intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 1: Giới thiệu môn học

Chia sẻ: Vi Đinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

133
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 1: Giới thiệu môn học trình bày những nội dung về giới thiệu tổng quát về độ phì và phân bón. Mời các bạn tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Phân bón và độ phì - Chương 1: Giới thiệu môn học

  1. CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU MÔN HỌC Bài 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ ĐỘ PHÌ VÀ PHÂN BÓN Trong canh tác nông nghiệp hiện đại, bón phân là biện pháp kỹ  thuật  ảnh hưởng quyết   định đến năng suất, phẩm chất sản phẩm nông nghiệp, hiệu quả  và thu nhập của người nông   dân. Phân bón cũng chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng chi phí sản xuất nông nghiệp, vì vậy, để đạt   được năng suất cây trồng cao, phẩm chất tốt, có hiệu quả  kinh tế  và không làm ô nhiễm môi  trường thì cần phải hiểu và sử dụng phân bón hợp lý. I Những thành tựu trong nghiên cứu về phân bón 1 Những di tích cổ của nền sản xuất nông nghiệp Các tài liệu của khảo cổ học cho thấy có một vùng trên thế giới có một nền văn minh cổ  nhất là Mesopotamia, nằm giữa sông Tigris và Euphratws, Iraq ngày nay. Có những bút tích cho  thấy vào khoảng năm 2500 trước Công nguyên vùng đất này có độ phì nhiêu rất cao. Herodotus, một nhà lịch sử  Hylạp, đã trình bày vấn đề  này sau khi khảo sát xuyên qua  vùng Mesopotonia 2000 năm sau đó. Khả  năng sản xuất cao của vùng đất này có thể  là do hệ  thống tưới tốt và độ phì nhiêu của đất cao, ngoài ra cũng còn có thể do 1 phần đóng góp của phù   sa theo nước lụt hàng năm bởi các con sông này. Theophrastus (300 năm trước Công nguyên) lại cho rằng điều này do độ  phì nhiêu cao  của phù sa sông Tigris, và ông cho rằng chính phù sa này chứa hàm lượng đất thịt cao và được   bồi đắp trong 1 thời gian dài. Theophrastus (327 – 287 BC) đã khuyến cáo nên bón phân chuồng cho các loại đất có  tầng canh tác mỏng nhưng các loại đất dày bón ít hơn. 1.1 Lịch sử nghiên cứu độ phì nhiêu đất đai trước thế kỷ 19 A.D Thế kỷ 16 Sau công trình của Crescenzi, có rất ít nghiên cứu về nông nghiệp trong nhiều năm liền, mặc dù  vào năm 1563 Palissy đã nổi danh nhờ  phát hiện hàm lượng tro trong cây trồng là những chất   được cây hút từ đất. Francis Bacon  (1561 – 1624)    cho rằng chất dinh dưỡng chính của cây là nước, nếu   trồng liên tiếp cùng một loại cây thì đất sẽ bị kiệt quệ chất dinh dưỡng này. Jan Baptiste van Helmont ( 1577 – 1644), đã trình bày những kết quả thí nghiệm chứng  minh rằng nước là chất dinh dưỡng duy nhất của thực vật. Ông ta cho 200g đất vào một bình   chứa, và trồng lên đó 1 cành liễu nặng 2,3 kg. Ông che chắn cẩn thận không cho đất bị  nhiễm  bụi bẩn, bình chỉ được cung cấp bằng nước mưa hoặc nước cất. sau 5 năm,  Van Helmont kết  thúc thí nghiệm. Cây liễu cân nặng  77 kg. Ông tính toán rằng chỉ có khoảng 0,6g đất được cây   sử dụng. Do ông chỉ cung cấp nước cho cây nên ông kết luận rằng nước là chất dinh dưỡng duy  nhất cho cây trồng, còn 0,6 g đất mất trong thí nghiệm ông ta cho đó là sai số thí nghiệm. Mặc   dù kết luận của Van Helmont không đúng nhưng tư  tưởng này vẫn còn tồn tại và nghiên cứu   sau này để tìm hiểu sự dinh dưỡng của cây trồng. Thế kỷ 17 J. R. Glauber (1604 – 1668), một nhà hóa học người Đức cho rằng không phải nước, mà   chính là KNO3 là chất dinh dưỡng của thực vật. 
