intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Mô phôi: Phần 2 - Trường ĐH Tây Nguyên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

11
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Bài giảng Mô phôi: Phần 2 cung cấp cho người học những kiến thức như: Da và các thành phần phụ thuộc của da; hệ hô hấp; hệ nội tiết; ống tiêu hóa chính thức; tuyến tiêu hoá; hệ sinh dục nữ; hệ sinh dục nam; hệ tiết niệu;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Mô phôi: Phần 2 - Trường ĐH Tây Nguyên

  1. CHƯƠNG 10. DA VÀ CÁC THÀNH PHẦN PHỤ THUỘC CỦA DA MỤC TIÊU − Kiến thức: 1. Mô tả các lớp của biểu bì 2. Mô tả các tế bào trong từng lớp của biểu bì 3. So sánh da dày với da mỏng 4. Mô tả cấu tạo và chức năng của tuyến mồ hôi 5. Mô tả cấu tạo và chức năng của tuyến bã I. DA Da là một trong những cơ quan của cơ thể. Da bao phủ toàn bộ mặt ngoài cơ thể và nối tiếp với niêm mạc môi, mũi, mí mắt, âm hộ, bao quy đầu, hậu môn. Trong lượng của da khoảng 16% trọng lượng cơ thể và có diện tích 1,5-2m2/ người trưởng thành. Trong da có thành phần phụ thuộc da như tuyến mồ hôi, tuyến bã, lông, móng. 1. Cấu tạo Gồm 3 lớp chính: biểu bì, chân bì, hạ bì. 1.1. Biểu bì Là biểu mô tát tầng sừng hóa (đã được mô tả trong bài biểu mô) ngăn cách với mô liên kết bởi màng đáy. Thành phần tế bào trong biểu bì gồm các loại như sau: * Tế bào sừng: là tế bào chính của biểu bì nó có khả năng sinh sản và biến đối cấu trúc khi bị đẩy dần lên lớp trên. Thời gian 1 tế bào sừng di chuyển từ lớp đáy lên bề mặt là 15-30 ngày.  Ở lớp đáy: Tế bào sừng có hình vuông hoặc trụ thấp là những tế bào còn non có nhiều khả năng sinh sản. Trong bào tương tế bào có nhiều siêu sợi trung gian và có ít hạt sắc tố melanin. 98
  2. Hình 10.1. Biểu mô lát tầng sừng hóa của da [4] + Lớp gai: Tế bào có hình đa diện, chúng liên kết với nhau nhờ các thể liên kết điểm (Desmosome). Càng lên trên những siêu sợi càng nhiều chúng tạo thành bó dày, bào tâm mất dần, trong bào tương của lớp này cũng chứa nhiều hạt sắc tố Melanin (do tế bào sắc tố tiết ra). + Lớp hạt: Tế bào có hình thoi dẹp xếp thành vài hàng tế bào. Trong bào tương của hạt này chứa những hạt Keratohyaline bắt màu bazơ. + Lớp bóng: Tế bào đã chết chúng nén dẹt với nhau. Bào quan và nhân tế bào không còn, thể liên kết không điển hình, chất eleidin xuất hiện. + Lớp sừng: Tế bào đã thoái hóa hoàn toàn tạo thành những lá sừng nén lại với nhau, chất sừng còn gọi là chất keratin không thấm nước và bền vững với 1 số hóa chất nên bảo vệ được da chống thoát hơi nước và không bị phá hủy bởi 1 số hóa chất có độ acid và kiềm nhẹ. Ở từng vùng trong cơ thể lớp sừng có độ dày mỏng khác nhau. * Tế bào sắc tố: Là tế bào có kích thước lớn nhuộm bằng phương pháp ngấm bạc, thân tế bào thường nằm ở lớp sinh sản hoặc nằm trong mô liên kế dưới biểu bì. Tế bào có nhiều nhánh bào tương vươn dài lên lớp biểu bì. Sự tổng hợp các hạt sắc tố được thực hiện ở phần thân tế bào sau đó hạt sắc tố di chuyển theo những nhánh bào tương của tế bào sắc tố và xuất hiện trong tế bào sừng nhờ cơ chế thực bào. * Tế bào Langerhans: Có số lượng rất ít phân bố ở lớp sinh sản và lớp gai có nguồn gốc từ mono bào. Trong biểu bì chúng có khả năng thực bào (Đại thực bào biểu bì). Ngoài ra còn gặp các lympho T có tác dụng tương tác với tế bào Langerhans trong phản ứng miễn dịch tại chỗ ở da. 99
