DGRr, mm/ngày) 19
  3. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ DGRr (mg/ngày) = (Rt-Ro)/t Trong đó: (R0): chiều rộng ban đầu (mm); (Rt): chiều rộng lúc thu hoạch (mm); (t): thời gian nuôi (ngày) Tăng trưởng khối lượng tuyệt đối (DGRw, mg/ngày) DGRw (mg/ngày) = (Wt-Wo)/t Trong đó: (W0): khối lượng ban đầu (g); (Wt): khối lượng sau thời gian t ngày (g); (t): thời gian nuôi (ngày) Các yếu tố môi trường được theo dõi trong quá trình thí nghiệm là nhiệt độ, pH (dùng máy đo 2 lần/ngày vào 7 giờ sáng và 14 giờ chiều); hàm lượng NH4+/NH3, NO2- (dùng các bộ test SERA để xác định 5ngày/lần); hàm lượng chất hữu cơ trong bùn được định kỳ thu mẫu 15 ngày/lần và phân tích dựa trên phương pháp APHA (2001). Sử dụng phần mềm Excel để tính trung bình, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị, phần mềm SPSS được sử dụng để so sánh giá trị trung bình của các nghiệm thức ở mức p0,05). Trung bình pH buổi sáng và buổi chiều cũng không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức (Bảng 2). Khoảng biến động của pH trong thời gian thí nghiệm tương đối cao hơn vùng có ốc len phân bố tự nhiên là 6,5-7,5 (Ngo Thi Thu Thao et al., 2008b). Tuy nhiên, kết quả quan sát của Smith (2001) cho thấy giá trị pH0,05). Trung bình hàm lượng TAN trong thời gian thí nghiệm tăng từ NT1 (0,8 mg/L) đến NT5 và NT6 (1,4 mg/L). Hàm lượng NO2 cũng có xu hướng tương tự, thấp ở 20
  4. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ NT1 (0,7 mg/L) và cao hơn ở NT6 (1,3 mg/L). Kết quả thí nghiệm cho thấy các nghiệm thức càng ít thay nước càng có hàm lượng TAN hoặc NO2 cao do môi trường bể nuôi ít được thay đổi, do sự tích tụ của thức ăn và chất thải của ốc len,... Tuy nhiên, trung bình hàm lượng TAN hoặc NO2- giữa các nghiệm thức không khác biệt khi phân tích thống kê (p>0,05). Hàm lượng TOM tương đối cao ở các nghiệm thức được thay nước thường xuyên như NT1 (12,4 %) và NT3 (12,8 %), đạt thấp hơn và tương đối đồng đều ở các nghiệm thức ít được thay nước như NT4, 5 và 6 (Bảng 2). Tuy nhiên, kết quả phân tích cho thấy không có sự khác biệt về hàm lượng TOM trong bùn đáy giữa các nghiệm thức thí nghiệm (p>0,05). 3.2 Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc len giống 3.2.1 Tỷ lệ sống Tỷ lệ sống của ốc len duy trì khá cao và ổn định trong tháng thứ nhất của thí nghiệm. Tuy nhiên, bắt đầu giảm nhanh từ ngày thứ 45, đặc biệt ở NT4 và NT5 (Bảng 4). Sau 90 ngày thí nghiệm, tỷ lệ sống của ốc len đạt cao nhất ở NT1 (43,3%) kế đến là NT2 (31,7%) và thấp hơn ở NT3 và NT5 (25,0 %). Kết quả phân tích thống kê cho thấy tỷ lệ sống của ốc len ở nghiệm thức thay nước hàng ngày không khác biệt so với thay nước 3 ngày/lần (p>0,05) nhưng khác biệt so với các nghiệm thức khác (p0,05). 3.2.2 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều cao, chiều rộng và khối lượng Ốc len ở NT1 có tốc độ tăng trưởng chiều cao cao nhất (28,0 µm/ngày) còn ốc ở NT3 và NT5 có tốc độ tăng trưởng chậm nhất (9,1-9,2 µm/ngày). Kết quả phân tích thống kê cho thấy ốc len ở nghiệm thức thay nước 1 lần/ngày có tốc độ tăng trưởng cao hơn ốc len ở các nghiệm thức có chu kỳ thay nước từ 3-15 ngày/lần (p
