intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Quản trị ngân hàng: Phần 1 - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh

Chia sẻ: Dương Hàn Thiên Băng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:40

23
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 của bài giảng "Quản trị ngân hàng" cung cấp cho học viên những nội dung về: tổng quan quản trị ngân hàng; quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng của Việt Nam; khái niệm ngân hàng thương mại; các nguyên tắc quản trị ngân hàng; quản trị chiến lược kinh doanh ngân hàng;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Quản trị ngân hàng: Phần 1 - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh

  1. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH BỘ MÔN TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG - KHOA KINH TẾ BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG (LƯU HÀNH NỘI BỘ) Quảng Ninh, 2020
  2. Quản trị Ngân hàng Chƣơng 1. Tổng quan về quản trị ngân hàng 1.1. Tổng quan về ngân hàng 1.1.1. Hệ thống ngân hàng của Việt Nam Hệ thống ngân hàng của Việt Nam bao gồm Ngân hàng nhà nƣớc trực thuộc Chính phủ. Khác với các nƣớc phát triển khác thì ngân hàng trung ƣơng là độc lập so với chính phủ nhƣ Cục dữ trữ liên bang Mỹ FED, Ngân hàng trung ƣơng Châu âu ECB. Vì ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam thuộc chính phủ Việt Nam nên những quyết sách của nó cũng bị phụ thuộc rất nhiều vào ý đồ của chính phủ. Dƣới ngân hàng nhà nƣớc là các ngân hàng bao gồm: - Ngân hàng quốc doanh (ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn – Agribannk - Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP) - Ngân hàng thƣơng mại (Eximbank, Sacombannk..), - Ngân hàng liên doanh (Indovina - IVN, ngân hàng Việt Thái - VSB, Ngân hàng Việt Nga – VRB) - Ngân hàng nƣớc ngoài(100% vốn nƣớc ngoài: SHBC, BIDC…). Các chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nƣớc sẽ phải thông qua hệ thống các ngân hàng phía dƣới này vì ngân hàng nhà nƣớc không thể làm việc trực tiếp với ngƣời gửi tiền hay ngƣời vay tiền. * Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng của Việt Nam Xét căn cứ đặc thù lịch sử, quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể chia ra thành bốn giai đoạn gồm thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ miền Bắc Việt Nam 1954-1975, thời kỳ miền Nam Việt Nam 1954-1975 và thời kỳ từ sau thống nhất đất nƣớc 1975 đến nay. - Hệ thống ngân hàng Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc Trƣớc khi ngƣời Pháp đặt chân đến Việt Nam năm 1858, Việt Nam chƣa có tổ chức ngân hàng và tín dụng. Vào cuối thế kỷ thứ 19, khi nền đô hộ đã đƣợc thiết lập trên toàn cõi Đông Dƣơng, Việt Nam trở thành một thị trƣờng độc chiếm của Pháp. Nhiều hoạt động kinh tế của ngƣời Pháp ở Đông Dƣơng bành trƣớng mạnh nên chính phủ buộc phải thành lập các ngân hàng để hỗ trợ các hoạt động đó. Lúc đầu có 2 ngân hàng có trụ sở tại Pháp và các chi nhánh trên toàn Đông Dƣơng là Ngân hàng Đông Dƣơng (Banque de l’Indochine) thành lập từ 1873 và Pháp-Hoa Ngân hàng (Banque Franco-Chinoise) đƣợc thành lập với mục đích hỗ trợ các giao dịch thƣơng mại giữa Pháp, Đông Dƣơng và Trung Hoa cũng nhƣ với một vài nƣớc khác ở Á Đông nhƣ Nhật, Thái Lan. Hai ngân hàng này ngoài độc quyền phát hành tiền tệ nhƣ một Ngân hàng Trung ƣơng, nó còn là một ngân hàng kinh doanh thƣơng mại, cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế của ngƣời Pháp ở Đông Dƣơng. Phải tới năm 1927, một số tƣ bản ngƣời Việt Nam mới thành lập ngân hàng đầu tiên của Việt Nam lấy tên là An Nam ngân hàng (sau đổi tên là Việt Nam ngân hàng) nhằm hỗ trợ vốn cho các hoạt động nông nghiệp. Cho đến năm 1954, ngƣời Việt có ngân hàng thứ hai là Việt Nam công thƣơng ngân hàng. - Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Bắc giai đoạn 1954 đến 1975 1
  3. Quản trị Ngân hàng Ngày 06/05/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam với nhiệm vụ chính nhƣ phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ, và thực hiện chính sách tín dụng nhằm phát triển hoạt động sản xuất. Ngày 21/01/1960, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam đƣợc đổi tên thành Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam. Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam ở Miền Bắc có thể đƣợc chia làm hai thời kỳ từ 1951 đến 1954 và thời kỳ từ 1955 đến 1975. Trong thời kỳ đầu, ngân hàng quốc gia Việt Nam hoạt động độc lập trong hệ thống tài chính với chức năng nhƣ phát hành tiền tệ, thu hồi tiền tài chính, quản lý Kho bạc Nhà nƣớc nhằm tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách và phát triển tín dụng ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất, lƣu thông hàng hoá. Đến thời kỳ tiếp theo 1955 đến 1975, Ngân hàng Quốc gia với nhiệm vụ củng cố thị trƣờng tiền tệ, ổn định tiền tệ nhằm góp phần bình ổn vật giá, tạo thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. - Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Nam giai đoạn 1954 đến 1975 Sau Hiệp định Geneve, chính phủ Pháp ký một loạt hiệp định với Nam Việt Nam, Campuchia và Lào, chính thức phá bỏ tình trạng hợp nhất tiền tệ và quan thuế giữa ba nƣớc Đông Dƣơng, khẳng định nguyên tắc mỗi quốc gia đƣợc quyền tự do phát hành và kiểm soát tiền tệ. Từ đó, cùng với chủ quyền về chính trị, ngƣời Việt Nam bắt đầu đƣợc làm chủ về hoạt động ngân hàng và phát triển trên qui mô nhà nƣớc. Sự phát triển của ngành ngân hàng miền Nam Việt Nam giai đoạn này có thể đƣợc chia thành 2 thời kỳ từ 1954 đến 1964 và từ 1965 đến 1975. Thời kỳ 1954 đến 1964, ngƣời dân vẫn tiếp tục sử dụng các ngân hàng của ngƣời Pháp, Anh, Hong Kong, Đài Loan có chi nhánh tại Việt Nam. Thời kỳ từ 1965 đến 1975 là giai đoạn chuyển biến của hoạt động