  3. Hình 10.2. Cấu tạo các lớp của da [4] * Tế bào Merkel: Khu trú chủ yếu ở lớp sinh sản và lớp gai đây là những tế bào có nguồn gốc biểu bì nhưng biệt hóa thành tế bào dẹt xếp xung quanh nhánh tận cùng thần kinh cảm giác để tạo nên phức hợp Merkel có chức năng xúc giác. 1.2. Chân bì Là mô liên kết đặc nằm ngay dưới biểu bì được phân thành 2 lớp nhưng ranh giới không rõ ràng, bề dày của chân bì thay đổi tùy nơi (lưng có độ dày nhất là khoảng 4mm). * Lớp nhú: Là lớp mô liên kết thưa nằm ngày dưới biểu bì chúng đội biểu bì lên thành các nhú có hình lượn sóng. Ở đây có lưới mao mạch phong phú tiến sát đến biểu bì để nuôi dưỡng biểu bì. Ở vùng da có sự cọ sát và áp xuất mạnh thì nhú phát triển. * Lớp lưới (chân bì thực sự): Là lớp dày được cấu tạo bởi mô liên kết nhiều sợi, các sợi keo hợp thành bó đan với nhau tạo lớp, mạch máu ở đây ít nhưng lớn hơn, lớp lưới có tác dụng liên kết da và các mô khác đồng thời làm cho da bền chắc và có tính đàn hồi. 1.3. Lớp hạ bì (lớp mỡ dưới da) Là mô liên kết có nhiều tiểu thùy mỡ, tùy theo vùng mà mô mỡ có nhiều hay ít. Tác dụng của lớp hạ bì là làm giảm nhẹ tác động cơ học lên da, gắn kết da với các cơ quan bên dưới. Mô mỡ làm bạn hạn chế thải nhiệt của cơ thể. 2. Phân loại da Dựa vào cấu tạo người ta phân thành hai loại da. 2.1. Da dày Là vùng da có sự cọ sát và sức ép nhiều như: da lòng bàn tay, lòng ngón tay, lòng bàn chân, ngón chân. 100
  4. * Đặc điểm cấu tạo của da dày là:  Lớp biểu bì dày do các lớp tế bào sừng phát triển đặc biệt là lớp sừng.  Nhú chân bì phát triển mạnh tạo nên các vân da.  Có nhiều tuyến mồ hôi nhỏ chế tiết kiểu toàn vẹn, chất tiết được đổ lên mặt da.  Không có lông và tuyến bã. 2.2. Da mỏng Là phần da bọc các phần còn lại của cơ thể. * Cấu tạo của da mỏng:  Biểu bì mỏng do lớp sợi và lớp sừng ít phát triển.  Nhú chân bì ít phát triển nên không tạo được vân da, lớp lưới và hạ bì rất phát riển.  Tuyến mồ hôi toàn vẹn ít hơn ở da dày.  Có lông và tuyến bã. 3. Sự phân bố tuần hoàn và thần kinh da 3.1. Tuần hoàn ở da Động mạch và tĩnh mạch ở da luôn đi song song với nhau chúng tạo thành đám rối mạch ở da.  Đám rối sâu: Gồm những mách máu và mạch bạch huyết lớn nằm dưới lớp hạ bì chúng phân nhánh nhỏ vào đám rối giữa.  Đám rối giữa: Nằm giữa lớp chân bì và hạ bì.  Đám rối nông: Nằm ngay lớp chân bì chúng phân nhánh tạo thành lưới mao mạch hình quai vào các nhú chân bì. Lưới mao mạch này đóng vai trò quan trọng trong điều hòa thân nhiệt. 3.2. Sự phân bố thần kinh Ở đa số sự phân bố thần kinh bắt nguồn từ nhánh dây thần kinh não tủy và dây thần kinh thực vật chúng tạo thành các thụ thể thần kinh. Thần kinh não tủy: Tạo những thụ thể thần kinh cảm giác, xúc giác ở da. Thần kinh thực vật: Phân bố đến cơ trơn, mạch, tuyến mồ hôi. II. CÁC THÀNH PHẦN PHỤ THUỘC CỦA DA 1. Tuyến mồ hôi Là tuyến ngoại tiết kiểu ống đơn cong queo, nằm trong lớp chân bì và ở khắp vùng da. 1.1. Cấu tạo Gồm có 2 phần: 101
  5. * Phần chế tiết (tiểu cầu mồ hôi): Là đoạn ống tuyến cuộn lại thành khối nằm ở lớp chân bì và hạ bì. Thành của ống gồm 2 loại tế bào.  Tế bào cơ biểu mô: Là những tế bào hình thoi dẹp xếp thành một hàng nằm ôm phía ngoài tế bào chế tiết. Tế bào này có khả năng co rút để đẩy chất tiết ra ngoài.  Tế bào chế tiết: Hình tháp tạo thành một lớp nằm tựa trên màng đáy. Có 2 loại tế bào chế tiết:  Tế bào sẩm màu: Trong bào tương có nhiều Ribosom, lưới nội bào hạt và không bào chứa các hạt chế tiết. Tế bào này tiết các đại phân tử hữu cơ.  Tế bào sáng màu: Trong bào tương có ít Ribosom, lưới nội bào có hạt, có nhiều Glycogen màng bào tương có nhiều nếp gấp đáy. Tế bào này tiết ion và nước. * Phần bài tiết: Là đoạn ống nối tiếp với phần chế tiết đi lên mặt da gồm có 2 đoạn:  Đoạn nằm trong chân bì: Có lòng hẹp, thành ống được lợp bởi 2 hàng tế bào hình khối vuông sẫm màu hơn ở đoạn chế tiết.  Đoạn nằm trong biểu bì: Là đoạn ngoằn ngoèo len lỏi trong tế bào biểu bì không có thành riêng (còn gọi là đường mô hôi). Hình 10.3. Tiểu cầu mồ hôi [6] 1.2. Phân loại tuyến mồ hôi Có 2 tuyến mồ hôi:  Tuyến toàn vẹn: Là đa số các tuyến mồ hôi trên cơ thể, chất tiết của tuyến được đổ lên bề mặt da qua đường mồ hôi. 102