  5. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ Tốc độ tăng trưởng về chiều rộng của ốc len giữa các nghiệm thức biến động tương đối phức tạp. Ốc ở các nghiệm thức NT3, 4, 5 có tốc độ tăng trưởng chiều rộng nhanh (9,0- 9,5 µm/ngày) và tiếp theo là NT1 (7,6 µm/ngày). Các cá thể ở NT2 và NT6 có tốc độ tăng trưởng chiều rộng thấp nhất (3,4- 4,0 µm/ngày) khi so sánh với các nghiệm thức khác (p0,05). Tổng hợp việc sắp xếp thứ hạng các chỉ tiêu về tỷ lệ sống, tăng trưởng (chiều cao, chiều rộng và khối lượng) của ốc len cho thấy ở chế độ thay nước hàng ngày có kết quả vượt trội hơn so với các chế độ thay nước khác. Như vậy có thể khẳng định việc thay nước 1 lần/ngày là thích hợp nhất cho sinh trưởng và hoạt động sống của ốc len ở giai đoạn giống. 3.3 Kết quả thí nghiệm đối với ốc len trưởng thành 3.3.1 Tỷ lệ sống Ở NT4, 5, 6, tỷ lệ sống của ốc len bắt đầu thay đổi từ ngày nuôi thứ 15 và giảm dần đến khi kết thúc thí nghiệm (Bảng 6). Tỷ lệ sống của ốc len trưởng thành giảm khi tăng thời gian giữa 2 chu kỳ thay nước, cao nhất ở NT1 (66,7%), tiếp theo là NT2 (58,3%) và NT3 (51,7%). Các nghiệm thức NT5 và NT6 có tỷ lệ sống rất thấp (33,3-35,0 %) và khác biệt rõ ràng so với các nghiệm thức có chu kỳ thay nước từ 1-5 ngày (p0,05). 22
  6. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ Việc thay nước thường xuyên làm nền đáy mềm hơn đã tạo thuận lợi cho hoạt động ăn mồi của ốc len, do đó làm cho tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống cao hơn. Quan sát những bể ốc có chu kỳ thay nước 7-15 ngày cho thấy, do nền đáy khô cứng việc ăn mồi của ốc len rất chậm và không được hiệu quả như những nghiệm thức khác. Nhìn chung, tỉ lệ sống của ốc len trưởng thành tương đối thấp, kết quả nghiên cứu trước đây đạt được tỷ lệ sống ốc len từ 80-93% (Ngô Thị Thu Thảo et al., 2008). 3.3.2 Kích thước và khối lượng của ốc len trưởng thành trong quá trình thí nghiệm Ốc len trưởng thành khi bố trí thí nghiệm có chiều cao từ 33,0 -34,4mm, sau 90 ngày nuôi đạt kích cỡ lớn nhất ở NT3 (36,5mm) và thấp nhất ở NT5 (35,9mm). Ốc ở các NT1 có chiều cao tăng nhiều hơn hẳn so với các nghiệm thức còn lại. Chiều rộng trung bình của ốc len trưởng thành khi bố trí thí nghiệm tương đối đồng đều giữa các nghiệm thức (15,5-15,7mm), sau 90 ngày nuôi đạt cao nhất ở NT1 (16,3mm) và thấp nhất ở NT2 (15,9mm). Khối lượng ốc len trưởng thành khi bố trí trung bình khoảng 3,1-3,5g và sau thí nghiệm đạt trung bình từ 3,7-4,6g. Trong những ngày đầu của thí nghiệm, khối lượng ốc ở các nghiệm thức ít thay nước có xu hướng giảm, sau đó tăng chậm trở lại trong giai đọan cuối của thí nghiệm. Khối lượng ốc ở các nghiệm thức thay nước 1, 3 và 5 ngày/lần tăng tương đối ổn định trong đó ốc len ở nghiệm thức thay nước hàng ngày có tốc độ tăng khối lượng nhanh nhất. 3.3.3 Tốc độ tăng trưởng chiều cao, chiều rộng và khối lượng của ốc len trưởng thành Kết quả phân tích thống kê cho thấy ốc len ở nghiệm thức thay nước hàng ngày hoặc 3 ngày/lần có tốc độ tăng trưởng chiều cao lớn hơn các nghiệm thức khác (p