  2. Những tiến bộ trong nghiên cứu nông nghiệp thế kỷ 19 Theodore de Saussure  nghiên cứu trên 2 vấn đề :  Ảnh hưởng của không khí đến thực vật .      Nguồn gốc của muối trong cây. Kết quả là Saussure khám phá ra rằng thực vật hấp thu O 2 và giải phóng CO2, tiến trình  chính của sự hô hấp. Ngoài ra, Ông cũng khám phá ra thực vật lại hấp thu CO 2 và giải phóng O2  khi có sự hiện diện của ánh sáng; nhưng thực vật lại bị chết khi bị giữ trong môi trường không   có CO2. Đây là quá trình quang hợp của thực vật. De Saussure kết luận rằng đất chỉ  đóng góp 1 phần nhỏ  trong sự  dinh dưỡng của thực   vật, nhưng ông cũng cho rằng đất cung cấp 2 thành phần chính cho thực vật là tro ( Ca, Mg, K và   những chất khoáng khác ) và Đạm ( N ). Ông ta loại bỏ ý nghĩ rằng thực vật sinh ra Potash, và rễ  thực vật không có tính chất của 1 màng lọc. Rễ thực vật có khả năng hấp thu nước nhanh so với  chất dinh dưỡng. Ông ta cũng trình bày sự  khác nhau trong sự  hấp thu giữa các muối, và các   thành phần muối trong cây tùy thuộc vào đất, tuổi cây và các bộ phận của cây. Jean Baptiste Boussingault (1802 ­ 1882 ), người được coi là cha đẻ  của phương pháp  thí nghiệm đồng ruộng. Boussingault  đã áp dụng kỹ  thuật cân trọng lượng và phân tích, phân  hữu cơ  được bón từng lô thí nghiệm trên đồng ruộng, đồng thời xác định trọng lượng và phân  tích cây trồng khi thu hoạch.   Justus vo Liebig (1803 ­ 1873), nhà hóa học Đức, người đã vén được bức màn bí mật của   mùn trong đất đối với sinh trưởng của thực vật. Liebig cho rằng: 1. Phần lớn C có trong cây bắt nguồn từ CO2 trong không khí. 2. H và O2 có nguồn gốc từ nước. 3. Các kim loại kiềm cần thiết cho sự trung hòa các acids hình thành trong cây và là kết   quả của các hoạt động trao đổi chất. 4. Phosphorus (P ) cần cho sự hình thành hạt. 5. Cây hấp thu tất cả các chất từ đất, nhưng chỉ thải ra từ rễ các chất không cần thiết. Theo ý tưởng của Liebig, rất nhiều thí nghiệm đồng ruộng được thiết lập trong thời gian  đó, nổi tiếng nhất là trạm thí nghiệm Rothamsted (Anh ) của J.B.Laws và J. H. Gilbert (1843).   Sau 12 năm nghiên cứu trên trạm khí tượng này, họ đưa ra một số kết luận như sau : 1 . Cây trồng có nhu cầu cả  2 chất là P và K, nhưng phân tích thành phần tro thực vật   không xác định nhu cầu của cây. 2 . Các cây không thuộc họ đậu cần cung cấp N. Không có N, cây sẽ không sinh trưởng,   bất kể hàm lượng P và K. Hàm lượng NH 3 cung cấp từ không khí không thể thỏa mãn nhu cầu N   của cây. 3 . Độ phì nhiêu đất đai có thể duy trì trong nhiều năm bằng cách bón phân hóa học. 4 . Bỏ  hóa đất là phương pháp tốt nhất để  nâng cao hàm lượng dinh dượng hữu dụng   trong đất. 1.2 Thành tựu nghiên cứu nông nghiệp hiện nay  Bảng 1.1 Hệ thống nông nghiệp qua các thời kỳ Các   hệ   thống   nông  Thời kỳ Năng suất ngũ  Dân số  thế  giới  Diện   tích  nghiệp  cốc (tấn/ha) (triệu) /Đầu   người  (ha) Thời kỳ săn bắt và hái  Đồ đá củ 7 lượm Nông nghiệp du canh Đồ  đá mới (10.000  1 35 40 năm trước) 2
