intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Ngân hàng phát triển - Bài 4: Tài trợ dự án tại ngân hàng phát triển

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

60
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Bài giảng Ngân hàng phát triển - Bài 4: Tài trợ dự án tại ngân hàng phát triển" phục vụ cho các bạn học tập thông qua các kiến thức các bước tài trợ dự án; nội dung chính của hợp đồng tín dụng, thẩm định dự án trong ngân hàng phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Ngân hàng phát triển - Bài 4: Tài trợ dự án tại ngân hàng phát triển

  1. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển BÀI 4 TÀI TRỢ DỰ ÁN TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:  Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.  Đọc tài liệu: 1. Giáo trình “Ngân hàng Phát triển”, PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, NXB Lao động – Xã hội. 2. Sách “Kinh tế và tài chính công”, ThS. Vũ Cương, trường ĐH Kinh tế Quốc dân. 3. Giáo trình “Kinh tế đầu tư”, PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt và Từ Quang Phương, trường ĐH Kinh tế Quốc dân. 4. Sách “Thẩm định tài chính dự án”, PGS.TS. Lưu Thị Hương, NXB Tài chính, Hà Nội.  Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. Nội dung Bài Tài trợ dự án tại Ngân hàng Phát triển mô tả quy trình ngân hàng phát triển cho vay đối với các dự án phát triển. Qua phân tích quy trình này, sinh viên cần thấy được những điểm giống và khác nhau giữa quy trình cho vay của ngân hàng phát triển với quy trình này tại các ngân hàng thương mại, tập trung vào các nội dung quan trọng như thẩm định dự án, thống nhất các đô nội dung trong hợp đồng tín dụng… Mục tiêu Sau khi học xong bài này, sinh viên cần nắm được các nội dung sau:  Trình bày được các bước tài trợ dự án.  Biết được các nội dung chính của hợp đồng tín dụng 70 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  2. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Tình huống dẫn nhập Dự án nhà máy thủy điện Sơn La “Ngày 25/09/2007, tại Hà Nội, các ngân hàng thương mại nhà nước đã ký hợp đồng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tài trợ vốn cho dự án Nhà máy Thuỷ điện Sơn La. Dự án với tổng vốn đầu tư 36.933 tỷ đồng (chưa bao gồm lãi vay thi công), khoản vay các ngân hàng thương mại trong nước là 17.500 tỷ đồng trong đó Vietcombank tài trợ 6.000 tỷ đồng; Incombank 5.000 tỷ đồng; VBARD 3.500 tỷ đồng và BIDV 3.000 tỷ đồng. Thời hạn của khoản vay là 15 năm, bao gồm 5 năm ân hạn được 4 ngân hàng tham gia cho vay uỷ quyền cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam làm đầu mối giải ngân. Dự án Nhà máy Thuỷ điện Sơn La với công suất 2400 MW, dự kiến khi đi vào vận hành khoảng tháng 12/2010 sẽ tạo ra sản lượng điện bình quân 9,429 tỷ kWh/năm đảm bảo đủ cung ứng nguồn điện cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước. Đến Ngày 7/10/2007 tại Hà Nội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã ký với EVN hợp đồng tín dụng cho vay ngoại tệ nhập khẩu thiết bị cho dự án thủy điện Sơn La, trị giá 400 triệu USD”. Tại sao dự án Nhà máy thủy điển Sơn La không chỉ nhận được vốn từ một ngân hàng? TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 71
  3. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Hoạt động cơ bản của Ngân hàng phát triển là tài trợ hoặc đồng tài trợ cho các dự án phát triển, theo phương thức tài trợ một phần hoặc toàn bộ nhu cầu vốn đầu tư. Nội dung chính của tài trợ bao gồm các vấn đề sau: 4.1. Thẩm định dự án 4.1.1. Khái niệm thẩm định dự án Ngân hàng phát triển thẩm định dự án trước khi tài trợ. Thẩm định dự án là quá trình kiểm tra, rà soát lại toàn bộ các nội dung của dự án nhằm đánh giá tính khả thi và hiệu quả của dự án, là căn cứ để ra quyết định đầu tư vào dự án đó. Theo đó, đây là quá trình phân tích, dự báo và đánh giá lại một cách toàn diện nội dung kinh tế, kỹ thuật của dự án nhằm xác định hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn vay của dự án. Dự án được lập bởi chủ đầu tư. Để đảm bảo tính xác thực trong các thông tin mà dự án cung cấp, chủ đầu tư tiến hành thẩm định lại các yếu tố của dự án. Người chịu trách nhiệm về dự án có thể thuê cơ quan ngoài, hoặc bộ phận khác trong tổ chức để thẩm định dự án, đảm bảo tính độc lập, khách quan so với quá trình phân tích dự án. Tùy theo tầm quan trọng và ảnh hưởng của dự án mà các cơ quan hữu quan tham gia thẩm định dự án. Ví dụ cơ quan quản lý môi trường thẩm định ảnh hưởng của dự án đến môi trường, cơ cấp phát vốn hoặc cho vay thẩm định hiệu quả dự án, khả năng hoàn trả…, cơ quan quản lý đầu tư thẩm định tác động của dự án tới môi trường đầu tư… 4.1.2. Tổ chức thẩm định dự án cua Ngân hàng phát triển Tổ chức thẩm định dự án bao gồm:  Xây dựng quy trình, phương pháp thẩm định.  Tổ chức thu thập, xử lý thông tin nhằm thẩm định nhanh chóng, chính xác.  Tổ chức bộ máy thẩm định đảm bảo tính khách quan, độc lập. Quy trình thẩm định bao gồm các bước cơ bản sau đây: Trình người Lập Báo cáo Thực hiện có thẩm quyền Tiếp nhận hồ sơ về kết quả thẩm định để ra quyết định thẩm định đầu tư 4.1.2.1. Phương pháp thẩm định dự án Ngân hàng áp dụng phương pháp thẩm định thích hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạn chế rủi ro.  