ngân hàng Việt Nam, tạo tiền đề và điều kiện cho một thời kỳ phát triển rầm rộ từ năm 1965 đến năm 1972. Trong 7 năm đầu của thời kỳ này, 18 ngân hàng mới đƣợc thành lập, nâng tổng số lên đến 31 ngân hàng với 178 chi nhánh ở các tỉnh vào năm 1972. Đến thời kỳ trƣớc 04/1975, hệ thống ngân hàng ở Miền Nam gồm 1 ngân hàng trung ƣơng, 32 ngân hàng thƣơng mại với 180 chi nhánh, 2 ngân hàng phát triển và 60 ngân hàng nông thôn. - Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay có thể chia thành có thể chia thành 3 thời kỳ từ 1975 đến 1985, 1986 đến 1990, và 1991 đến nay. Thời kỳ 1975-1985, sau 1975, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền Nam đƣợc quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nƣớc. Thời kỳ 1986 -1990 là giai đoạn manh nha của các cải cách bƣớc đầu, làm tiền đề cho việc hình thành và phát triển một hệ thống Ngân hàng Việt Nam một cách căn bản và toàn diện hơn. Với những yêu cầu về đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế Hệ thống tài chính Việt Nam hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp. Trong đó, cấp 1 là Ngân hàng Nhà nƣớc thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nƣớc về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng. Và cấp 2 là các ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lƣu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng 2
  4. Quản trị Ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện nhƣ ngân hàng cổ phần, liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nƣớc ngoài, Hợp tác xã tín dụng, Quỹ tín dụng nhân dân và công ty tài chính. Thời kỳ 1991 đến nay là giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam có rất nhiều chuyển biến dần theo hƣớng một hệ thống ngân hàng hai cấp hiện đại. Luật NHNN 2010 đã có một số thay đổi quan trọng so với Luật NHNN 1997, làm rõ hơn địa vị pháp lý của NHNN, đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của NHNN với tƣ cách là ngân hàng trung ƣơng, thực hiện các chức năng về quản lý nhà nƣớc trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một ngân hàng trung ƣơng là thực thi chính sách tiền tệ và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng 1.1.2. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thƣơng mại Vào thế kỷ III, các thợ kim hoàn bắt đầu nhận các khoản tiền gửi, tài sản quý của khách hàng và thu một khoản phí nhất định. Sang thế kỷ X, các thợ kim hoàn nhận thấy không chỉ có thể hƣởng các khoản phí mà họ có thể hƣởng lợi ích từ việc sử dụng tiền của ngƣời này cho ngƣời khác vay. Lúc này hoạt động của một ngân hàng thực thu ra đời bao gồm trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thƣơng phiếu, nhận tiền gửi, cho vay thƣơng mại… Sang thế kỷ XVIII hình thành nghiệp vụ phát hành tiền, phát hành CDS. Để kiểm soát hoạt động này, chính phủ đƣa ra các điều luật về phân định các ngân hàng phát hành với các ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Thế kỷ XIX, có một loạt các dịch vụ khác đƣợc phát triển thêm. Lúc này đã có thêm nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, bán bảo hiểm, tƣ vấn tài chính, cung cấp dịch vụ môi giới, dịch vụ quản lý tiền mặt… Cuối thế kỷ XIX, các quốc gia không thể để các ngân hàng thực hiện việc phát hành tiền mà tập trung vào một ngân hàng thống nhất gọi là ngân hàng trung ƣơng. Ngân hàng có thể chia làm 2 loại là ngân hàng đầu tƣ và ngân hàng kinh doanh thông thƣờng. Những năm 20-30 của thế kỷ XX, các quốc gia đƣa ra các đạo luật phân định hoạt động của ngân hàng đầu tƣ với ngân hàng thƣơng mại. Theo đó, các ngân hàng kinh doanh tiền tệ chỉ thực hiện các nghiệp vụ cơ bản, chỉ có các ngân hàng đầu tƣ mới đƣợc thực hiện các hoạt động đầu tƣ, môi giới chứng khoán. Những năm 70, các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại mới xuất hiện nhƣ thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, mạng lƣới thanh toán tại điểm bán hàng, internet Banking, Hom Banking. Những năm 90, một loạt các nghiệp vụ mới ra đời dựa trên sự phát tiển của khoa học kỹ thuật nhƣ ngân hàng ảo, công ty sở hữu ngân hàng (các ngân hàng phát triển dƣới hình thức công ty sở hữu ngân hàng ngân hàng đơn thuần). 1.Giai đoạn 1945-1951: Trong suốt thời kỳ phong kiến cho đến nửa đầu thế kỷ 19, Việt Nam hầu nhƣ không tồn tại định chế ngân hàng. Tuy nhiên những hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng nhƣ in đúc, cho vay đã xuất hiện trong đời sống kinh tế xã hội. 3
  5. Quản trị Ngân hàng Năm 1858, thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, bắt đầu cho giai đoạn thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam. Với mục đích đô hộ lâu dài và nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động giao thƣơng phục vụ cho chính quyền thuộc địa, tổng thống Pháp giai lúc bấy giờ đã ban hành Sắc lệnh ngày 21/01/1857 thành lập ngân hàng Đông Dƣơng. Ngân hàng này có chức năng chủ yếu là phát hành tiền, tiến hành cho vay, chiết khấu. Về bản chất, ngân hàng Đông Dƣơng là ngân hàng thƣơng mại cổ phần với chức năng đổi tiền, cho vay tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng là ngân hàng đƣợc phép phát hành tiền trên toàn cõi Đông Dƣơng. Giai đoạn này, nó đƣợc xem nhƣ một công cụ cung cấp phƣơng tiện để thực dân Pháp có thể tiến hành đầu tƣ, kinh doanh, cũng nhƣ cung cấp các dịch vụ tiền tiền tệ cho chính quyền đô hộ. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, ngày 23/11/1946 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I đã quyết định giao cho Bộ Tài chính phát hành giấy bạc Việt Nam trong phạm vi cả nƣớc. Bộ Tài chính là cơ quan phát hành và quản lý tiền tệ. Ngày 3/2/1947, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 14/SL về việc thành lập Nha Tín dụng trực thuộc Bộ Tài chính. 