  3. Luân   canh   thời   trung  500   –   1450   năm  1 900 1,5 cổ trước  Chăn nuôi  Cuối thế kỷ 17 2 1.800 0,7 Phân   hóa   học/   thuốc  Đầu thế kỷ 20 4 4.200 0,3 bảo vệ thực vật  Nông nghiệp hiện đại Cuối thế 20  6 – 8 7.000 0,15 Nông   nghiệp   bền   ? ? ? ? vững  Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, dân số tăng gấp hai lần và năng suất ngũ cốc cũng tăng hai  lần, Từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, dân số  tăng 3,5 lần và trong thời gian sắp tới dân số  thế  giới  không ngừng gia tăng, nhất là  ở  những khu vực kém phát triển, trong khi đó chúng ta phải đối   mặt với nhiều vấn đề  giới hạn năng suất cây trồng như  sâu bệnh, trình độ  canh tác,  hệ  thống   chính trị,  ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu làm cho năng suất cây trồng hay sản lượng lương   thực khó có thể tăng được trong thời gian tới. Bảng 1.2 Tỷ  lệ dân số bị thiếu lương thực  ở các nước kém phát triển và đang phát triển (triệu   người) Khu vực 1980 2000 2020 2040 2060 Số  % Số  % Số  % Số  % Số  % lượng lượng lượng lượng lượn g Châu Phi 120 26 185 22 292 21 367 19 415 18 Châu   Mỹ  36 10 40 8 39 6 33 4 24 3 Latinh Đông  321 25 330 17 330 13 232 8 130 4 Nam Á và  Nam Á Tây Á 27 18 41 16 55 14 64 12 72 11 Tổng  504 23 596 17 716 14 696 11 641 9 cộng Số  người bị  thiếu lương thực không ngừng gia tăng trong những năm vừa qua, mặc dù  cuộc cách mạng xanh đã góp phần rất lớn trong việc giảm đói cho các nước nghèo. Nhưng   chúng ta đang đứng trước thực trạng  số người bị đói sẽ không giảm trong những năm tới nhất là   ở các nước nghèo ở Châu Phi, Đông Nam Á, Tây Á của châu Á.  Bảng 1.4 Sản lượng lương thực thực phẩm toàn cầu trong thời gian sắp tới (triệu tấn) Sản phẩm 1980 2000 2020 2040 2060 Lúa mì 441 603 742 861 958 Lúa gạo  249 368 480 586 659 Hạt thô  741 1.022 1.289 1.506 1.669 Sản phẩm từ  82 108 138 164 184 vật nuôi Bơ, sữa 470 613 750 877 994 Thịt (protein) 36 52 64 76 85 Tổng cộng 2019 2.766 3.463 4.070 4.552 Như đã trình bày ở phần trên  trong thế kỷ tới chúng ta phải đối mặt với vấn đề an ninh   lương thực, sản lượng lương thực thực phẩm sẽ không có bước nhảy vọt như trong thế kỷ qua,   3
  4. theo dự báo trong tương lai để sản xuất ra một đơn vị lương thực, chúng ta phải tốn nhiều năng   lượng hơn, đầu tư nhiều vốn hơn và dễ gặp rủi ro hơn. 4
  5. Bảng 1.5 Sản lượng phân bón trên thế giới Các năm Sản lượng N + P2O5 + K2O và phân khác (triệu tấn) Các nước đang  Các nước phát  Toàn thế giới phát triển triến 1905 – 1906 ­ ­ 1,90 1919 – 1920 ­ ­ 3,50 1949 – 1950 ­ ­ 13,60 1960 – 1961 3,88 26,15 30,03 1970 – 1971 13,57 55,57 69,15 1975 – 1976 21,15 69,94 91,10 1980 – 1981 39,03 78,17 117,20 1985 – 1986 47,11 82,36 129,47 1990 – 1991 65,40 72,83 138,24 1995 ­ 1996 76,63 52,93 129,56 1998 – 1999 85,26 52,96 138,22 2000 – 2002 87,56 55,60 143,16 2003 ­ 2005 90,97 59,13 150,10 Sản lượng phân bón của thế giới luôn tăng để  đáp ứng nhu cầu sử dụng phân bón trong  những thập kỷ qua. Để đáp ứng nhu cầu lương thực cho cả hành tinh, các nước đang phát triển  sản xuất và sử dụng rất nhiều phân bón vào nền nông nghiệp của mình. Do hiệu quả sử  dụng  phân bón thấp nên kéo theo đó là hàng loạt vấn đề liên quan đến môi trường và xã hội cần giải   quyết trong tương lai như ô nhiễm môi trường, phú dưỡng hóa, dịch hại trong nông nghiệp, tình   trạng thoái hóa đất, và kéo theo là nạn đói. 1.3 Tình hình sử dụng phân bón hóa học ở Việt Nam  Trước 1970 việc sử dụng phân hóa học ở Việt Nam chưa cao. Tổng lượng NPK sử dụng   khoảng 30 kg/ hecta, đồng thời hiệu quả  sử  dụng phân bón cũng chưa cao. Thập niên 1970 –  1980 lượng phân bón sử  dụng tăng đáng