  6.  Tuyến bán hủy: Chỉ có ở một số nơi (nách, bẹn, hậu môn, vú) những tuyến này chỉ hoạt động chế tiết khi đến tuổi dậy thì, chất tiết được đổ vào nang lông giống tuyến bã. 1.3. Chức năng tuyến mồ hôi Sự chế tiết mồ hôi liên quan đến điều hòa thân nhiệt, bình thường tuyến mồ hôi chế tiết ít và liên tục (500ml) khi thời tiết nóng bức hoặc người bị sốt thì tuyến mồ hôi chế tiết khoảng 3-6 lít/ngày. Thành phần của dịch mồ hôi ngoài nước ra còn có phần tử protein như uric, acid amoniac, creatinin, muối NaCl… được đào thải ra ngoài qua đường mồ hôi. 2. Lông Là những sợi mảnh sừng hóa được phát triển từ những tế bào biểu bì. Chiều dài lông thay đổi từ vài mm đến 1m. Chiều dài và mật độ của lông thay đổi tùy từng vùng của cơ thể. 2.1. Cấu tạo Cấu tạo của lông gồm 2 phần: Thân lông và chân lông: * Thân lông: Là phần trên mặt da mà ta thấy được. * Chân lông: Là phần nằm sâu trong lớp chân bì và hạ bì, ở chân lông lông chính thức được cắm sâu vào một bao gọi là nang lông, phần dưới cùng của chân lông hơi phình ra gọi ra hành lông, dưới hành lông có nhú lông (nơi có mô liên kết thưa, nhiều mạch máu để nuôi lông và nang lông).  Lông chính thức: Là bộ phận sừng hóa gồm tủy lông, vỏ lông, áo ngoài của lông. Chúng được tạo nên từ các tế bào nằm ở nhú lông.  Nang lông: Gồm có 2 lớp biểu mô: + Lớp trong (là bao biểu mô trong): có cấu tạo sừng hóa giống lớp sừng ở biểu bì. + Lớp ngoài (biểu bì mô ngoài): gồm những tế bào có nguồn gốc giống tế bào lớp sinh sản và lớp gai ở biểu bì. Lớp này bị thoái hóa và tạo thành lớp biểu mô trong các nang lông. 2.2. Chức năng Lông có tác dụng bảo vệ da, chống rét (nhất là ở súc vật) ngoài ra lông là cơ quan xúc giác gián tiếp. 103
  7. Hình 10.4. Nang lông [6] 3. Tuyến bã Là tuyến có cấu tạo kiểu túi đơn nằm chủ yếu ở lớp chân bì có ở hầu hết các phần da của cơ thể (trừ lòng bàn tay và bàn chân). Ở phần da đầu, da mặt, phần lưng, ngực mật độ tuyến bã rất dày. 3.1. Cấu tạo Tuyến bã có một ống bài xuất ngắn mở vào nang lông. Ở những vùng không có lông (môi, núm vú, âm hộ, bao quy đầu) đường bài xuất đổ trực tiếp lên bề mặt da. Thành phần tuyến bã được cấu tạo từ 2 loại tế bào.  Tế bào sinh sản: Là tế bào có khả năng sinh sản hình khối vuông, nhân tròn kích thước lớn, nằm tựa trên màng đáy.  Tế bào tuyến bã: Là tế bào có khả năng tích mỡ, bào tương xuất hiện ngày càng nhiều hạt mỡ và bị đẩy dần vào lòng tuyến, tế bào nằm trong lòng tuyến có hình đa diện kích thước lớn bào tương chứa đầy khối mỡ, nhân tế bào bị teo hoặc thoái hóa. Kết quả tế bào bị chết, thoái hóa tạo thành chất bã theo đường bài xuất rồi đổ vào nang lông lên mặt da. 104
  8. Hình 10.5. Cấu tạo vi thể của tuyến bã [6] 3.2. Chức năng của tuyến bã Chất tiết của tuyến bã là một chất nhờn thành phần có nhiều mỡ có tác dụng làm mềm da và lông, giữ độ ẩm cho da và hạn chế được sự phát triển của vi khuẩn. Nếu chất bã tiết nhiều quá làm da nhờn. Khi chất bã ứ đọng thì tạo ra mụn trúng cá hay u nang tuyến bã (u bã đậu). 4. Móng Là tấm sừng cứng đặc biệt lợp đầu ngón tay và chân. Móng bao gồm thân móng bộc lộ trên da và rễ móng cắm sâu trong biểu bì. Biểu bì nằm dưới thân móng gọi là giường móng, biểu bì nằm dưới rễ móng gọi là nền móng nơi phát triển làm móng dài ra. Ở phần sau của thân móng nơi bờ sau giữa da và thân móng có hình bán nguyệt màu trắng là vùng chân bì của giường móng và nền móng ít có mao mạch. 105
  9. CHƯƠNG 11: HỆ HÔ HẤP MỤC TIÊU − Kiến thức: 1. Nêu được tên của các đoạn tạo nên đường dẫn khí ngoài phổi và trong phổi 2. Mô tả được cấu tạo mô học của các thành phần trong đường dẫn khí ngoài phổi 3. Mô tả được cấu tạo mô học của các thành phần trong đường dẫn khí trong phổi 4. Nêu được các thành phần cấu tạo của phần hô hấp trong phổi 5. Mô tả được cấu tạo và chức năng của ba loại tế bào thành phế nang 6. Nêu được các thành phần cấu tạo của màng trao đổi khí - máu I. ĐẠI CƯƠNG Hình 11.1. Hệ hô hấp [3] Tất cả các động vật bậc cao đều cần phải sử dụng oxy để duy trì sự chuyển hóa của chúng. Hệ hô hấp có chức năng cung cấp oxygen trong không khí hít vào và loại bỏ khí CO2 tạo ra do sự chuyển hóa của các tế bào trong cơ thể. Khí CO2 do tế bào thải ra được đưa đến phổi và khí O2 được đưa từ phổi đến các mô nhờ vào hệ tuần hoàn. Vì vậy hệ hô hấp và hệ tuần hoàn có quan hệ rất chặt chẽ. Hệ hô hấp gồm có hai thành phần chính là phần dẫn khí và phần hô hấp. Phần dẫn khí là phần kết nối môi trường không khí bên ngoài với phần hô hấp là nơi xảy ra quá trình trao đổi khí giữa máu và không khí hít vào. Phần dẫn khí gồm có hốc 106