2.Giai đoạn từ 1951 đến 1986: 2.1. Giai đoạn từ 1951-1975: Ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bộ trực thuộc Chính phủ, tham gia vào việc lập kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia, thực hiện những hoạt động liên quan đến ngân hàng, tiền tệ theo quy định; Sắc lệnh 17/SL bãi bỏ Nha Ngân khố quốc gia và Nha tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính. Ngày 21/5/1951, Chính phủ ra Sắc lệnh 19/SL cho phép Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam đƣợc phát hành giấy bạc 20 và 50 đồng; Sắc lệnh 20/SL ấn định tỷ lệ giá trị đồng bạc do Ngân hàng phát hành so với giá trị đồng bạc do Bộ Tài chính phát hành. Ngày 27/5/1951 Thủ tƣớng CP ra nghị định 94/Ttg quy định về tổ chức Ngân hàng quốc gia. Theo đó, tổ chức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam bao gồm: ở trung ƣơng, chi nhánh liên khu, chi nhánh ở tỉnh và chi nhánh ở nƣớc ngoài. Các chi nhánh không có tƣ cách pháp nhân, hoạt động với tƣ cách là cơ quan cấp dƣới đại diện của Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Chức năng của ngân hàng bao gồm: phát hành giấy bạc, điều hoà sự lƣu hành tiền tệ, quản lý ngân sách quốc gia; huy động vốn trong nhân dân, điều hòa, mở rộng tín dụng; quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nƣớc ngoài…Nhƣ vậy, ở giai đoạn này, Việt Nam xây dựng ngân hàng quốc gia theo mô hình một cấp đựoc thiết lập từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Hệ thống ngân hàng một cấp tồn tại cho đến những năm 80. Đến những năm 60, hệ thống ngân hàng Việt Nam ghi nhận thêm hình thức hợp tác xã tín dụng và Quỹ tiết kiệm. Hệ thống hợp tác xã tín dụng cho nhiệm vụ làm đại lý cho ngân hàng quốc gia Việt nam, thực hiện việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã viên hợp tác xã và cho vay. Ngày 26/10/1961 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 171/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam (tên mới của Ngân hàng Quốc gia). Trong hệ thống ngân hàng cũng đã xuất hiện nhu cầu tách bạch giữa chức năng quản lý tiền tệ với các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng. Do vậy, trên cơ sở của Nghị định này, ngân hàng nhà nƣớc Việt đã phân biệt thành hệ thống Chi nhánh ngân hàng nhà nƣớc trung tâm tại các đơn vị tỉnh thành và hệ thống chi nhánh ngân hàng nghiệp vụ tại các thị xã và Chi điếm ngân hàng nghiệp vụ tại các huyện làm nhiệm vụ kinh doanh, giao dịch trực tiếp với khách hàng. 4
  6. Quản trị Ngân hàng Ngày 30/10/1962 Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 115/CP thành lập ngân hàng ngoại thƣơng Việt Nam làm nhiệm vụ tín dụng, thanh toán đối ngoại trong hệ thống ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý ngoại hối mà không còn trực tiếp thực hiện hoạt động giao dịch ngoại tệ, chuyển giao hoạt động này cho ngân hàng ngoại thƣơng. 2.2. Giai đoạn từ 1975 đến 1987: Miền Nam Việt Nam từng tồn tại các hệ thống ngân hàng của chế độ ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau 1975, hệ thống các ngân hàng này đƣợc tiếp quản và đặt dƣới quyền quản lý của chính phủ cách mạng lâm thời. Ngày 6/6/1975 chính phủ cách mạng lâm thời ban hành nghị định 04/PCT-75 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam. Trong thời gian này, Việt Nam vẫn tồn tại hai hệ thống ngân hàng và hai loại tiền tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Ngày 16/6/1977, nghị định 163-CP của Chính phủ ban hành quy định lại cơ cấu bộ máy nhà nƣớc. Trong đó, các ngân hàng nhƣ ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng công nghiệp, ngân hàng thƣơng nghiệp, ngoại thƣơng, quỹ tiết kiệm XHCN đều nằm trong một hệ thống của ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam. Các ngân hàng này không có tƣ cách pháp nhân, chỉ đóng vai trò nhƣ cục, vụ cơ quan chức năng của ngân hàng nhà nƣớc. Ngày 24/6/1981 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 259/CP chuyển ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính sang trực thuộc ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam và thành lập ngân hàng đầu tƣ và xây dựng Việt Nam. Giai đoạn này đã đánh dấu bƣớc hoàn thiện tiếp tục của hệ thống ngân Việt Nam, cụ thể bao gồm: Ngân hàng nhà nƣớc và 3 ngân hàng chuyên nghiệp là Ngân hàng ngoại thƣơng, Ngân hàng đầu tƣ và quỹ tiết kiệm XHCN. 1981-1985, Hội đồng Bộ trƣởng ra Nghị định 65/HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của ngân hàng nhà nƣớc. Trên cơ sở đó, hệ thống ngân hàng bao gồm: Ngân hàng nhà nƣớc và các ngân hàng chuyên nghiệp trực thuộc Ngân hàng nhà nƣớc. Những ngân hàng chuyên nghiệp này có tƣ cách pháp nhân hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế. Đây đƣợc xem nhƣ tiền đề để tiến tới chuyển đổi mô hình ngân hàng một cấp ở Việt Nam sang mô hình ngân hàng hai cấp hiện đại. 2.3 Giai đoạn từ 1987-2004: Năm 1986 bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách kinh tế. Một trong những nội dung quan trọng cần phải đổi mới chính là hệ thống ngân hàng-yếu tố giữ vai trò nhƣ huyết mạch của nền kinh tế. Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trƣởng ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng nhà nƣớc. Theo đó, Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trƣởng, đƣợc tổ chức thành hệ thống thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Mô hình Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam bao gồm 2 cấp: Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc. Quy định này đã bƣớc đầu thiết lập nên căn cứ pháp lý cho hình thức hệ thống ngân hàng 2 cấp, trong đó, Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam vẫn giữ vai trò là cơ quan chủ quản của các ngân hàng chuyên doanh quốc doanh. Chức năng chủ yếu của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam đã dần chủ yếu tập trung vào việc phát hành tiền, điều hòa lƣu thông tiền tệ và đảm bảo nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về tiền tệ, tín dụng, thanh toán. Các chức năng kinh doanh trực tiếp và thực hiện các dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế chủ yếu do các ngân hàng chuyên doanh nhà nƣớc đảm nhận. Điều này đánh dấu bƣớc chuyển biến quan trọng 5