Phương pháp so sánh Thứ nhất, so sánh với các dự án cũ theo các chỉ tiêu đã lựa chọn. Dựa trên các chỉ tiêu của dự án tương tự đã hoàn thành, ngân hàng tiến hành phân tích các nhân tố tác động đến chúng, từ đó xây dựng các chỉ tiêu cho dự án mới. Dự án mà ngân hàng tài trợ có quy mô lớn, có tính đặc thù cao, thời gian tồn tại lâu dài, chịu tác động của nhiều yếu tố khó dự đoán. Nghiên cứu dự án tương tự đã hoàn thành giúp ngân hàng thấy được những tác động bất ngờ vào dự án, những ảnh hưởng trong dài hạn của dự án đối với phát triển kinh tế… từ đó xác định những định mức khoa học, so sánh dự án chuẩn bị tài trợ với định mức đó. Ngân hàng phát triển có thể tham khảo dự án thực hiện tại các nước khác, do các tổ chức tài chính khác tài trợ. 72 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  4. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Thứ hai, so sánh với các định mức kinh tế kỹ thuật do các cơ quan quản lý quy định. Các chỉ tiêu như tiêu hao vật tư, yêu cầu về chất đất, nguồn nước, nhân công… cho mỗi dự án cụ thể thường được tổng kết qua nhiều năm và trở thành định mức do Nhà nước ban hành. 4.1.2.2. Trình tự thẩm định  Thẩm định sơ bộ Bao gồm: tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ và uy tín của người lập dự án, tiếp xúc với chủ dự án và các đơn vị liên quan để tìm hiểu qua phân tích dự án.  Thẩm định chính thức Kiểm tra các nội dung sau: o Doanh nghiệp chủ dự án: Tính pháp lý của doanh nghiệp, báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình sử dụng vốn, uy tín… o Nội dung dự án: Xem xét lại tính khả thi của dự án, nguồn vốn, các chỉ tiêu kỹ thuật, nhu cầu vay, các kiến nghị. Dự toán vốn cho dự án, định mức hao phí nguyên, nhiên vật liệu, lao động, máy móc… o Yêu cầu đảm bảo nguồn vốn để thanh toán: Nếu công trình thuộc Ngân sách cấp phát một phần, phải có cam kết của Ngân sách trong việc cấp đủ vốn cho công trình. Nếu công trình do vốn tự bổ sung từ doanh nghiệp hay vay ngân hàng, phải xem xét khả năng cho vay của ngân hàng. Nếu công trình do nhiều nguồn khác nhau phải có xác định của các bên tham gia. o Phương thức thanh toán: Ngân hàng cần xem xét phương thức thanh toán như chủ đầu tư ứng trước (hoặc không) cho người trúng thầu, trả ngân hàng đầu hoặc cuối kỳ, trả làm nhiều lần, trả bằng nội tệ hay ngoại tệ… 4.1.2.3. Tổ chức thu thập và xử lý thông tin nhằm thẩm định nhanh chóng chính xác Thứ nhất, thu thập thông tin về dự án và chủ đầu tư: bao gồm thông tin về thị trường, công nghệ, ban quản lý, tình hình tài chính ban đầu, địa điểm, thời gian… trong đó cần phải khảo sát trực tiếp địa điểm mà dự án được tiến hành. Thu thập thông tin từ nhiều nguồn, xác định các nguồn thông tin đáng tin cậy. Do đặc điểm của dự án phát triển, ngân hàng cần tiến hành thu thập thông tin trước về các tập đoàn, tổng công ty hay các tổ chức tín dụng, thu thập thông tin về các ngành, các lĩnh vực, vùng quan trọng. Thứ hai, xử lý thông tin. Đây là quá trình rất phức tạp và có vai trò quan trọng. Theo đó, ngân hàng cần đánh giá cơ sở xác định dữ liệu như nhu cầu thị trường, giá, nguồn nguyên nhiên liệu, lao động… Những số liệu này có loại có định mức, ít thay đổi như số tấn xi măng chi diện tích xây dựng, song có thể thay đổi thường xuyên như chi phí khảo sát, thăm dò. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ cần thay đổi nhỏ trong các định mức trên, hiệu quả của dự án cũng thay đổi rất lớn; đối với lĩnh vực ngân hàng không có chuyên gia, cần thuê chuyên gia để xử lý. Để đơn giản quá trình xử lý thông tin, ngân hàng sử dụng kết quả thẩm định của các ngành khác nhau như thẩm định về công nghệ và môi trường của cơ quan quản lý công nghệ và môi trường… hoặc tập trung xử lý một số thông tin quan trọng. TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 73
  5. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Thứ ba, phân tích, dự báo các nhân tố tác động tới công cuộc đầu tư nhằm xác định rủi ro của dự án. Thông tin thu thập được nhiều khi chỉ phản ánh những vấn đề đã và đang diễn ra đối với các yếu tố của dự án. Do thời hạn của công cuộc đầu tư dài, sẽ có rất nhiều tác động làm thay đổi các yếu tố trên. Ví dụ công nghệ mới sẽ tạo nên sản phẩm thay thế tốt hơn sản phẩm của dự án, làm giảm khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, nguyên liệu và thiết bị nhập ngoại bị ảnh hưởng bởi tỷ giá và biến động của thị trường quốc tế… Do vậy, dự báo là công việc không thể thiếu nhằm thẩm định các yếu tố của dự án, giúp ngân hàng thấy được dự án trong thời gian dài, lường trước được phần nào rủi ro của dự án để có biện pháp đề phòng. 4.1.2.4. Tổ chức bộ máy thẩm định Bộ máy thẩm định cần phải được tổ chức khoa học nhằm đảm bảo tính độc lập, trung thực của các kết quả thẩm định. Quan trọng nhất trong bộ máy thẩm định là phòng thẩm định, là nơi thực hiện các nội dung thẩm định dự án, bao gồm các chuyên gia phân tích chuyên sâu trên tất cả các lĩnh vực liên quan đến dự án. Ngoài các chuyên gia sẵn có của Ngân hàng phát triển, ngân hàng còn thuê các chuyên gia và tư vấn trong từng dự án cụ thể nếu cácchuyên gia sẵn có chưa có nhiều kinh nghiệm trong một lĩnh vực nhất định hoặc để nhằm nâng cao chất lượng của công tác thẩm định. Thêm nữa, bộ phận thẩm định phải tách biệt về nhân sự với bộ phận tiếp nhận hồ sơ, phê duyệt tín dụng và quản lý rủi ro để đảm bảo tính khách quan của các kết quả thẩm định. Hộp 4.1: Thực trạng bộ máy thẩm định tại VDB VDB chưa tách bạch được một cách tương đối các mảng nghiệp