  10. mũi (1), hầu (2,3), thanh quản (4,5), khí quản (6) và hệ thống nhánh phế quản có đường kính giảm dần. Các nhánh nhỏ hơn của phế quản như tiểu phế quản, tiểu phế quản tận sẽ nối tiếp với phần hô hấp của phổi. Phần hô hấp bao gồm các tiểu phế quản hô hấp, ống phế nang và các phế nang, đây là phần chủ yếu tạo cho phổi có thể tích rất lớn. II. PHẦN DẪN KHÍ Đường dẫn khí gồm có đường dẫn khí ngoài phổi và đường dẫn khí trong phổi. A. ĐƯỜNG DẪN KHÍ NGOÀI PHỔI Gồm có hốc mũi, hầu, thanh quản, khí quản và phế quản gốc 1. Hốc mũi: gồm hai phần : Tiền đình ở ngoài và hố mũi ở trong Tiền đình mũi: ở phía trước là phần nở rộng của khoang mũi, được lợp bởi biểu mô lát tầng không sừng, có nhiều lông, nhiều tuyến bã và tuyến mồ hôi ở lớp đệm của niêm mạc. Hố mũi: nằm bên trong xương sọ được chia đôi bởi vách mũi có cấu trúc xương ở giữa. Mỗi thành bên hố mũi có 3 dải mô nhô ra, có cấu trúc xương bên trong, được gọi là các xoăn mũi. Trong số các xoăn mũi ( trên, giữa, dưới) chỉ có xoăn mũi giữa và xoăn mũi dưới là có biểu mô hô hấp. Xoăn mũi trên có biểu mô chuyên biệt là biểu mô khứu giác. Các rãnh hẹp được tạo ra bởi các xoăn mũi có vai trò cải thiện luồng không khí hít vào bằng cách gia tăng bề mặt biểu mô hô hấp và đổi hướng luồng không khí. Kết quả làm tăng sự tiếp xúc của luồng không khí với biểu mô. Bên trong lớp đệm của các xoăn mũi có các đám rối tĩnh mạch lớn gọi là thể cương. Mỗi 20- 30 phút, các thể cương ở một bên hố mũi bị ứ máu một lần, dẫn đến căng phồng niêm mạc xoăn mũi, làm giảm luồng không khí lưu thông cho phép biểu mô hô hấp phục hồi và không bị khô. Biểu mô hô hấp: biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển nối tiếp với biểu mô lát tầng không sừng ở tiền đình, lớp đệm có nhiều tĩnh mạch có khả năng giãn rộng giúp cho sự trao đổi nhiệt với môi trường bên ngoài (chẳng hạn làm ấm không khí lạnh hít vào), ngoài ra lớp đệm còn có các tuyến tiết nhầy và tiết nước. 107
  11. Hình 11.2. Biểu mô khứu giác: tế bào khứu giác là những nơron hai cực [5] Biểu mô khứu giác: là biểu mô giả tầng gồm có ba loại tế bào khác nhau là tế bào chống đỡ, tế bào đáy và tế bào khứu giác. Tế bào khứu giác là những nơron 2 cực với cực đỉnh có nhiều lông khứu xuất phát từ các túi khứu giác và tỏa ra bề mặt của biểu mô, còn cực đáy có sợi trục đi từ biểu mô vào lớp mô liên kết bên dưới và kết hợp với sợi trục của các nơron 2 cực khác để tạo thành sợi thần kinh khứu giác. Hình 11.3. Biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển ở khí quản [6] 2. Hầu Gồm có ba phần:  Mũi hầu (tỵ hầu): được lợp bởi biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển; lớp đệm có chứa một số tuyến nước bọt nhỏ rãi rác gồm cả nang tiết nước và nang tiết nhầy.  Khẩu hầu và thanh hầu được lót bằng biểu mô lát tầng không sừng.  Hầu là nơi có mô lympho rất phát triển. Mô lympho tập hợp thành hạnh nhân và cùng với các đám tế bào lympho khác ở lớp đệm của niêm mạc hầu phân bố thành một cấu trúc có hình vòng cung được gọi là vòng Waldeyer . 108