  7. Quản trị Ngân hàng trong hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở giai đoạn mới bắt đầu tiến hành công cuộc cải cách, sự tách biệt giữa Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam với hệ thống các ngân hàng chuyên doanh vẫn còn chƣa thật sự cụ thể. Các ngân hàng chuyên doanh vẫn đƣợc xem nhƣ các cục, vụ trực thuộc Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam. Do đó, yếu tố chủ động, tự chịu trách nhiệm và sự độc lập giữa hệ thống ngân hàng chuyên doanh với ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam cần đƣợc tiếp tục cải thiện. Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện mô hình ngân hàng 2 cấp, ngày 23/5/1990 Hội đồng nhà nƣớc ban hành “Pháp lệnh Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam và Pháp lệnh Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990. Đây chính là căn cứ pháp lý để chính thức xác lập mô hình ngân hàng ở Việt Nam trở thành mô hình 2 cấp, đánh dấu bƣớc ngoặt trong quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng và hoạt động tiền tệ-tín dụng ngân hàng. Theo đó, ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam chỉ đảm nhận vai trò là cơ quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Các nghiệp vụ ngân hàng sẽ do hệ thống các tổ chức tín dụng trung gian tiến hành. Các ngân hàng thƣơng mại và những tổ chức tín dụng trung gian đƣợc pháp lệnh trao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trong quá trình thực thi hai pháp lệnh đã bộc lộ một số điểm hạn chế trƣớc những yêu cầu mới của quá trình phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế chẳng hạn nhƣ hạn chế trong quy định về nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối trên thị trƣờng quốc tế, chƣa quy định bao quát các loại hình tổ chức tín dụng, chƣa xác định rõ các hình thức huy động vốn, cấp tín dụng… Do vậy, ngày 12/1997 Quốc hội ban hành Luật Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng. Đó là một bƣớc tiến đáng kể trong quá trình hoàn thiện pháp luật về ngân hàng. Hai đạo luật cũng đã có những tác động tích cực trong đời sống kinh tế xã hội nhƣ tạo ra cơ sở pháp lý cao hơn cho hoạt động của ngân hàng nhà nƣớc và hệ thống các tổ chức tín dụng; đồng thời, điều chỉnh các hoạt động ngân hàng theo hƣớng phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trƣờng có sự điều tiết của nhà nƣớc. Tiếp tục xu hƣớng đổi mới toàn diện hệ thống và hoạt động ngân hàng, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/8/2003 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Các Tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/2004. Những nội dung sửa đổi chủ yếu tập trung vào việc xác lập một số định nghĩa, các quy định về hình thức của các tổ chức tín dụng, hoạt động kiểm tra, kiểm toán trong nội bộ các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, việc sửa đổi bổ sung Luật Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng đƣợc tiến hành theo quan điểm chƣa sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện các quy định trong lĩnh vực ngân hàng và họat động ngân hàng nên trƣớc xu hƣớng hội nhập ngày càng mạnh mẽ, vấn đề xây dựng đạo luật về Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng tiếp đƣợc đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam, vào thời kỳ Bắc thuộc và từ thế kỷ XIX trở về trƣớc, là một nƣớc nông nghiệp lạc hậu nên chƣa hề có khái niệm về ngân hàng. Sự đô hộ hàng ngàn năm của phong kiến phƣơng Bắc đã làm cho nƣớc ta hầu nhƣ không có sự tiếp xúc với bên ngoài, thƣơng mại ít phát triển cả trong và ngoài nƣớc. Do đó, nghề kinh doanh tiền tệ cũng kém phát triển, mang nặng tính phân tán, chủ yếu là hoạt động đổi tiền và cho vay nặng lãi. Khoảng giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, Việt Nam trở thành thuộc địa và từ đó, các thƣơng giá ngƣời Pháp bắt đầu chiếm lĩnh thị trƣờng Việt Nam (các nhà 6
  8. Quản trị Ngân hàng máy đƣờng, nhà máy sợi, nhà máy dệt,…). Trong bối cảnh ngày càng phát triển thị trƣờng, trên lãnh thổ Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện hệ thống ngân hàng hiện đại, gồm có ngân hàng Đông Dƣơng với tƣ cách là ngân hàng phát hành và một số ngân hàng thƣơng mại của ngƣời nƣớc ngoài và của ngƣời Việt Nam nhƣ ngân hàng Pháp – Hoa, ngân hàng Hồng Kông – Thƣợng Hải, Địa ốc ngân hàng,… để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh thƣơng mại. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng bắt đầu đƣợc xây dựng từng bƣớc. Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ đây có thể chia làm hai thời kỳ. Từ năm 1951 đến năm 1987, chúng ta có hệ thống ngân hàng một cấp. Lúc này, hệ thống ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam mà tiền thân là ngân hàng quốc gia Việt Nam đƣợc thành lập vào năm 1951 – giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Pháp và trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông lạc hậu. Chức năng chủ yếu của ngân hàng quốc gia Việt Nam là: phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng và quản lý tiền tệ. Chức năng này đƣợc thực hiện thông qua một mô hình tổ chức gọn, nhẹ, phù hợp với điều kiện thời chiến gồm 3 cấp quản lý: trung ƣơng, liên khu, tỉnh và thành phố. Sau thời gian này, do sự thay đổi của nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, hệ thống ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam đã đƣợc mở rộng và hoàn thiện về