vụ quan trọng là công tác thẩm định, hoạch định chính sách tín dụng, quản lý tín dụng, quản lý nợ xấu, quản lý rủi ro nhằm đảm bảo tính khách quan, tăng tính chuyên nghiệp và nâng cao chất lượng của khoản vay. Thêm nữa, tại các chi nhánh, Sở giao dịch thì đến nay chỉ có Sở giao dịch I và II là có Phòng Thẩm định, còn tại các chi nhánh khác thì công việc thẩm định được thực hiện tại Phòng Tổng hợp nên tầm quan trọng của thẩm định dự án không được coi trọng. Tại VDB chưa có được bộ phận hướng dẫn, tư vấn cho khách hàng các thủ tục vay vốn (lập hồ sơ xin vay, quy trình vay vốn…) nên các dự án và phương án vay vốn khi chuyển đến ngân hàng rất nhiều trong số đó được lập quá sơ sài, thiếu hồ sơ pháp lý, các nội dung trong dự án còn thiếu và mang tính chủ quan, các chỉ tiêu tài chính mâu thuẫn với nhau và chưa được xác định hợp lý. Thậm chí một số dự án lớn (nhóm A) do các Bộ, ngành lập còn sơ sài về nội dung, thiếu chính xác về số liệu, không có các dự báo về thị trường. Đây là yếu tố làm cho thời gian thẩm định bị kéo dài do khách hàng phải làm lại hồ sơ và các nội dung thẩm định không được đảm bảo do không có đủ thông tin. Thêm nữa, trong ngân hàng hiện đang thiếu bộ phận thu thập thông tin cần thiết và bộ phận lưu trữ thông tin thẩm định hiện đại. Để hỗ trợ cho công tác thẩm định thì ngoài các thông tin do khách hàng cung cấp thể hiện trong hồ sơ vay vốn thì bản thân ngân hàng cũng phải có một hệ thống các thông tin bổ trợ. Đó là những văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, thông tin cập nhật liên tục về các thị trường trong và ngoài nước, thông tin về tình hình kinh tế – chính trị – xã hội trong và ngoài nước, hệ thống các số liệu thống kê hàng năm theo các chỉ tiêu kinh tế – xã hội của toàn bộ nền kinh tế cũng như của từng ngành, lĩnh vực và từng vùng. Các kết quả thẩm định cũng như thông tin về dự án và chủ đầu tư đều được lưu trữ tại các phòng ban liên quan bằng văn bản giấy tờ hoặc trên máy tính của từng cá nhân mà chưa được chuyển về lưu trữ ở một mối (Hội sở chính) nên khi cần thông tin cũ thì cán bộ thẩm định phải mất nhiều thời gian tìm kiếm hoặc làm báo cáo gửi lên Hội sở chính để được cung cấp thông tin. Nguồn: Báo cáo tổng kết về hoạt động thẩm định tại VDB 74 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  6. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển 4.1.3. Nội dung của thẩm định dự án Nội dung của thẩm định dự án bao gồm:  Thẩm định sự cần thiết tài trợ (sự cần thiết của dự án, việc đáp ứng mục tiêu tài trợ của ngân hàng).  Thẩm định hiệu quả vốn đầu tư. 4.1.3.1. Thẩm định sự cần thiết tài trợ Chủ đầu tư cần chứng minh cho ngân hàng thấy sự cần thiết phải đầu tư và được phép đầu tư của các cấp có thẩm quyền. Sự cần thiết đầu tư đươc thể hiện thông qua tính pháp lý của dự án, là yếu tố quan trọng đảm bảo dự án được triển khai và vận hành thông suốt. Tính pháp lý được đảm bảo bằng các văn bản chính thức của các cơ quan quản lý mà hoạt động của dự án có liên quan; ví dụ, dự án có liên quan tới cấp phát của Ngân sách phải có giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính (Sở Tài chính). Các văn bản gồm:  Giấy phép đầu tư.  Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hoăc thuê đất trong thời gian dài).  Giấy phép nhập khẩu (nguyên nhiên liệu, máy móc cần thiết…). Các dự án được tài trợ ngân hàng phát triển phải đáp ứng được mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Đây là vấn đề khó khăn nhất trong quá trình thẩm định sự cần thiết của tài trợ. Ngân hàng sẽ đánh giá các mục tiêu của dự án, kết quả mà dự án có thể đạt được, phân tích tính mâu thuẫn của các mục tiêu, nhằm xác định khả năng sinh lãi và tính an toàn của dự án. Dự án phát triển do Chính phủ hoạch định. Việc tài trợ là nhiệm vụ của Ngân hàng phát triển, đó là sức ép lớn đối với ngân hàng. Việc thẩm định sự cần thiết phải tài trợ sẽ định hướng cho Ngân hàng phát triển lựa chọn dự án khả thi và xác định phương pháp tài trợ thích hợp. Thông thường do một số nguyên nhân, số lượng dự án được đưa ra xét duyệt sẽ rất nhiều, nhưng không phải tất cả các dự án đó đều dựa trên nhu cầu của nền kinh tế và khả thi. Thực tế đã cho thấy việc đầu tư ồ ạt do không tính toán đến vấn đề nguồn lực đầu vào, trình độ quản lý, thị phần tiêu thụ ở đầu ra nên rất nhiều chương trình, dự án sau khi đầu tư xong đã không đạt hiệu quả ban đầu vì không có khả năng cạnh tranh hoặc do sản phẩm quá lớn so với nhu cầu thực tế. Hộp 4.2: Sự trùng lặp trong đầu tư (…) Chẳng hạn, trong hơn 20 năm qua, nhiều cảng nước sâu đã được hình thành suốt dọc bờ biển phía đông của Việt Nam. Mặc dù góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu của các địa phương, hệ thống cảng nước sâu quá dày đặc cũng cho thấy một sự lãng phí về vốn đầu tư công. Việc giải thích cho mức độ dày đặc các cảng nước sâu ở Duyên hải miền Trung (từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận) là điều không đơn giản, song trước đó mỗi dự án này đều khả thi và có hiệu quả (nếu không tính đến các dự án khác). Toàn bộ những cảng này đều do nhà nước đầu tư từ nguồn ngân sách Trung ương hoặc ngân sách địa phương, gây ra lãng phí lớn trong điều kiện tiềm lực còn eo hẹp – trong khi lẽ ra các khoản vốn này có thể được sử dụng cho các mục đích khác. Mạng lưới dày đặc khiến các cảng phải cạnh tranh gay gắt với nhau và trong bối cảnh quy mô hoạt động thương mại chưa đủ lớn, hầu hết các cảng đều có công suất sử dụng ở mức thấp. Mật độ các cảng quá dày đặc song nước ta lại quá thiếu những cảng có quy mô lớn với hệ thống logistics thuận tiện để có thể tiếp nhận được những tàu lớn hoặc những tàu chuyên dụng. TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 75