  12. 3. Thanh quản Ngoài chức năng dẫn khí, thanh quản còn có chức năng rất đặc biệt, đó là phát âm. Thành của thanh quản gồm 2 lớp: lớp niêm mạc và lớp sụn xơ. Lớp niêm mạc được phủ bằng biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển tựa trên lớp đệm có nhiều sợi chun, tuyến tiết nước và tuyến tiết nhầy. Riêng dây thanh âm được bao phủ bằng biểu mô lát tầng không sừng. Lớp sụn xơ có cấu tạo gồm sụn trong, sụn chun và mô liên kết xơ bao quanh sụn. 4. Khí quản và Phế quản gốc Khí quản và phế quản gốc có cấu tạo mô học rất giống nhau gồm 4 lớp: lớp niêm mạc, lớp dưới niêm mạc, lớp sụn và cơ trơn, và ngoài cùng là lớp vỏ ngoài. Lớp niêm mạc được lợp bởi biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển có 3 loại tế bào gồm tế bào trụ có lông chuyển, tế bào tiết nhầy và tế bào đáy cùng nằm tựa trên màng đáy. Tế bào trụ có lông chuyển là tế bào hiện diện ở đường dẫn khí ngoài phổi và trong phổi, có chức năng loại bỏ những dị vật khi hít vào. Tế bào tiết nhầy phân bố xen giữa các tế bào lông chuyển và có chức năng chế tiết chất nhầy. Tế bào đáy là những tế bào ít biệt hóa và có chức năng như nguồn cung cấp các tế bào mới thay thế các tế bào của biểu mô bị chết hoặc bị thoái hóa. Ngoài ra biểu mô còn có 2 loại tế bào khác là tế bào bàn chải và tế bào chế tiết. Tuy nhiên chức năng của cả hai tế bào này vẫn còn chưa rõ và còn nhiều bàn cãi. Lớp đệm của niêm mạc là lớp đáy và lớp mô liên kết thưa bên dưới có nhiều sợi chun và mạch máu. Lớp dưới niêm mạc cũng là lớp mô liên kết có nhiều tuyến pha (nang tiết nước vừa tiết nhầy). Các tuyến này đổ chất tiết lên bề mặt biểu mô nhờ vào các ống bài xuất ngắn. Lớp sụn: đây là lớp có sự khác biệt giữa khí quản và phế quản gốc do sụn của khí quản có dạng hình chữ C (không khép kín ở phía sau khí quản) và hai đầu tự do của sụn C được nối với nhau bằng các bó cơ trơn và mô liên kết, trong khi phế quản gốc có sụn khép kín. Lớp vỏ ngoài là mô liên kết xơ bao bọc bên ngoài lớp sụn. B. ĐƯỜNG DẪN KHÍ TRONG PHỔI Phế quản gốc trái vào phổi trái có 2 thùy là thùy trên và thùy dưới, trong khi phế quản gốc phải vào phổi phải có 3 thùy là thùy trên, thùy giữa và thùy dưới. Chính vì vậy, cũng có 2 phế quản thùy ở phổi trái và 3 phế quản thùy ở phổi phải. 109
  13. Các phế quản thùy, đến lượt nó, lại tiếp tục phân nhánh nhiều lần để tạo nên các phế quản phân thùy, phế quản hạ phân thùy, phế quản gian tiểu thùy, tiểu phế quản và tiểu phế quản tận. Cấu trúc của các tiểu phế quản nói chung rất giống nhau theo từng nhóm. Sự khác biệt giữa các nhóm phế quản chủ yếu là do sự phân bố của các thành phần trong lớp niêm mạc, lớp sụn và cơ. Cơ trơn của phế quản hoạt động dưới sự điều khiển của hệ giao cảm và đối giao cảm. Hình 11.4. Tiểu phế quản [6] 1. Phế quản gian tiểu thùy Có ở đỉnh các tiểu thùy phổi và vách liên kết gian tiểu thùy, lòng ống rộng, tròn đều và có vài nếp gấp do lớp niêm mạc tạo thành; lớp sụn có cấu tạo từ những mảnh sụn trong không liên tục sắp xếp theo hướng vòng quanh phế quản; lớp cơ trơn xếp thành nhiều bó nằm ở giữa biểu mô và sụn trong và tạo thành một vòng cơ trơn khôngliên tục được gọi là lớp cơ Reissessen. 2. Tiểu phế quản (chính thức) Có đường kính nhỏ hơn 1 mm là đường dẫn khí đi vào trong tiểu thùy phổi, lòng ống có nếp nhăn giống hình sao, không có lớp sụn và cũng không có các tuyến tiết nhầy ở lớp đệm; lớp cơ trơn tạo thành một vòng cơ liên tục (vòng Reissessen). Tuy nhiên, ở phần xa của tiểu phế quản vòng cơ không còn liên tục nữa. Tiểu thùy phổi (hình bên) là khối hình tháp đa diện, đỉnh có chứa 1 động mạch phổi và 1 nhánh của phế quản gian tiểu thùy (tức là tiểu phế quản chính thức). Đây là đơn vị cấu tạo và chức năng của phổi. 3. Tiểu phế quản tận Có lòng tròn, nhỏ và trơn láng, tế bào của biểu mô chuyển từ trụ có lông chuyển thành vuông hoặc trụ thấp có lông chuyển, biểu mô của tiểu phế quản tận không còn sự hiện diện của tế bào tiết nhầy và lúc này ngoài tế bào có lông chuyển còn có nhiều tế bào Clara. 110