  7. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ mặn khác nhau (Ngô Thị Thu Thảo et al., 2010). Houbrick (1984) nhận định rằng khi đã đạt đến tuổi thành thục, ốc len không tiếp tục tăng trưởng chiều cao trong khi chiều rộng và khối lượng tăng lên đáng kể, đặc biệt là ốc cái. Kết quả thí nghiệm trên ốc trưởng thành nuôi ở các chế độ thay nước khác nhau cho thấy trong điều kiện môi trường thuận lợi, ốc len trưởng thành vẫn tiếp tục tăng trưởng chiều cao, chiều rộng vỏ và khối lượng cơ thể. Ngược lại khi được nuôi trong điều kiện kém thuận lợi (ví dụ ít được trao đổi nước, điều kiện nền đáy khô cứng khó ăn mồi.. ) ốc len chỉ duy trì tăng trưởng chiều dài. Hiện tượng này cũng được quan sát từ thực tế nuôi ốc len ở các khu vực rừng ngập mặn tỉnh Cà Mau. Những khu vực thường xuyên được trao đổi nước, có lượng phù sa và mùn bã hữu cơ dồi dào và nền đáy mềm làm cho ốc len sinh trưởng nhanh hơn, dày miệng vỏ sớm và năng suất thu được cũng cao hơn. Theo Vemerij (1993) khi thành thục ốc len sẽ có biểu hiện dày miệng vỏ do đó khối lượng tổng cộng trong đó chủ yếu là vỏ sẽ tăng lên đáng kể. Khi kết thúc thí nghiệm, tất cả ốc ở nghiệm thức thay nước 1 và 3 ngày/lần đều đã dày miệng vỏ chứng tỏ các cá thể ốc trong 2 nghiệm thức này có quá trình phát triển tốt hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi nuôi ốc len trong rừng ngập mặn ven biển cần chọn địa điểm có sự thay đổi nước hàng ngày hoặc ít nhất 3 ngày/lần, nền đáy mềm sẽ dẫn đến tăng trưởng tốt hơn, tỷ lệ sống của ốc len cũng cao hơn. 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 4.1 Kết luận Ốc len giống và trưởng thành có tỉ lệ sống và sinh trưởng tốt nhất ở điều kiện thay nước hàng ngày hoặc 3 ngày/lần. Ốc len trưởng thành có khả năng chịu đựng tốt hơn ốc giống trong điều kiện ít thay nước. 4.2 Đề nghị Chọn lựa các địa điểm thường xuyên được trao đổi nước, có lượng phù sa, mùn bã hữu cơ dồi dào và nền đáy mềm để nuôi ốc len. Ứng dụng kết quả của nghiên cứu này cho các nghiên cứu tiếp theo về sinh học và sinh sản ốc len trong điều kiện phòng thí nghiệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bagarinao T & I. Lan tin-Olaguer. 2001. From triphenyltins to integrated management of the pest snail Cerithidea cingulata in mangrove-derived milkfish ponds in the Philippines. Hydrobiologia, Vol. 437: 1-16. Bouillon S., N. Koedan, A.V. Ramn, F. Dehairs. 2002. Primary produccers sustaining macro invertebrate communities in intidal trangrone forests. Decologia 130: 441 – 448. De la Rosa. 2003. http://www.bar.gov.ph/bardigest/2003/julsep03-mudsnail.asp Gonadal maturation, fecundity, spawning, and timing of reproduction in the mud snail Cerithidea cingulata, a pest in milkfish ponds in the Philippines by Ms Imelda Latin – Olaguer and Ms. Teodora Bagarinao of the Aquaculture Department, Southeast Asian Fisheries Development Center (SEAFDEC). De Silva, S.S., R.M. Gunasekela & K.F. Shim. 1991. Interactions of varying dietary of protein sparing. Aquaculture 95: 305-318. 24