  7. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Rõ ràng, sự trùng lặp của nhiều dự án đầu tư công trong cùng một lĩnh vực cho thấy thiếu hiệu quả điều phối của các dự án này ở cấp vùng. Điều này khiến từng dự án đáp ứng đúng về quy trình (kể cả khâu thẩm định) song công tác thẩm định, xét duyệt lại chưa được đúng yêu cầu. Một trong những nguyên nhân quan trọng là thiếu thể chế điều phối đủ mạnh và theo dõi công việc đủ sát sao ở cấp vùng. Mặc dù nhiều quy hoạch vùng kinh tế, xã hội, vùng kinh tế trọng điểm được phê duyệt, nhưng không có bộ máy ở Trung ương, hay bộ máy cấp vùng để thực thi một cách triệt để. Tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của các cấp chính quyền nhiều mặt chưa sát với thực tế, còn nặng về kinh tế, lo tăng thu cho ngân sách địa phương (có phần do Luật Ngân sách Nhà nước quy định), dẫn đến tình trạng không gian kinh tế bị chia cắt theo quản lý hành chính, không được điều phối tạo ra sức mạnh tổng thể. Bên cạnh đó, nhiều lý do khách quan và hạn chế năng lực, tầm nhìn có thể được đưa ra nhằm giải thích cho hiệu quả điều phối thấp. Chính vì vậy, hiệu quả của phân cấp, phân quyền đối với quản lý đầu tư công còn thấp và làm giảm đóng góp của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Nguồn: Chương 4 trong Báo cáo Kinh tế vĩ mô năm 2014 4.1.3.2. Thẩm định các mục tiêu của dự án Ngân hàng phát triển chỉ tài trợ ưu đãi cho một số mục tiêu nhất định. Các dự án không thuộc diện ưu đãi cũng phải nằm trong mục tiêu của ngân hàng. Do vậy xác định mục tiêu của các dự án là bước đầu tiên của quá trình thẩm định. Nhiều sai lầm được bắt đầu từ xác định sai các mục tiêu của dự án, ví dụ các dự án chỉ nhằm mục tiêu xã hội, không tạo nguồn thu trả nợ ngân hàng, không thể là đối tượng cho vay. Nhiều mục tiêu của dự án, là đối tượng cho vay của ngân hàng, lại mâu thuẫn với nhau. Ngân hàng sẽ loại trừ các dự án không phù hợp với mục tiêu hoạt động của ngân hàng, hoặc tính điểm cho các mục tiêu của dự án, hoặc cần có cam kết của các bên trong việc thực hiện mục tiêu này. Quá trình thẩm định mục tiêu của dự án là quá trình sàng lọc các ý đồ của dự án. Để thực hiện nhiều mục tiêu xã hội, dự án cần đưa ra các nội dung về công nghệ, nhân lực, thị trường… Các nội dung này cần phải cân đối với mục tiêu đề ra. 4.1.3.3. Thẩm định công nghệ và ảnh hưởng của dự án đến môi trường Trên quan điểm lợi nhuận trong ngắn hạn, trong điều kiện thiếu vốn đầu tư và chi phí vốn đầu tư đắt đỏ, các doanh nghiệp và các chủ đầu tư buộc phải chấp nhận công nghệ rẻ, lạc hậu. Lợi thế của công nghệ rẻ là sử dụng nhiều lao động, phù hợp với trình độ sử dụng. Tuy nhiên mặt trái của nó là ảnh hưởng không tốt tới môi trường và tạo ra các sản phẩm chất lượng không cao, tính cạnh tranh kém. Công nghệ lạc hậu nhiều khi lại tiêu tốn nguyên nhiên vật liệu trong quá trình tạo sản phẩm, làm tăng giá thành. Do đó, với mục tiêu hỗ trợ phát triển Ngân hàng phát triển sẽ kiểm tra nghiêm ngặt trang thiết bị và công nghệ của các dự án phù hợp với chính sách công nghệ và bảo vệ môi trường mà Nhà nước đã đặt ra cho từng dự án. Thông qua hoạt động thanh toán, Ngân hàng phát triển kiểm tra nguồn gốc xuất xứ của trang thiết bị, các hợp đồng mua bán thiết bị, giá… để đảm bảo tính hiện đại của chúng. 4.1.3.4. Thẩm định hiệu quả tài chính – xã hội của dự án Đây là hoạt động phức tạp nhất trong công tác thẩm định dự án. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động này là phải toàn diện, chuẩn xác, nhanh chóng và chi phí thấp. Trình độ của cán bộ thẩm định quyết định chất lượng thẩm định. Nội dung thẩm định này bao gồm: 76 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  8. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển  Thẩm định thị trường như thị trường nguyên nhiên liệu, sản phẩm, lao động, công nghệ liên quan đến dự án. Phân tích tính cạnh tranh của sản phẩm, tính khan hiếm hay dễ tìm kiếm của nguyên nhiên liệu, nguồn lao động có tay nghề sẵn có hay phải qua đào tạo… Đánh giá tính an toàn của các chỉ tiêu bằng các hợp đồng giữa chủ đầu tư với các bên có liên quan trong suốt thời gian tồn tại của dự án.  Thẩm định nguồn vốn: dự án phát triển được tài trợ bởi nhiều nguồn với tính chất về quy mô, thời hạn sử dụng, lãi suất… không giống nhau. Cần xác định rõ ràng và có căn cứ các nguồn vốn này, đặc biệt phân tích khả năng hoàn trả (nếu cần) đối với mỗi nguồn vốn.  Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính: ngân hàng sử dụng các phương pháp và kỹ thuật thích hợp để tính toán hiệu quả của dự án, bao gồm tính dòng tiền, xá định lãi suất chiết khấu, đo lường rủi ro…Tìm kiếm hệ thống các chỉ tiêu định mức (cơ sở) để làm căn cứ so sánh với các chỉ tiêu hiệu quả tính toán từ dự án, làm cơ sở tin cậy để ra quyết định tài trợ.  Thẩm định hiệu quả xã hội và tác động tiêu cực của dự án. Đây là nội dung khó xét trên giác độ đo lường hay định lượng. Đại đa số các dự án phát triển hiện nay, phần nội dung này chỉ dừng lại ở việc liệt kê các lợi ích xã hội có được từ việc triển khai dự án, còn đo lường giá trị của chúng, đo lường hao phí xã hội cùng các tác động tiêu cực đến nền kinh tế – xã hội để dự án được tiến hành và cuối cùng là gia tăng giá trị xã hội có được thì rất ít dự án làm được.  