kể, nhưng lượng phân bón trên một đơn vị  diện tích  không tăng do thời kỳ chúng ta mở rộng diện tích canh tác quá lớn. Thập niên 1980 đến nay lượng phân bón sử dụng ở Việt Nam gia tăng rất mạnh, nhất là   phân đạm. Hiệu quả  sử dụng phân bón cũng tăng, nhưng sử  dụng các loại phân N, P, K không  cân đối. Bảng 1.6 Nhu cầu các loại phân bón ở Việt Nam đến 2020 Năm Các loại phân Số lượng 2005 20010 2020 Ure ­ Nhu cầu 2000 2100 2200 ­ Nhập khẩu 1100 0 0 Kali ­ Nhu cầu 300 400 500 ­ Nhập khẩu 300 400 500 DAP ­ Nhu cầu 400 500 600 ­ Nhập khẩu 400 100 200 Lân   +   lân   nung  ­ Nhu cầu 1400 1600 2000 chảy ­ Nhập khẩu 0 0 0 NPK ­ Nhu cầu 2000 2500 3000 ­ Nhập khẩu 0 0 0 Phân   vi   sinh,   phân  ­ Nhu cầu 1000 1300 1500 hữu   cơ,   phân   bón  ­ Nhập khẩu 20 30 50 lá Trong thời gian sắp tới, với sự  hình thành các nhà máy sản xuất phân bón, lượng phân  bón nhập khẩu để phục vụ cho nông nghiệp giảm dần, nhưng nhu cầu phân bón vô cơ (hóa học)   5
  6. vẫn tăng. Hiện tại, chúng ta đang xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng bền vững nên việc   sử dụng quá nhiều phân bón hóa học là một vấn đề cần phải giải quyết trong tương lai. II Các khái niệm cơ bản 1 Độ phì nhiêu đất đai Độ  phì nhiêu của đất hay còn gọi là khả  năng sản xuất của đất là tổng hợp các   điều kiện, các yếu tố  để  đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt . Độ  phì  nhiêu của đất là khả  năng cung cấp đủ  nước, oxi và chất dinh dưỡng cần thiết cho cây   trồng bảo đảm năng suất cao, đồng thời không chứa các chất có hại cho cây. Độ  phì  nhiêu của đất là một trong những yếu tố quyết định năng suất cây trồng.   2 Phân bón Phân bón là các chất vô cơ hay hữu cơ tự nhiên hay tổng hợp được bón vào trong đất để  cung cấp các nguyên tố  dinh dưỡng cần thiết cho sự  sinh trưởng và phát triển của cây trồng  đồng thời duy trì độ  phì nhiêu của đất. Phân được dùng để tăng tốc độ  sinh trưởng, năng suất ,  chất lượng hay giá trị dinh dưỡng của cây trồng. Gián tiếp hay trực tiếp duy trì và làm tăng hàm   lượng chất hữu cơ trong đất. Nhiều thập niên vừa qua ý nghĩa của từ phân bón được hiểu là các   loại phân hóa học (phân vô cơ). Tuy nhiên trong những năm gần đây người ta chú ý đến các loại   phân bón hữu cơ và vi sinh, chúng cũng là các loại phân bón chứa các chất dinh dưỡng cần thiết   cho cây trồng. 3.1 Phân loại 3.1.1 Về mặt hóa học Phân bón được chia làm các nhóm: phân vô cơ, phân hữu cơ, phân vi sinh. Phân vô cơ: phân vô cơ là phân bón mà thành phần cấu tạo phân tử không có nguyên tố  carbon, trong nhóm này gồm có: Phân hóa học: là phân bón sản xuất theo công nghệ thường có phản ứng hóa học   xảy ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các sản phẩm  có thể  được sản xuất từ công nghệ  tinh tuyển (làm giàu) vật lý những khoáng vật có sẵn trong tự nhiên cũng coi là phân hóa học. Phân khoáng: là phân có nguồn gốc khoáng vật, được khai thác từ lòng đất và qua  quá trình làm giàu hoặc chế biến. Phân hữu cơ: là phân gia súc, gia cầm, than bùn, phân xanh, phân rác, phân  ủ  dư  thừa   thực vật, bùn ao, bùn cống, chúng có thể cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng và cải thiện lý  tính của đất. Phân hữu cơ thường được bón vào đất với số lượng lớn để thỏa mãn nhu cầu dinh   dưỡng của cây trồng. Sử  dụng phân hữu cơ là một phần quan trọng