cơ chế tổ chức và hoạt động nghiệp vụ. Tuy nhiên cho đến năm 1987, hoạt động của ngân hàng Việt Nam vẫn mang tính chất lƣỡng tính. Nó vừa thực hiện chức năng quản lý và điều tiết lƣu thông tiền tệ, vừa thực hiện chức năng của các ngân hàng trung gian và đƣợc tổ chức thống nhất từ trung ƣơng xuống cơ cở. Mặc dù đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc song ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam cũng đã bộc lộ những hạn chế của nó, đặc biệt trong thập kỷ 80, vừa không thể kinh doanh theo đúng nghĩa đồng thời lại không làm tròn chức năng quản lý Nhà nƣớc các hoạt động tiền tệ ngân hàng, nó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm 80 rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, vừa thiếu tiền mặt, vừa lạm phát. Vì thế, cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế quản lý hành chính và trực tiếp sang việc sử dụng các biện pháp kinh tế theo cơ chế thị trƣờng, từ năm 1988 đến nay, hệ thống ngân hàng đã đƣợc cải cách từng bƣớc. Hệ thống ngân hàng hai cấp ra đời. Bƣớc sơ khai của hệ thống ngân hàng 2 cấp đƣợc thể hiện trong Nghị định 53 ngày 26- 3-1988. Theo đó hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm: ngân hàng Nhà nƣớc và các ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nƣớc hoạt động với tƣ cách là ngân hàng độc quyền phát hành, là cơ quan quản lý Nhà nƣớc về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nƣớc. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nƣớc tháng 5-1990 thực sự đánh dấu bƣớc đổi mới căn bản trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam và khẳng định lại sự đúng đắn của việc cải cách ngân hàng trong Nghị định 53. Các ngân hàng thƣơng mại, ngân hàng chuyên doanh, công ty tài chính,… thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ – tín dụng. Đặc biệt các ngân hàng thƣơng mại phát triển mạnh và đa dạng. Chúng có vai trò là ngƣời môi giới trung gian nhằm tập trung tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay các doanh nghiệp và dân chúng. Với một hệ thống gồm các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, ngân hàng thƣơng mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh doanh thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới ngân hàng nói chung và sự tồn tại, phát triển của hệ thống ngân hàng thƣơng mại nói riêng đã thành công ở Việt Nam. Nền kinh tế 7
  9. Quản trị Ngân hàng hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc đã thực sự làm đổi mới hệ thống ngân hàng thƣơng mại phù hợp với tình hình ngày càng phát triển về kinh tế của đất nƣớc. 1.1.3. Khái niệm về ngân hàng thƣơng mại a. Các khái niệm * Ngân hàng Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những ngƣời chủ sở hữu của nó, tránh gây mất mát. Đổi lại ngƣời chủ sở hữu phải trả cho ngƣời giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại lợi ích cho những ngƣời gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền cho những ngƣời có tiền. Khi xã hội phát triển, thƣơng mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn tức là phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một lƣợng tiền, những ngƣời giữ tiền nảy ra một nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lƣợng tiền trong tay họ không phải bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, tức là có độ chênh lệch lƣợng tiền cần gửi và lƣợng tiền cần rút của ngƣời chủ sở hữu. Từ đó phát sinh nghiệp vụ đầu tiên cơ bản nhất của ngân hàng nói chung đó là huy động vốn và cho vay vốn. Vì vậy có thể nói ngân hàng là một tổ chức hoạt động kinh doanh các dịch vụ ngân hàng để kiếm lợi nhuận. Dịch vụ ngân hàng có thể bao gồm nhận tiền gửi, cho vay, đầu tƣ tài chính, các hoạt động thanh toán,phát hành các loại kỳ phiếu, hối phiếu… Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi tiền tệ đã ra đời và nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ. Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng chịu sự tác động bởi những biến đổi về kinh tế xã hội, tập quán và pháp luật của quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Cho nên, quan niệm về ngân hàng, hoạt động ngân hàng cũng rất đa dạng. Trong tài liệu nghiên cứu và văn bản pháp luật của nhiều nƣớc, khái niệm ngân hàng thƣờng đƣợc dùng để chỉ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy, các đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng của nhiều quốc gia hầu nhƣ đều có điều luật ghi nhận những hoạt động đƣợc xem là hoạt động kinh doanh ngân hàng. Ở một số nƣớc, pháp luật không đƣa ra định nghĩa tổng quát về hoạt động ngân hàng mà liệt kê các hoạt động đƣợc pháp luật thừa nhận là hoạt động ngân hàng Ngân hàng là loại hình tổ chức đã ra đời từ lâu và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phƣơng nói riêng. Tuy vậy, vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Để định nghĩa ngân hàng , ngƣời ta có thể căn cứ vào tính chất, mục đích hoạt động của các tổ chức trên thị trƣờng, hay dựa vào sự kết hợp giữa tính chất, mục đích và đối tƣợng hoạt động. Vấn đề là không chỉ chức năng của ngân hàng thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng thay đổi. Một số định nghĩa về ngân hàng nhƣ sau: - Định nghĩa của Pháp (1941): Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở kinh doanh nào hành nghề thƣờng xuyên nhận của công chúng dƣới hình thức ký thác hay hình thức khác có số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính. - Định nghĩa Ấn Độ (1959): Ngân hàng là những cơ sở nhận tiền ký thác để cho vay hay đầu tƣ và tài trợ. 8