Thẩm định rủi ro và xác định các biện pháp dự phòng: như đã đề cập đến ở bài 1, các rủi ro đối với dự án phát triển là không tránh khỏi nên ngân hàng luôn phải tính toán phần dự phòng phù hợp để bù đắp cho các rủi ro này. Nếu dự phòng quá nhiều hoặc quá ít đều ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. 4.2. Tài trợ theo dự án Một cách khái quát, quá trình tài trợ dự án của Ngân hàng phát triển trải qua 5 bước cơ bản sau đây: 4.2.1. Thẩm định trước khi tài trợ 4.2.1.1. Lựa chọn và thẩm định dự án Các dự án phát triển sẽ được tính toán theo nhiều chỉ tiêu. Ngân hàng tiến hành xác định số lượng dự án và lựa chọn các dự án tốt nhất trong số các dự án ngân hàng đang tiếp cận thông qua các tiêu chuẩn. Ngân hàng làm rõ các cam kết của các chủ đầu tư TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 77
  9. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển và các chủ nợ khác trong quá trình thưc hiện dự án. Ngân hàng cũng xây dựng kế hoạch bao gồm thời gian, các điều kiện để dự án thực hiện có hiệu quả, ví dụ kế hoạch đấu thầu, kế hoạch đồng tài trợ… Ngân hàng tiến hành thẩm định toàn diện các nội dung của dự án. 4.2.1.2. Thẩm định người chịu trách nhiệm, người điều hành doanh nghiệp và cơ chế quản lý đối với dự án  Khách hàng vay của Ngân hàng phát triển o Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng phát triển tài trợ dự án thông qua các ngân hàng đầu mối, là người có trách nhiệm thu hồi vốn trả nợ Ngân hàng phát triển. Ngân hàng phát triển lựa chọn dự án, kêu gọi tài trợ từ các Ngân hàng thương mại, các công ty tài chính. Nhìn chung đó là các dự án có tỷ lệ sinh lời cao song rủi ro lớn. Hỗ trợ một phần vốn với lãi suất thấp của Ngân hàng phát triển là lực hút đối với nguồn tài trợ từ Ngân hàng thương mại. Các Ngân hàng thương mại sẽ thực hiện cho vay theo cơ chế thương mại đối với phần nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và giải ngân ủy thác đối với phần nguồn vốn của Ngân hàng phát triển. Do vậy đánh giá năng lực cho vay, thu nợ và khả năng tài chính của ngân hàng đầu mối là một trong những nội dung thẩm định khách hàng của Ngân hàng phát triển. Ngân hàng phát triển thường lựa chọn các ngân hàng có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài trợ, có khả năng tài trợ với quy mô lớn, thời gian dài. o Các tập đoàn kinh tế: có thể gồm công ty mẹ và nhiều công ty con, hoặc Tổng công ty. Đây là khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ quản lý và công nghệ cao. Tuy nhiên tính chất sở hữu phức tạp, cơ chế quản lý tài chính đa dạng theo hướng “mở” giữa các đơn vị thành viên có thể gây khó khăn cho quá trình tài trợ của Ngân hàng phát triển. Công ty mẹ có thể trực tiếp vay, hoặc bảo lãnh cho công ty con vay, hoặc công ty con trực tiếp vay của ngân hàng để thực hiện dự án. Ngân hàng phải thẩm định tình hình tài chính của người vay trong mối quan hệ mẹ – con, Tổng công ty – đơn vị thành viên hạch toán độc lập. o Các Bộ hoặc chính quyền địa phương: Thực chất Bộ và chính quyền địa phương không phải là người trực tiếp vay ngân hàng mà là dự án của họ. Dựa trên “dự án” vừa được xây dựng, một chủ đầu tư được thành lập (công ty của Bộ hoặc tỉnh). Rất khó phân tích về chủ đầu tư loại này (ngoài yếu tố pháp lý) do đây là dự án tạo nên pháp nhân mới. Hoặc chủ đầu tư là cơ quan hưởng lợi, hiện chưa rõ về năng lực tài chính. Chủ đầu tư này sẽ trở nên hiện hữu hơn khi ngân hàng tài trợ – điều kiện để hình thành tài sản của dự án. Trong trường hợp này, ngân hàng cần ràng buộc trách nhiệm trả nợ đối với Bộ và tỉnh.  Ngân hàng xem xét cơ chế quản lý của chủ đầu tư đối với dự án. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng kiến nghị thiết lập cơ chế quản lý thích hợp để tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm tra hoạt động của chủ đầu tư. Ví dụ, cơ chế tham khảo ý kiến ngân hàng trước khi thay đổi hạng mục đầu tư, hoặc về chính sách tín dụng thương mại… 78 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  10. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển 4.2.1.3. Xem xét các dự án liên quan chặt chẽ tới dự án mà ngân hàng tài trợ (các dự án phụ thuộc lẫn nhau) Dự án phát triển là dự án là dự án có tính liên kết. Nó hình thành dựa trên sự vận hành của một số dự án và là động lực để phát triển các dự án thương mại khác. Ví dụ dự án xây dựng nhà máy mía đường, trong nhiều trường hợp chỉ có hiệu quả khi dự án phát triển nguồn nguyên liệu thành công, đồng thời khuyến khích các dự án sử dụng sản phẩm phụ của nhà máy. Nếu tại địa điểm xây dựng nhà máy, nguồn nguyên liệu không đáp ứng đủ, ngân hàng cần có dự án bổ sung là dự án phát triển nguồn nguyên liệu. 4.2.1.4. Xác định rủi ro của dự án và đặt ra hệ thống phát hiện sớm các dấu hiệu làm cho dự án trở nên tồi tệ Hệ thống này sẽ giúp cả ngân hàng và chủ dự án phát hiện sớm các sai lệch nhằm nhanh chóng tìm biện pháp khắc phục. 4.2.2. Tìm kiếm nguồn tài trợ thích hợp  Trên cơ sở nội dung cơ bản của dự án, Ngân hàng phát triển cần tìm các nguồn phù hợp. Như vậy tính chất của dự án quyết định tính chất của nguồn vốn. Nếu dự án có khả năng sinh lời thấp (chi phí cao hoặc giá bán phải thấp) thì ngân hàng phải tìm nguồn có lãi suất hỗn hợp (lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi). Ngược lại, các dự án có khả năng sinh lời cao, ngân hàng cho vay với lãi suất cao thì có thể tìm nguồn trên thị trường. Những dự án có thời gian dài, ngân hàng phải căn cứ vào khả năng chuyển hoán nguồn vốn để xác định thời gian huy động phù hợp.  