  14. Hình 11.4. Tiểu phế quản tận [6] Tế bào Clara là tế bào không có lông chuyển, bào tương cực đỉnh có chứa nhiều hạt, đây là tế bào có đặc điểm của tế bào chế tiết protein. Trên kính hiển vi điện tử, chất tiết của tế bào Clara có lẽ có chức năng như một chất hoạt hóa bề mặt biểu mô hoặc có tác dụng bất hoạt các chất có hại trong khí hít vào. Tuy nhiên, chức năng tế bào Clara vẫn còn đang bàn cãi. Lớp đệm mỏng là mô liên kết thưa có nhiều sợi lưới và sợi chun, ngoài ra còn chứa tế bào lympho, masto bào, đôi khi có bạch cầu đa nhân ưa acide trong trường hợp bình thường. Bó cơ trơn phân bố xen lẫn vào mô liên kết và không tạo thành vòng cơ Reissessen. III. PHẦN HÔ HẤP Đây là nơi xảy ra quá trình trao đổi khí giữa máu trong mao mạch và phế nang qua màng trao đổi khí. Phần hô hấp gồm tiểu phế quản hô hấp, ống phế nang và các phế nang. 1. Tiểu phế quản hô hấp Tiểu phế quản tận chia làm khoảng 2 tiểu phế quản hô hấp là vị trí chuyển tiếp giữa phần dẫn khí và phần hô hấp. Niêm mạc của tiểu phế quản hô hấp là cấu trúc có thể xác định nhờ vào tiểu phế quản tận tại vị trí thành của tiểu phế quản tận mở vào túi phế nang để có thể trao đổi khí. Biểu mô là tế bào vuông và tế bào clara, nhưng đến bờ của túi phế nang mở vào biểu mô của tiểu phế quản hô hấp trở thành tế bào dẹt của phế nang. Lớp mô liên kết bên dưới gồm cơ trơn và sợi chun. 2. Ống phế nang Tiểu phế quản hô hấp phân nhánh thành các túi gọi là ống phế nang lót bằng biểu mô phế nang. Màng đáy có mạng lưới tế bào cơ trơn, thường biến mất ở đoạn xa của túi phế nang. Chất nền giàu sợi chun và collagen hỗ trợ cho ống phế nang. Ống phế nang mở vào khoảng 2 túi phế nang, mô chun và lưới tạo thành mạng lưới bao xung quanh lỗ mở vào túi phế nang và phế nang. Mô chun làm phế nang dãn ra khi hít vào và co lại khi thở ra. Sợi lưới làm mạch máu và thành phế nang không bị giãn quá mức. Sợi lưới và sợi chun tạo thành mô liên kết của mao mạch xung quanh mỗi phế nang. 111
  15. 3. Phế nang Là những túi hở, có số lượng khoảng 300 -350 triệu ở người trưởng thành. Khi hít vào phế nang có tổng diện tích vào khoảng 100 m2 Giữa các phế nang là một lớp mô liên kết mỏng có chứa nhiều sợi lưới và sợi chun, được gọi là vách phế nang. Hai phế nang kế nhau có thể thông thương với nhau bằng một số lỗ phế nang. Thành phế nang được lợp bởi một lớp biểu mô đặc biệt gọi là biểu mô hô hấp có chứa hai loại tế bào: phế bào I và phế bào II.  Phế bào I: là những tế bào dẹt, bào tương trải rộng trên màng đáy và chiếm khoảng 97% diện tích phế nang vì vậy là tế bào đặc biệt quan trọng trong quá trình trao đổi khí. Các phế bào I liên kết với nhau bằng những thể liên kết và liên kết vòng bịt. Hình 11.5. Các túi phế nang có các phế bào 1 (chú thích 1),liên quan chặt chẽ với mao mạch có tế bào nội mô (chú thích 2) [4]  Phế bào II (còn được gọi là tế bào chế tiết): chiếm 3% diện tích bề mặt phế nang, là những tế bào hình cầu hoặc đa diện nằm xen giữa các phế bào I. Phế bào II thường tập trung ở miệng phế nang hoặc góc các phế nang kế cận nhau. Phế bào II liên kết với các phế bào I bằng các thể liên kết, liên kết khe và liên kết vòng bịt nhằm ngăn chặn chất dịch từ vách phế nang tràn vào lòng phế nang. Phế bào II có khả năng tổng hợp phospholipide và glycoprotein để tạo thành chất Surfactant. Surfactant là chất phủ bề mặt phế nang có tác dụng tạo ra sức căng bề mặt của các phế nang ở thì thở ra, nhờ vậy có tác dụng làm tăng khuếch tán không khí qua thành phế nang và chống xẹp phổi. Ngược lại, surfactant cũng có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt ở thì hít vào. Ngoài ra, đây cũng là chất có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của vi trùng từ không khí hít vào. Phế bào II cũng là tế bào có chức năng tái tạo lại biểu mô hô hấp bằng cách 112
  16. biệt hóa thành phế bào I và phân chia để tạo ra phế bào II. Phế nang còn có một loại tế bào có chức năng thực bào và nguồn gốc từ mono bào, được gọi là đại thực bào phế nang hoặc tế bào bụi. Màng trao đổi khí gồm có chất surfactant, bào tương của phế bào I, màng đáy của biểu mô hô hấp, màng đáy của tế bào nội mô và bào tương của tế bào nội mô. 113