trong các chu kỳ  biến đổi   các chất dinh dưỡng trong tự  nhiên. Ngoài phần chính là chất hữu cơ, mùn phân hữu cơ  chứa   hầu hết các nguyên tố khoáng nhưng với nồng độ rất thấp so với các loại phân vô cơ. Phân chelate: là hợp chất giữa chất hữu cơ (acid hữu cơ) và các nguyên tố kim loại Phân sinh học: là loại phân có chứa các nhóm vi sinh vật khác nhau, được đưa vào bằng   nhiều phương pháp, nhằm nâng cao khả năng hữu dụng của các chất dinh dưỡng cho cây trồng   từ  các nguồn dinh dưỡng mà tự  bản thân cây trồng không thể  hấp thu được. Như  Rhizobium  (cho cây họ đậu), tảo lục lam, Azospirillium, Azotobacter, Frankia (các cây không thuộc họ đậu)  là những loại có khả năng cố định đạm. Các loại phân lân sinh học được sản xuất bởi các loại vi   khuẩn và nấm có khả  năng hòa tan lân không hữu dụng, biến đổi chúng thành các dạng hữu   dụng.   Các   dòng   vi   khuẩn   hữu   hiệu   trong   việc   chuyển   hóa   lân   gồm  Pseudomonas   striata,   Pseudomonas   rattonics,  và   một   số   loại   vi   khuẩn   Bacillus   khác.   Trong   số   các   loại   nấm   6
  7. Aspergillus  và Penecillium  có thể  hòa tan P trong đất và phân bón hữu hiệu. Nấm vùng rễ  (mycorrhizae) là một nhóm phân sinh học khác có thể kích thích cây trồng gia tăng khả năng hấp   thụ P trong đất và trong phân bón. Phân bón lá  Phân chuyên dùng để hòa với nước phun lên thân, lá cây trồng nhằm bổ sung chất dinh   dưỡng cho cây, có thể là các nguyên tố đa, trung, vi lượng hay các chất kích thích sinh trưởng. 3.1.2 Về mặt nông học Phân bón được chia làm hai nhóm: nhóm có tác dụng trực tiếp cung cấp chất dinh dưỡng   cho cây trồng và nhóm có tác dụng gián tiếp thông qua việc cải thiện tính chất đất. Phân bón có   tác dụng trực tiếp hầu hết là các loại phân vô cơ, chelate. Phân bón có tác dụng gián tiếp như  vôi, thạch cao, bột lư huỳnh, hầu hết các loại phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh.  Tuy nhiên sự phân loại này cũng có tính chất tương đối, vì phân bón có tác dụng trực tiếp  cũng gián tiếp ảnh hưởng đến tính chất đất. Ngược lại phân bón có tác dụng gián tiếp cũng cung  cấp một phần chất dinh dưỡng cho cây trồng như vôi, thạch cao, phân hữu cơ… 3.1.3 Theo phương pháp sản xuất Phân bón được chia làm hai dạng phân bón sản xuất tại chỗ và phân bón sản xuất công   nghiệp. Phân sản xuất tại chỗ, còn được gọi là phân địa phương, được sản xuất theo quy trình  đơn giản và nguyên liệu sử dụng có sẵn tại địa phương. Phân công nghiệp phần lớn là các loại phân vô cơ, phân vi sinh và chelate. Ngoài ra còn  một số loại phân hữu cơ khác được sản xuất theo quy trình công nghiệp như phân rác. 3.1.4 Về phương pháp sử dụng Phân bón được chia thành phân bón vào đất và phân bón qua lá; phân bón vào đất thường  là các loại phân bón đa lượng, trung luợng vi lượng, phân hữu cơ, một số  loại phân vi sinh,  chelate. Đặc điểm chung của loại phân này thường được sử dụng với liều lượng rất cao. Phân bón qua lá thường gồm các loại phân vi lượng, phân bón có chứa các kích thích tố  sinh trưởng , một số  phân vi sinh, chelate, và phân hữu cơ  khác. Các loại phân này thường sử  dụng với liều luợng rất thấp. 3.1.5 Về thành phần Phân bón được chia thành phân đơn giản và phân phức hợp Phân đơn giản, trong phân bón chỉ  chứa một nguyên tố  dinh dưỡng chính. Ví dụ, phân   urea, super lân, KCl…. Phân phức hợp trong phân có chứa nhiều chất dinh dưỡng, như  NPK, DAP. Phân phức   hợp có thể được sản xuất bằng cách pha trộn các loại phân đơn giản hay hình thành từ các phản   ứng hóa học của các chất dinh dưỡng.  