Huy động tiết kiệm trung và dài hạn, phát hành giấy nợ trung và dài hạn là hai nguồn cơ bản của Ngân hàng phát triển. ODA và các nguồn tài trợ của các thể chế tài chính quốc tế đóng vai trò quan trọng vì lãi suất thấp, thời gian dài. Bên cạnh đó Ngân hàng phát triển cũng có thể tìm nguồn cho dự án thông qua tổ chức đồng tài trợ với các ngân hàng thương mại khác, thông qua bảo lãnh vay vốn nước noài, ký hợp đồng hạn mức với các ngân hàng khác. 4.2.3. Xác định phương thức tài trợ 4.2.3.1. Ngân hàng phát triển cho vay toàn bộ nhu cầu vốn tín dụng Phương thức này áp dụng với dự án hầu như không có khả năng tiếp cận với các ngân hàng thương mại: Mục tiêu xã hội lớn, doanh lợi thấp, rủi ro rất cao. 4.2.3.2. Ngân hàng phát triển tài trợ thông qua các Ngân hàng thương mại Những mục tiêu phát triển đã được hoạch định chi tiết, dự án đã được lập và thẩm định sơ bộ. Nếu xét thấy dự án có khả năng sinh lời cao và khá an toàn, Ngân hàng phát triển sẽ tiến hành tài trợ đối với một Ngân hàng thương mại để ngân hàng này cấp tín dụng cho dự án. Hình thức tài trợ cho Ngân hàng thương mại có thể là cho vay một phần nhu cầu vốn, bảo lãnh phát hành trái phiếu, cấp một phần chênh lệch lãi suất, hoặc chấp nhận một phần rủi ro… Hình thức này sẽ tận dụng lợi thế của Ngân hàng thương mại trong quá trình tài trợ dự án. TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 79
  11. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển 4.2.3.3. Ngân hàng phát triển tổ chức đồng tài trợ với tư cách là ngân hàng đầu mối Đồng tài trợ là phương thức để san sẻ rủi ro cho các ngân hàng, vì vậy phương thức tài trợ này thích hợp với các dự án lớn, thời gian dài, hoặc độ rủi ro cao. Ngân hàng phát triển có thể chấp nhận thu hồi vốn sau cùng và một số rủi ro nhất định. Ngân hàng phát triển ngoài ký hợp đồng tín dụng với dự án, còn phải ký hợp đồng với các tổ chức tín dụng khác. 4.2.3.4. Ngân hàng phát triển cho vay một phần, phần còn lại là của các tổ chức tín dụng khác Phương thức này áp dụng đối với dự án (hoặc chương trình) tương đối hấp dẫn Ngân hàng thương mại. Dự án phát triển có thể được chia thành nhiều dự án (tiểu dự án) hay hạng mục có tính liên kết hữu cơ, hoặc nhiều dự án tập hợp lại thành Chương trình phát triển của Chính phủ. Ví dụ về Chương trình mía đường, Ngân hàng phát triển có thể cho vay để phát triển vùng nguyên liệu, làm đường vận chuyển, còn Ngân hàng thương mại cho vay để xây dựng nhà máy; hoặc Ngân hàng phát triển cho và trung và dài hạn còn các Ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn. Các Ngân hàng thương mại sẽ lựa chọn tài trợ cho các tiểu dự án hoặc hạng mục có khả năng thu hồi vốn, thời gian hoàn vốn ngắn, ít rủi ro, có tài sản đảm bảo, còn lại sẽ do Ngân hàng phát triển tài trợ. 4.2.3.5. Ngân hàng phát triển bảo lãnh để dự án phát hành trái phiếu dài hạn trên thị trường trong nước hoặc quốc tế, hoặc vay của ngân hàng nước ngoài Nhiều nước có chính sách khuyến khích xuất khẩu thông qua tài trợ ưu đãi cho người nhập khẩu nước ngoài. Ví dụ Eximbank của Pháp sẽ cho vay với lãi suất thấp cho các doanh nghiệp nước ngoài mua máy của Pháp (với điều kiện phải có bảo lãnh của Chính phủ hoặc tổ chức tài chính có uy tín). Trong trường hợp này, Ngân hàng phát triển có thể bảo lãnh cho hãng hàng không vay của Eximbank Pháp nhằm phát triển đội bay… 4.2.4. Ký kết hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng bao gồm thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về quy mô, lãi suất của các khoản tín dụng, các khoản phí, thời hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ, quyền hạn và trách nhiệm của ngân hàng trong quá trình tài trợ, nghĩa vụ của khách hàng trong quá trình trả nợ ngân hàng, số tiền gốc và lãi phải trả hàng kỳ… 4.2.4.1. Quy mô và cơ cấu vốn Nhu cầu vay vốn = Nhu cầu đầu tư – Vốn đầu tư – Nguồn khác Nhu cầu vay Ngân hàng phát triển = Nhu cầu vay – Vay các tổ chức tín dụng khác Ngân hàng phát triển cho vay trong giới hạn về nguồn vốn. Tổng vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư được xác định dựa trên dự toán đầu tư. Nguồn vốn và cơ cấu vốn được dự tính thông qua các văn bản ghi nhớ hoặc các hợp đồng về hạn mức, hoặc trong nước 80 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  12. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển hoặc nước ngoài. Sau khi xác định hoặc yêu cầu các nguồn tài trợ khác, Ngân hàng phát triển mới xác định số vốn cần tham gia. Trong nhiều trường hợp khoản cho vay của Ngân hàng phát triển là vốn “mồi” để các Ngân hàng thương mại khác tham gia đầu tư. Vậy nên, cơ cấu vốn của một dự án có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau. 4.2.4.2. Lãi suất cho vay Lãi suất cho vay của Ngân hàng phát triển thường thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường, phản ánh hỗ trợ của Chính phủ cho dự án phát triển, thậm chí còn thấp hơn lãi suất huy động đầu vào của ngân hàng này. Ví dụ cho vay dự án phát triển kinh tế ở nông thôn kết hợp cả hai nguồn vốn gồm vốn tài trợ của Chính phủ hoặc các tổ chức xã hội cho phát triển nông thôn và vốn huy động trên thị trường, lãi suất đầu vào là lãi suất huy động bình quân. Tham khảo về lãi suất bình quân cho vay (đầu ra) của VDB trong đồ thị dưới đây: Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của VDB Đồ thị 4.1. Lãi suất của VDB (%/năm) Ngân hàng cũng phân biệt lãi suất cho các bộ phận khác nhau của dự án. Trong dự án có nhiều đối tượng được tài trợ, mỗi đối tượng có thể phải chịu lãi suất khác nhau phù hợp với khả năng sinh lời cụ thể. Cho vay đối với các hộ nghèo, hoặc các hộ kinh doanh còn nhiều khó khăn cần lãi suất thấp hơn cho vay các hộ giàu kinh doanh đang trong thời kỳ có thu hoạch lớn, tỷ suất lợi nhuận cao. Trong giai đoạn đầu tư hoặc vận hành ban đầu, khi số tiền vay lớn, sản phẩm chưa tiêu thụ nhiều, lãi suất có thể thấp, trong giai đoạn phát triển, tỷ lệ sinh lời cao, lãi suất cho vay sẽ được nâng lên. Việc phân biệt như trên sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước, làm cho lãi suất phù hợp với khả năng sinh lợi của dự án. Cho dù lãi suất cho vay của Ngân hàng phát triển thấp hơn lãi suất cho vay của các trung gian tài chính khác thì lãi suất này vẫn phải đảm bảo phản ánh chi phí vốn ở mức chấp nhận được nhằm mục tiêu hoạt động an toàn của ngân hàng. Trên cơ sở nỗ lực của ngân hàng đa dạng các nguồn vốn để giảm chi phí huy động bình quân – một cấu phần quan trọng của lãi suất cho vay – thì lãi suất cho vay phải đảm bảo bù đắp các chi phí hoạt động khác của ngân hàng và bù đắp được rủi ro của dự án ở mức độ ngân hàng chấp nhận được. TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 81
  13. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển 4.2.4.3. Đảm bảo tiền vay  Các vấn đề khó khăn về đảm bảo tiền vay trong các dự án phát triển Đối với những nước mà thị trường tài sản (như đất, nhà cửa, máy móc…) chưa phát triển, hoặc tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, tổn thất của Ngân hàng rất khó được bù đắp bằng bán các tài sản thế chấp. Phần lớn dự án phát triển là dự án đầu tư mới, tài sản thế chấp chưa có. Tài sản hình thành sau đầu tư nhà máy, đường giao thông, bến cảng… rất khó định giá và khó bán.  Đảm bảo tiền vay trong dự án phát triển Để hạn chế rủi ro, Ngân hàng phát triển cố gắng xem xét các khả năng đảm bảo khác nhau: Thứ nhất, đảm bảo của Chính phủ cho các dự án: ngân hàng chủ yếu cho vay chỉ dựa vào uy tín của chủ đầu tư, với quy mô vốn cho vay lớn, nếu tổn thất xảy ra, ngân hàng khó có thể bù đắp bằng quỹ dự phòng. Vì vậy, đảm bảo của Chính phủ rất quan trọng. Tuy nhiên đảm bảo của Chính phủ có thể làm giảm nỗ lực và trách nhiệm của ngân hàng trong việc thẩm định và cho vay dự án. Đấy là hai mặt của vai trò của Chính phủ đối với hoạt động của ngân hàng mà nếu không được giải quyết tốt thì hiệu quả cho vay của các dự án phát triển có thể bị giảm sút. Thứ hai, đảm bảo của chủ đầu tư: Chủ đầu tư có thể thuộc Bộ, Tổng công ty, các cấp chính quyền… Những đơn vị chủ quản của chủ đầu tư thường có tiềm lực tài chính nhất định, đứng ra bảo lãnh trả nợ cho Ngân hàng phát triển. 4.2.4.4. Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ Các công cuộc đầu tư phát triển có thời gian dài (thường là trên 10 năm) bao gồm thời gian đầu tư, vận hành, có thể tách biệt hoặc đan xen. Có những công trình có thời gian sử dụng rất dài như nhà máy thủy điện, đường giao thông, sân bay, cảng biển, bệnh viện, khu công nghiệp… ngân hàng căn cứ vào đời sống kinh tế – kỹ thuật của những công trình, nguồn thu, khả năng huy động của ngân hàng để xác định thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ. Trên cơ sở nguồn thu dự tính, ngân hàng xác định kế hoạch trả nợ, bao gồm:  Xác định nguồn trả nợ: từ thu nhập của dự án, thu nhập của Bộ, của Tổng công ty có dự án, hoặc từ nguồn thu ngân sách.  Xác định thời điểm trả nợ, kỳ hạn nợ: Thời điểm trả nợ được xác định căn cứ vào kỳ hạn trả nợ, kỳ hạn trả nợ là khoảng thời gian mà kết thúc khoảng thời gian đó khách hàng phải thanh toán nợ cho ngân hàng theo thỏa thuận.  Xác định số tiền trả nợ mỗi kỳ: Bao gồm một phần hay toàn bộ khấu hao, một phần hay toàn bộ lợi nhuận sau thuế, hoặc một phần thu ngân sách.  Xác định loại tiền thanh toán (nội hoặc ngoại tệ) và tỷ giá chuyển đổi.  Xác định điều kiện phát sinh nợ quá hạn, thanh toán gốc và lãi quá hạn. 82 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  14. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Xác định nguồn trả nợ là công việc phức tạp đối với Ngân hàng phát triển. Quy mô tài trợ lớn, dự án sinh lời chậm, nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn của ngân hàng tài trợ cho dự án chiếm tỷ trọng lớn… gây sức ép đối với ngân hàng trong việc tính toán nguồn thu nợ và thời gian thu nợ. Trước hết, về lý thuyết, thu nhập của dự án (khấu hao TSCĐ và lợi nhuận sau thuế) được dùng để trả nợ gốc và doanh thu từ tiêu thụ sản phẩm từ dự án được dùng để thanh toán nợ lãi. Nếu dự án không tạo nguồn thu trực tiếp, thì thu nhập khác của chủ đầu tư (hoặc người hưởng lợi) sẽ được sử dụng để trả nợ. Ví dụ dự án phát triển đường giao thông, hoặc không thu phí, hoặc nếu thu phí thì thời gian trả rất lâu; chủ đầu tư có thể bán quyền sử dụng đất hai bên đường (số tiền rất lớn do con đường mang lại) và sử dụng số tiền này để trả nợ. Tuy nhiên, các nguồn ngoài dự án để trả nợ của chủ đầu tư được sử dụng để trang trải cho rất nhiều khoản chi khác