  17. CHƯƠNG 12. HỆ NỘI TIẾT MỤC TIÊU − Kiến thức: 1. Mô tả được cấu tạo mô học của tuyến yên. 2. Kể tên các loại tế bào tuyến yên và các loại hormon mà chúng tổng hợp nên. 3. Nêu được mối quan hệ của vùng dưới đồi và tuyến yên 4. Nêu được tất cả các chức năng của hormon tuyến yên. 5. Mô tả được cấu tạo mô học và chức năng của tuyến giáp. 6. Mô tả được cấu tạo mô học và chức năng của tuyến cận giáp. 7. Mô tả được cấu tạo mô học và chức năng của tuyến thượng thận. I. ĐẠI CƯƠNG Cùng với hệ thần kinh và hệ miễn dịch, hệ nội tiết đóng vai trò quan trọng trong điều hòa và phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ thể. Hệ nội tiết bao gồm các tuyến nội tiết cũng như các tế bào nội tiết phân bố rải rác trong các mô và cơ quan khác nhau. Nhiều cơ quan trong cơ thể có khả năng chế tiết các chất có tác dụng như những nội tiết tố: thận, tuyến ức, hệ thần kinh, gan, tuyến nước bọt... Về mặt chức năng: Hình 12.1. Mối quan hệ giữa hệ tuyến nội tiết và cơ quan đích [5] Dựa vào quan hệ giữa tế bào chế tiết và tế bào đích, hệ nội tiết có thể chia thành nội tiết, cận tiết và tự tiết. Hormon của các tuyến nội tiết ngấm vào máu và tác động lên tế bào đích ở xa, còn các chất tiết của các tế bào hệ cận tiết thì tác động lên tế bào lân cận. Trong hiện tượng tự tiết, các chất tiết của tế bào chế tiết gắn lên thụ thể của chính nó. Tuyến yên, hypothalamus, tuyến tùng là những cơ quan nội tiết trung ương. Các tuyến nội tiết ngoại vi gồm có tuyến giáp, cận giáp, thượng thận. 114
  18. Về mặt phôi thai học người ta phân biệt ba loại: − Những tuyến nội tiết có nguồn gốc từ ngoại bì: tuyến tùng, tuyến yên, tuỷ thượng thận... − Những tuyến có nguồn gốc từ trung bì: tuyến vỏ thượng thận, tuyến kẽ và tuyến của buồng trứng, hoàng thể, tuyến kẽ của tinh hoàn. − Những tuyến nội tiết có nguồn gốc từ nội bì: tuyến giáp, tuyến cận giáp, gan tụy nội tiết. Về mặt giải phẫu học tế bào nội tiết có ba loại sau: a/ Tế bào tuyến nội tiết tập hợp thành một cơ quan đặc biệt tạo thành tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến thượng thận và tuyến tùng. b/ Nằm từng đám trong những cơ quan chuyên biệt khác như buồng trứng, tinh hoàn, tụy. c/ Nằm tản mác ở biểu mô, đặc biệt trong ruột và đường hô hấp tạo thành hệ thống thần kinh nội tiết. Về mặt mô học, tất cả các tuyến nội tiết bao giờ cũng có 2 thành phần chính là tế bào chế tiết làm nhiệm vụ tổng hợp hormon và lưới mao mạch phong phú. Tuyến nội tiết không có ống bài xuất, các chất tiết được đổ trực tiếp vào máu hoặc bạch huyết. Bản chất hormon Hormon là những chất có hoạt tính sinh học cao, làm kích thích hoặc ức chế các chức năng cơ bản của cơ thể: trao đổi chất, phát triển, sinh sản. Hầu hết các hormon thuộc nhóm: Protein (peptit, olygopeptit, glycopeptit), ví dụ: insulin, glucagon, angiotensin, hormon tuyến cận giáp, các hormon tuyến yên. Các peptide nhỏ như: vasopressin, hormon kích thích giải phóng thyroxin. Một số hormon có cấu tạo acid amin, ví dụ: thyroxin, acetylcholin, noradrenalin, melatonin... Các hormon của vỏ tuyến thượng thận và hormon sinh dục là những hormon loại steroid như: cortisol, estradiol, progesterone, testosterone. Một số hormon chỉ được chế tiết ở một tuyến nội tiết (ví dụ: thyroxin ở tuyến giáp), một số hormon được sản xuất trong một số cơ quan khác nhau (ví dụ: insulin được chế tiết ở tụy, tuyến nước bọt mang tai, não). II. TUYẾN YÊN Tuyến yên (pituitary) nằm trong hố yên của xương bướm, đính vào sàn não bằng cuống tuyến yên. Tuyến yên được bao bọc bởi màng cứng, có kích thước 12 x 10 x 9 mm, nặng khoảng 0,5 gam ở người lớn. Khi có thai, kích thước này tăng lên chút ít. Tuyến yên gồm hai phần nhưng không có ranh giới rõ: phần trước (phần 115