Trên quan điểm cây trồng và cải tạo đất, có thể  nói hầu hết các loại phân bón đều chứa  nhiều chất dinh dưỡng. Ví dụ, phân amonium sulfate vừa chứa NH4+ vừa chứa SO42­, KNO3 chứa  K+ và NO3­, lân chứa H2PO4­ và Ca2+…, xu hướng hiện nay sản luợng phân chứa nhiều yếu tố  dinh dưỡng tăng rất mạnh, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng phân bón. Phân đơn  Phân chỉ cung cấp một ngyên tố dinh dưỡng cho cây trồng. Phân hỗn hợp Phân cung cấp nhiều nguyên tố dinh dưỡng cho cây trồng, trên nguyên tắc phối trộn các   phân đơn lại với nhau (về mặt cơ học) 7
  8. Phân phức hợp Một loại phân cung cấp nhiều nguyên tố  dinh dưỡng cho cây trồng, trên cơ  sở các phản   ứng hóa sinh. 3.2 Các chất dinh dưỡng trong phân bón Các dinh dưỡng chủ yếu mà cây trồng hấp thu từ đất là đạm (N), lân (P),kali (K), calcium   (Ca), magnesium (Mg), sulfua (S), sắt (Fe), manganese (Mn), kẽm (Zn), đồng (Cu), trong đó N, P,  K là ba nguyên tố chính thường được gọi là các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng và là các nguyên   tố cây trồng có nhu cầu cao nhất nên thường bị thiếu nhất so với các nguyên tố  khác. Phân bón   có chứa N, P, K gọi là phân đa lượng.  Tương tự, phân bón có chứa các nguyên tố  trung và vi   lượng gọi là phân trung và vi lượng. Trong đất, các nguyên tố  đa lượng thường được cây trồng   lấy đi với hàm lượng tương đối lớn nên tốc độ  kiệt quệ  trong đất rất nhanh Ngoài ra, các chất   này còn bị mất do các quá trình tự nhiên như rửa trôi, bay hơi hay xói mòn. Ngày nay phần lớn các loại đất ở Việt Nam chúng ta đều có nhu cầu phân bón ít nhất là   một trong các nguyên tố N, P, K. Khi cung cấp cho đất các nguyên tố này thông qua phân bón thì   chúng được gọi là dinh dưỡng trong phân bón.  3.2.1 Công thức phối trộn Tỉ lệ phần trăm các chất dinh dưỡng  trong hỗn hợp phối trộn 3.2.2 Công thức phân bón Lượng phân (nguyên chất) để bón cho một đơn vị diện tích ( thường là 1 hecta) 3.3 Bón phân hợp lý và cân đối ( 5 đúng + 1 cần) ­ Đúng  loại phân: bón theo nhu cầu của cây trồng, phù hợp với từng loại đất ­ Đúng thời điểm: phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây ­ Đúng thời cơ: phân bón phải thúc đẩy được sự phát triển của các tác nhân có lợi cho cây  trồng  ­ Đúng vụ và đúng thời tiết ­ Đúng phương pháp ­ Bón phân cân đối 3.4 Yêu cầu khi sử dụng phân bón đồng bộ và hợp lý ­ Chủ  động bón phân hợp lý nhưng có sự kết hợp với các yếu tố  khác như  giống nước,   kỹ  thuật canh tác, để  tăng năng suất cây trồng mà không áp đặt theo ý kiến chủ  quan của con   người ­ Bón phân phải phù hợp với sự phát triển tự nhiên của cây trồng ­ Phải theo dõi các biểu hiện của cây trồng trong quá trình sinh trưởng và phát triển. 4 Nghiên cứu độ phì nhiêu đất đai và sử dụng phân bón trong tương lai. Sự tiến bộ trong nông nghiệp phụ thuộc vào sự tiến bộ trong nghiên cứu khoa học. Mỗi  vấn đề được giải quyết hôm nay sẽ có nhiều vấn đề phát sinh ra từ đó. Các nhà khoa học nông  nghiệp phải trả lời được câu hỏi cơ bản là tại sao? Hơn là trả lời câu hỏi cái gì? 8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2