  10. Quản trị Ngân hàng - Định nghĩa của Fed: Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (nhƣ bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thƣơng mại, cho vay cá nhân, hộ gia đình sẽ đƣợc xem là một ngân hàng. Các định nghĩa này chủ yếu dựa vào tính chất hoạt động của các tổ chức đó. - Định nghĩa của Đan Mạch: Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thƣơng mại và các giá trị địa ốc, các phƣơng tiện tín dụng, hối phiếu và thực hiện nghiệp vụ chuyển ngân. Định nghĩa này dựa vào đối tƣợng hoạt động. - Quốc Hội Mỹ đƣa ra định nghĩa ngân hàng : Ngân hàng đƣợc định nghĩa nhƣ một công ty là thành viên của công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang. Định nghĩa này không dựa trên cơ sở những hoạt động của nó mà trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm tiền gửi của nó. Nhìn chung, các định nghĩa về ngân hàng ở trên có hai đặc điểm cơ bản là nhận tiền ký thác công chúng và sử dụng tiền đó để kinh doanh (cho vay và chiết khấu). Theo Peter S.Rose: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặt biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất định so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Luật TCTD của Việt Nam: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. - Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh các dịch vụ ngân hàng để kiếm lợi nhuận. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thƣơng mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thƣờng xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau: Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. - Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dƣới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho ngƣời gửi tiền theo thỏa thuận. - Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. - Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phƣơng tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thƣ tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Tóm lại: Mỗi một quốc gia có định nghĩa khác nhau về ngân hàng (dựa vào mục đích, đối tƣợng hoạt động...) nhƣng các định nghĩa trên đều có một thống nhất về ngân hàng thƣơng mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ với ba đặc điểm là nhận tiền ký thác, sử dụng tiền này để cho vay và làm dịch vụ thanh toán. 9
  11. Quản trị Ngân hàng Cần phân biệt ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng: Các TCTD phi ngân hàng (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) là loại hình TCTD tham gia kinh doanh tiền tệ nhƣng chỉ thực hiện một số (không phải là tất cả) các hoạt động ngân hàng nhƣ nội dung kinh doanh thƣờng xuyên: đƣợc huy động vốn chủ yếu dƣới hình thức phát hành giấy tờ có giá đồng thời đƣợc thu hút tiền gởi trung dài hạn nhƣng không đƣợc nhận tiền gởi không kỳ hạn, không đƣợc làm dịch vụ thanh toán. Bao gồm: - Công ty tài chính là công ty quốc doanh hay cổ phần, bằng nguồn vốn và huy động vốn trung và dài hạn qua các dự án. - Công ty cho thuê tài chính là TCTD chuyên cấp TD trung dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản không hủy ngang giữa bên cho thuê là TCTD và khách hàng thuê. Khi khách hàng kết thúc thời hạn thuê, khách hàng đƣợc ƣu tiên mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động ngân hàng đƣợc dùng để chỉ các hoạt động kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng với nội dung thƣờng xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Theo đó, ngân hàng đƣợc ghi nhận là loại hình tổ chức tín dụng đƣợc thực hiện các hoạt động ngân hàng và những hoạt động kinh doanh khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Nhƣ vậy, theo cách hiểu của các nhà làm luật, ngân hàng là một định chế tài chính, một tổ chức trung gian tài chính gắn liền với hoạt động kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng. * Ngân hàng trung ƣơng Ngân hàng trung ƣơng là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia /nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ƣơng là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thƣơng mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ƣơng thuộc sở hữu của nhà nƣớc nhƣng vẫn có một mức độ độc lập nhất định với chính phủ * Ngân hàng thƣơng mại NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm, gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngƣợc lại, kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến gai đoạn cao nhất là kinh tế thị trƣờng thì NHTM cũng ngày càng đƣợc hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu. Ngân hàng thƣơng mại là một ngân hàng trung gian. Thông qua hoạt động tín dụng thì ngân hàng thƣơng mại tạo lợi ích cho ngƣời gửi tiền, ngƣời vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà thu đƣợc lợi nhuận cho ngân hàng. Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ: Ngân hàng thƣơng mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp: Ngân hàng thƣơng mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thƣờng xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dƣới hình thức ký thác, hoặc dƣới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính". 10
  12. Quản trị Ngân hàng Ở Ấn độ: Ngân hàng thƣơng mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tƣ. Ở Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng nhà nƣớc Việt Nam định nghĩa Ngân hàng thƣơng mại: Ngân hàng thƣơng mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thƣờng xuyên là nhận tiền ký gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phƣơng tiện thanh toán. Theo Luật số 47/2010/QH12. Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam. Điều 4: “Ngân hàng thƣơng mại là loại hình ngân hàng đƣợc thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận” Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thƣờng xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các đặc điểm chủ yếu trong hoạt động KDNH NGÂN HÀNG LÀ MỘT DOANH NGHIỆP ĐẶC BIỆT THỂ HIỆN Ở CHỖ - Nguồn vốn kinh doanh: VTC của doanh nghiệp chiếm một tỷ trọng cao, trong khi ngân hàng nguồn vốn chủ yếu đƣợc hình thành từ huy động và vay nợ. Điều này dẫn đến tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng kém hơn và mức độ rủi ro cao hơn. - Loại hình hoạt động: Hoạt động kinh doanh sử dụng vốn của ngân hàng + Cho vay: Các DN sử dụng tiền của mình để kinh doanh nhƣng ngân hàng sử dụng tiền đối tƣợng khác cho vay để kinh doanh => rủi ro cả chủ quan và khách quan. + Tài sản tài chính: Có tính sinh lời cao nhƣng chịu ảnh hƣởng của các yếu tố lãi suất, lạm phát….=> các ngân hàng phải đối mặt với nhiều rủi ro + Cung cấp các dịch vụ khác cho nền kinh tế: Quy mô kinh doanh của ngân hàng rất lớn dẫn đến tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa ngân hàng với khách hàng. Rủi ro cho ngân hàng là mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. - Hàng hóa: Hàng hóa mà ngân hàng kinh doanh là tiền. So với các hàng hóa thông thƣờng, tiền biến động giá nhanh hơn khi chịu các tác động của lạm phát, tỷ giá, lãi suất. Tiền đƣợc coi là một loại hàng hóa đặc biệt. - Sự giám sát của các cơ quan vĩ mô: Sự giám sát của các cơ quan quản lý vĩ mô đối với ngân hàng là rất chặt chẽ xuất phát tƣ khả năng xảy ra rủi ro trong hoạt động ngân hàng và tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng. (Nếu ngân hàng bị đình trệ thì phạm vi và mức độ ảnh hƣởng là rất lớn). Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trƣng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. b. Chức năng của ngân hàng thƣơng mại * Chức năng trung gian tín dụng 11
  13. Quản trị Ngân hàng Chức năng trung gian tín dụng đƣợc xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thƣơng mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa ngƣời thừa vốn và ngƣời có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thƣơng mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là ngƣời cho vay và hƣởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: ngƣời gửi tiền và ngƣời đi vay... Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thƣơng mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thƣơng mại. * Chức năng trung gian thanh toán Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng nhƣ trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phƣơng tiện thanh toán tiện lợi nhƣ séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phƣơng thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp ngƣời phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phƣơng thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm đƣợc rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lƣu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lƣu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. * Chức năng tạo tiền Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận nhƣ là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền đƣợc thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động đƣợc để cho vay, số tiền cho vay ra lại đƣợc khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dƣ trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn đƣợc coi là một bộ phận của tiền giao dịch, đƣợc họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phƣơng tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thƣơng mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ƣơng đã áp dụng đối với nhtm. do vậy ngân hàng trung ƣơng có thể tăng tỉ lệ này khi lƣợng cung tiền vào nền kinh tế lớn. 1.2. Tổng quan về quản trị ngân hàng 1.2.1. Khái niệm về quản trị ngân hàng Quản trị ngân hàng là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hƣớng đích của chủ thể quản trị lên các đối tƣợng chịu quản trị nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội để đạt các mục tiêu đã đề ra theo đúng luật định và thông lệ quốc tế. Chủ thể quản trị là chủ ngân hàng gồm: HĐQT, ban điều hành, ban giám đốc (nhà quản trị cấp cao), các trƣởng phòng, trƣởng ban (quản trị viên cấp trung) và các quản trị viên cấp cơ sở. 12
  14. Quản trị Ngân hàng Đối tƣợng bị quản trị là nhân viên ngân hàng, TS, DV, công nghệ của ngân hàng. Khách hàng Chủ thể quản trị Đối thủ cạnh tranh Đối tƣợng Thị trƣờng quản trị Cơ hội/ thách thức Mục tiêu ngân hàng Luật pháp/ thông lệ Quản trị kinh doanh ngân hàng là việc thiết lập các chƣơng trình hoạt động kinh doanh để đạt các mục đích, mục tiêu kinh doanh dài hạn và ngắn hạn của ngân hàng, xác định và điều hòa các nguồn tài nguyên để thực hiện chƣơng trình, các mục tiêu kinh doanh. Đó là việc tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra nhân viên của ngân hàng thực hiện chƣơng trình, mục tiêu đã đề ra. Quản trị kinh doanh ngân hàng là hệ thống các hoạt động thống nhất, phối hợp và liên kết quá trình lao động của các nhân viên trong mỗi ngân hàng nhằm đạt đƣợc các mục tiêu kinh doanh ở mỗi thời kỳ với phƣơng châm tối thiểu hóa các chi phí và hao tổn về nguồn lực đƣợc sử dụng trong toàn bộ quá trình đó. Xây dựng, bố trí, Hoạch định chiến Xác định các nguồn > > lãnh đạo các nguồn lƣợc kinh doanh tài nguyên lực * Đặc điểm của kinh doanh ngân hàng - Sản phẩm ngân hàng mang tính vô hình - Quan hệ khách hàng thƣờng dựa trên cơ sở quen biết - Chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nƣớc - Tổ chức cung cấp sản phẩm mang tính trực tiếp là chủ yếu - Chịu sự tác động lớn và nhạy cảm với kinh tế vĩ mô - Hoạt động kinh doanh chứa nhiều rủi ro * Đặc điểm của quản trị ngân hàng Quản trị theo quan điểm truyền thống luôn bao gồm 4 yếu tố cơ bản: - Mục đích (hƣớng tới các mục đích xác định) 13