  19. tuyến) chia ba thùy: thùy xa tạo nên phần chính của tuyến yên, thùy trung gian rất đơn giản ở người nhưng chiếm ưu thế ở động vật có vú, thùy củ (tuberal globe) có một lớp tế bào chạy chung quanh cuống yên. Phần sau (thùy thần kinh) được hình thành do một phần sàn não thất thứ 3 phát triển lồi về phía dưới. Hình 12.2. Tuyến yên [3] − Ba phần còn lại của tuyến yên được hình thành do ngoại bì của nóc miệng nguyên thủy lồi về phía trên có dạng một cái túi (túi Rathke). Do đó, ta cũng có thể chia tuyến yên thành hai vùng chính: thùy trước và thùy sau. 1. Thùy trước tuyến yên − Thùy trước tuyến yên (antehypophysis) hay còn gọi lại thùy tuyến (adenohypophysis) chiếm khoảng 75% trọng lượng của tuyến yên. Thùy trước gồm 3 phần cấu tạo: Phần tuyến Phần củ Phần trung gian Phần củ của thùy trước bao bọc xung quanh cuống phễu của thùy sau. Các tế bào chế tiết của thùy trước xếp thành dây và đan vào nhau thành lưới hoặc tập trung thành các nang. Ngoài các tế bào tuyến, trong thùy trước còn có rất nhiều mao mạch (thường là kiểu xoang), nguyên bào sợi làm nhiệm vụ tổng hợp sợi lưới nâng đỡ các dây tế bào tuyến. Các tế bào chế tiết của thùy trước gồm có 3 loại: Tế bào ưa acid, tế bào ưa bazơ, tế bào kỵ màu a. Tế bào ưa acid: Chiếm khoảng 40% số tế bào tuyến, có kích thước khoảng 12-15 micron. Bào 116
  20. tương rộng với bộ Golgi và lưới nội bào hạt phát triển. Tế bào có hình bầu dục hay hình cầu. Bào tương của chúng có nhiều hạt bắt màu đỏ chứa hormon. Tế bào ưa acid thường tập trung ở vùng ngoại vi thùy trước. Bằng phương pháp miễn dịch hóa tế bào người ta phân biệt 2 loại tế bào ưa acid. Tế bào hướng thân (somatotrop) có nhiều hạt ưa acid dễ nhận thấy ngay dưới kính hiển vi quang học. Dưới kính hiển vi điện tử, các hạt này có kích thước 350-400 nm. Các tế bào này chế tiết hormon tăng trưởng (somatotropin), còn gọi là GH (Growth hormon). GH có tác dụng gián tiếp lên sự phát triển của sụn, xương dài. GH kích thích lên gan, thận, somatomedin được tăng cường tổng hợp và tác động trực tiếp lên sự tăng trưởng của sụn xương dài. Sự tổng hợp GH dư thừa sẽ gây chứng khổng lồ. Ngược lại, nếu thiếu GH trong giai đoạn cơ thể đang phát triển sẽ gây ra chứng lùn. Chứng to đầu chi là kết quả của sự tổng hợp GH quá mức ở giai đoạn cơ thể đã trưởng thành. Tế bào hướng tuyến vú (mammotrop) nhỏ hơn tế bào somatotrop một ít, nhưng khi có thai thì kích thước tăng lên rõ rệt. Loại tế bào này có cả hai giới, nhưng ở phụ nữ nhiều hơn. Các hạt chế tiết có kích thước 200 nm (khi có thai đạt 600 nm) chứa hormon prolactin (LTH). Chức năng prolactin là kích thích tổng hợp và bài tiết sữa. b. Tế bào ưa bazơ: Tế bào ưa baz, chiếm 10% tế bào tuyến, lớn hơn tế bào ưa acid. Bào tương của chúng có nhiều hạt ưa bazơ (phản ứng PAS dương tính) với kích thước 200- 300 nm. Các tế bào ưa bazơ thường phân bố ở vùng giữa thùy trước. Bằng phương pháp miễn dịch hóa tế bào người ta phân biệt 3 loại tế bào ưa bazơ Tế bào hướng tuyến sinh dục (gonadotrop) là những tế bào mà hạt chế tiết (275- 375 nm) chứa cả hai loại hormon FSH (Follicle Stimulating Hormon - hormon kích thích nang trứng) và LH (Luteinizing Hormon - hormon hoàng thể hóa). FSH có tác dụng kích thích quá trình phát triển nang trứng ở nữ và quá trình tạo tinh ở nam. LH có tác dụng làm chín nang trứng và kích thích sự vỡ nang trứng chín, có tác dụng làm hình thành hoàng thể sau khi trứng đã thoát nang. LH kiểm soát sự chế tiết progesteron của hoàng thể. Ở nam, LH còn giúp duy trì tế bào Leydig và kích thích sự chế tiết testosteron. Tế bào hướng giáp trạng (thyrotrop) là tế bào mà các hạt ưa bazơ (120-200 nm) chứa hormon TSH (Thyroid Stimulating Hormon - kích tuyến giáp, hay thyrotropin). TSH có tác dụng kích thích chế tiết các hormon tuyến giáp T3 và T4. 117
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2