mang tính chất thường xuyên, do vậy cần được ngân hàng thẩm định kỹ và có kế hoạch và cam kết cụ thể của bên đi vay. Thứ hai, Ngân hàng phát triển cho vay ứng trước cho ngân sách, hoặc dự án có nguồn thu thấp nhằm tạo lợi thế cho các ngành khác thì thu ngân sách là nguồn trả nợ cho ngân hàng. Những dự án này là đối tượng cấp phát của ngân sách. Tuy nhiên, do ngân sách chưa bố trí đủ, kịp thời, Ngân hàng phát triển sẽ ứng trước cho Ngân sách. Hoạt động của Ngân hàng phát triển cần các dòng tiền để vận hành liên tục nên nếu các khoản này chậm trả lại sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Thứ ba, những dự án nguồn trả nợ không đủ, Ngân hàng phát triển sẽ thiết kế nguồn trả nợ cũ bằng phát triển các khoản nợ mới. Cách làm này mang tính chất tình thế và nếu khách hàng không có ý thức nhanh chóng trả nợ cho ngân hàng thì nợ xấu thực tế của ngân hàng sẽ bị đội lên rất nhiều cho dù trên giấy tờ các khoản nợ vẫn có vẻ tốt. 4.3. Giải ngân, giám sát dự án, thu nợ và điều chỉnh dự án Tài trợ dự án phát triển diễn ra trong thời gian tương đối dài. Phần vốn tham gia của ngân hàng thường chiếm tới trên 50% tổng vốn đầu tư. Vì vậy theo dõi và đánh giá dự án là điều kiện để ngân hàng tài trợ một cách có hiệu quả.  Quá trình giải ngân là quá trình ngân hàng giám sát tiến độ đầu tư. Ngân hàng giải ngân theo các điều kiện giải ngân như tiến độ xây dựng, tiến độ nhập máy móc thiết bị, kết quả thực hiện các chỉ tiêu… Cơ sở để giải ngân là chứng từ hóa đơn nhập máy móc thiết bị, mua vật liệu xây dựng, chi phí giải phóng mặt bằng. Giải ngân đối với tài sản hình thành từng phần phải dựa trên biên bản nghiệm thu giữa chủ đầu tư và nhà thầu có sự chứng kiến của ngân hàng. Giải ngân đảm bảo đúng mục đích.  Kiểm soát giai đoạn đầu tư có vai trò quan trọng. Đây là giai đoạn hình thành tài sản cố định, quyết định chất lượng của công cuộc đầu tư. Đây cũng là giai đoạn phát sinh chi phí “vượt trội” so với dự toán, do chủ đầu tư khi lập dự toán thường TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 83
  15. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển không lường hết mọi chi phí, hoặc cố tình tính toán thấp để gọi vốn. Kiểm soát quá trình đầu tư bao gồm: o Kiểm soát chi phí (thông qua định mức, chứng từ, hóa đơn nhập hàng, hợp đồng thầu, hợp đồng cung cấp…). o Kiểm soát tiến độ thực hiện. o Kiểm soát chất lượng hạng mục công trình. Ngân hàng thiết kế chương trình giám sát chặt chẽ và đào tạo đội ngũ giám sát có chất lượng để hạn chế tình trạng tiêu cực giữa nhà thầu và chủ đầu tư, giữa nhà cung cấp thiết bị với nhà thầu, giữa nhân viên ngân hàng với chủ đầu tư.  Ngân hàng thu nợ gắn với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp – chủ đầu tư, bao gồm thu lãi và gốc. Đây là giai đoạn thường xảy ra các biến cố: sản phẩm không tiêu thụ được hoặc giá giảm, nguyên liệu không đáp ứng được yêu cầu, chi phí tăng mạnh, tài sản cố định bị hỏng, tốn thất… Những biến cố này có thể dẫn đến việc trì hoãn trả nợ cho ngân hàng tạm thời hoặc trong dài hạn. Đối với dự án phát triển, việc sử dụng các biện pháp “phạt tài chính” thường không mang lại hiệu quả tốt. Ngân hàng cần có đánh giá từng bước tình hình hoạt động của doanh nghiệp, phân tích nguyên nhân nảy sinh sự cố, cùng doanh nghiệp tìm biện pháp giải quyết.  Khi dự án kết thúc, ngân hàng đánh giá dự án o Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của dự án. o Phân tích các nhân tố tác động tới dự án, góp phần tạo nên thành công, hoặc gây nên thất bại của dự án. o Rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo: Nhiều dự án phát triển có quy mô rất lớn và không có khuôn mẫu sẵn, việc xác định các định mức trong dự án thường rất khó khăn và rủi ro. Đánh giá các dự án đã thực hiện sẽ tạo ra các chỉ tiêu tham chiếu có ích cho các dự án kế tiếp. 84 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
  16. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Tóm lược cuối bài  Nội dung chính trước khi tài trợ là thẩm định dự án, thiết kế hợp đồng tài trợ, tìm nguồn vốn thích hợp.  Ngân hàng có thể tài trợ toàn bộ hoặc 1 phần nhu cầu vốn đầu tư. Trong quá trình tài trợ ngân hàng thực hiện giải ngân, kiểm soát, điều chỉnh hoạt động, thu hồi vốn. Sau khi kết thúc dự án ngân hàng đánh giá kết quả đầu tư. TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226 85
  17. Bài 4: Tài trợ dự án tại Ngân hàng phát triển Câu hỏi ôn tập 1. Thế nào là thẩm định dự án? 2. Tại sao ngân hàng phải thẩm định dự án? 3. “Ngân hàng thẩm định dự án là ngân hàng tính toán các chỉ tiêu hiệu quả của dự án”, đúng hay sai? Tại sao? 4. “Ngân hàng dựa vào các thông tin do chủ đầu tư cung cấp để thẩm định dự án”, đúng hay sai? Tại sao? 5. Thẩm định dự án bao gồm các nội dung gì? 6. “Vì dự án phát triển nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia nên hoạt động thẩm định của Ngân hàng phát triển chỉ là hình thức”, đúng hay sai? Tại sao? 7. Sự khác biệt giữa quyết định tài trợ của Ngân hàng phát triển và quyết định bỏ vốn của chủ đầu tư đối với dự án là gì? 8. Các hình thức đảm bảo tiền vay của dự án phát triển là gì? 9. Căn cứ để Ngân hàng phát triển xác định quy mô và cơ cấu vốn cho vay là gì? 10. “Ngân hàng phát triển cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại”, đúng hay sai? Tại sao? 86 TXNHTM07_Bai4_v1.0015105226
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2