  8. Tạp chí Khoa học 2012:24b 18-25 Trường Đại học Cần Thơ Houbrick R.S. 1984. Revision of higher taxa in genus Cerithidea (Mesogastropoda: Potamididae) based on comparative morphology and biological data. American Malacological Bulletin, Vol. 2: 1-20. Houlihan, D.F. 1979. Respiration in air and water of three mangrove snails. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology. Vol. 41(2): 143 – 161. Ngô Thị Thu Thảo & Trương Trọng Nghĩa. 2001. Ảnh hưởng của các độ mặn khác nhau đến tốc độ lọc thức ăn, sinh trưởng, tỉ lệ sống và khả năng chịu đựng trees của sò huyết giống (Anadara granosa). Tuyển tập báo cáo khoa học, hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần 2, Nha Trang 8/2001: trang 137 – 142. Ngô Thị Thu Thảo, Hứa Thái Nhân & Huỳnh Hàn Châu. 2008a. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và thành phần sinh hóa của ốc len Cerithidea obtusa. Tạp chí khoa học, Đại học Cần Thơ. Số đặc biệt chuyên đề thủy sản, quyển 2: 113-123. Ngô Thị Thu Thảo, Huỳnh Hàn Châu & Hứa Thái Nhân. 2007. Nuôi ốc len trong rừng ngâp mặn tỉnh Cà Mau. Báo con tôm. 143/12 – 2007. Bản tin của hội nghề cá Việt Nam, trang 33. Ngo Thi Thu Thao, Huynh Han Chau, Hua Thai Nhan & Tran Ngoc Hai. 2008b. Population structure and reproductive biology of Cerithidea obtusa in mangrove system of Camau province, Vietnam. Final project Report submitted to NAGAO Natural Environmental Foundation, Japan: 18 pages. Ngo Thi Thu Thao, Tran Ngoc Hai and Huynh Han Chau. 2009. Cultivation of Mud Snail (Cerithidea obtusa) and Blood Cockle (Anadara granosa) into Mangrove System in the Mekong Delta, Vietnam. Project Report of SEARCA Seed Fund for Strategic Research and Training (SFRT) Program: 45 pages. Ngô Thị Thu Thảo. 2010. Ảnh hưởng độ mặn đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của ốc len (Cerithidea obtusa). Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ 13/2010. ISSN: 1859-2333. Trang 180-188. Smith. 2001. http://www.sms.si.edu/IRLspec/Cerith_scalar.htm. Sokolonski, A., M. Wolonicz & H. Hummel. 2003. Free amino acid in the clam Macoma balthica L. (Bivalvia, Mollusca) from brackish waters of the southern Baltic sea. Comparative Biochemistry and Physiology Part A: Molecula & Integrative Physiology. Vol.134 (3): 579-592. Vannini, M. Rorandelli, R. Lahteenoja, D. Mrabu, E. & Fratini, S. 2006. Tree climbing behaviour of Cerithidea decollata, a western Indian Ocean mangrove gastropod (Mollusca: Potamididae). Journal of the Marine Biological Association of the United Kingdom, Vol. 86: 1429 – 1436. Vemerij GT. 1993. A natural history of shells. Princeton University Press, Princeton, NJ. 25
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2