  15. Quản trị Ngân hàng - Con ngƣời (Việc thực hiện mục đích luôn thông qua con ngƣời) - Bằng những kỹ thuật công nghệ nhất định - Là những hoạt động bên trong của tổ chức, thiết lập và duy trì các quan hệ, các quy tắc làm việc bên trong tổ chức nhằm đảm bảo cho tổ chức hoạt động có hiệu quả. Việc chỉ ra những nét đặc trƣng của quản trị ngân hàng là công việc khó khăn. Tuy nhiên cũng có thể nêu ra các đặc điểm cơ bản sau: + Quản trị ngân hàng hƣớng tới sự phối kết hợp các nguồn lực con ngƣời và nguồn lực vật chất trong quá trình sản xuất, cung ứng các dịch vụ ngân hàng + Quá trình cung cấp dịch vụ của ngân hàng là việc tiến hành nhiều hoạt động khác nhau mà qua đó lợi ích của các bên liên quan đến ngân hàng đƣợc đáp ứng. Những dịch vụ này không tồn tại hữu hình, không tồn trữ đƣợc, dễ thay đổi, gắn bó và không tách rời với ngƣời hoặc thiết bị làm ra dịch vụ. + Trong thời đại ngày nay, trình độ kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ ngân hàng phát triển ở mức độ cao, nhà quản trị ngân hàng cần nhìn nhận công việc mà họ phải thực hiện nhƣ quá trình tổ chức, lãnh đạo công việc sản xuất và cung cáp thông tin. + Cũng nhƣ nhiều lĩnh vực quản trị khác, quản trị ngân hàng về mặt lý thuyết cũng là một lĩnh vực khoa học mới mẻ. Thể hiện: Có nhiều khái niệm và nguyên tắc quản trị đƣợc đƣa ra nhƣng vẫn chƣa có sự thống nhất, chƣa chỉ rõ phƣơng pháp riêng biệt và đặc thù của quản trị, tình hình thiếu hụt kỹ năng và kiến thức quản trị có thể áp dụng có hiệu quả và phổ biến trong thực tiến kinh doanh của các ngân hàng 1.2.2. Vai trò của quản trị ngân hàng Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, yếu tố thị trƣờng bị xem nhẹ nên chỉ có khái niệm quản lý ngân hàng. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trƣờng, buộc các ngân hàng phải quan tâm nhiều đến đối thủ cạnh tranh, cơ hội và thách thức. Trong thời kỳ kế hoạch hóa, tình trạng lãi giả, lỗ thật, tỷ lệ nợ xấu cao ở hầu hết các ngân hàng. Nhờ áp dụng các biện pháp quản trị trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, hoạt động kinh doanh ngân hàng về cơ bản có những thay đổi rõ rệt. Một ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có những định hƣớng kinh doanh đúng đắn. Trƣớc đây, mọi mục tiêu của ngân hàng đều xuất phát từ yếu tố chủ quan. - Giúp ngân hàng có đƣợc định hƣớng kinh doanh đúng đắn cả trong ngắn hạn và trong dài hạn. Từ khi chuyển hƣớng hệ thống ngân hàng đƣợc chia thành 2 cấp ngân hàng quản lý và ngân hàng kinh doanh tiền tệ. - Giúp ngân hàng thích ứng đƣợc với môi trƣờng kinh doanh vì hoạt động kinh doanh bây giờ là hoạt động mở, đã tính đến yếu tố thị trƣờng trong đó cơ hội và thách thức cải cách ngân hàng, phát triển môi trƣờng kinh doanh để đón những cơ hội và đối phó với những thách thức. - Giúp ngân hàng có thể khai thác, sử dụng nguồn lực (nhân lực, tổ chức, cơ sở cật chất, kỹ thuật…) của ngân hàng một cách hợp lý và hiệu quả. So với trƣớc đậy, chất lƣợng nguồn nhân lực đƣợc cải thiện rất nhiều. Hiện nay việc tuyển chọn, sàng lọc nhân viên vào từng vị trí thích hợp chứ không chỉ định một cách chủ quan. Nguồn lực tài chính đƣợc thể hiện ở quy mô 14
  16. Quản trị Ngân hàng vốn chủ sở hữu, vốn kinh doanh và tỷ lệ nợ quá hạn. Nhìn chung các con số đƣợc đƣợc cải thiện ở các ngân hàng Việt Nam. Các ngân hàng đều hƣớng tới hiện đại hóa, công nghệ ngân hàng đƣợc cải thiện một cách rõ rệt. Các ngân hàng thƣờng xuyên quan tâm đến việc nâng cấp cơ sở hạ tầng để nâng cao chất lƣợng dịch vụ. * Vai trò của quản trị doanh nghiệp đối với ngân hàng thƣơng mại Ngân hàng thƣơng mại (NHTM) có đặc thù là kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nhiều rủi ro và có tác động mạnh đến nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, đối với NHTM vấn đề quản trị doanh nghiệp (QTDN) có vai trò hết sức quan trọng. Những năm gần đây, với sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng, khủng hoảng, suy thoái trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng diễn ra trên diện rộng, vấn đề QTDN tại các NHTM càng trở nên “nóng” hơn trên các diễn đàn trong nƣớc và quốc tế. Thực tế cho thấy, chỉ những ngân hàng nào thực sự hiểu rõ và để cao vai trò QTDN mới có thể phát triển vững mạnh trong khủng hoảng, bởi những lợi ích của nó mang lại. Thứ nhất, nâng cao uy tín của ngân hàng. Thông qua cơ chế công khai, minh bạch thông tin, NHTM có QTDN hiệu quả sẽ đƣợc các chủ thể tham gia thị trƣờng tin tƣởng, tín nhiệm. Vì vậy, cơ chế công khai thông tin, một mặt sẽ giúp các NHTM có hệ thống quản trị tốt nhanh chóng nhận đƣợc sự tín nhiệm, đánh giá cao của thị trƣờng, mặt khác chính công khai thông tin sẽ buộc các NHTM phải nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị để có thể chiếm lĩnh đƣợc lòng tin, sự tín nhiệm của thị trƣờng. Nếu các NHTM không hoạt động hiệu quả, việc công khai thông tin sẽ làm cho họ bị thị trƣờng đào thải. Vì vậy, cơ chế công khai thông tin - một trong những cơ chế quan trọng hàng đầu trong QTDN là một động lực quan trọng để các NHTM nâng cao uy tín. Thứ hai, tạo động lực để hoạt động quản lý NHTM hiệu quả. Với một cơ chế phân định trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng, đảm bảo tính độc lập về chức năng nhiệm vụ, chế độ đãi ngộ phù hợp vừa tạo động lực để hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban điều hành làm việc tận tâm, vừa tăng cƣờng tính tuân thủ, giảm thiểu sai phạm, gian lận trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Từ đó, các hoạt động quản lý đƣợc tăng cƣờng và nâng cao hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đƣợc xác định. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn cho ngân hàng. Đối với NHTM, huy động vốn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng do phần lớn vốn kinh doanh của ngân hàng dựa vào vốn huy động. Thực tế cho thấy, QTDN tốt với việc minh bạch và công khai thông tin đầy đủ về hoạt động của ngân hàng tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trƣờng, những ngƣời có lợi ích liên quan đến ngân hàng có thể tiếp cận thông tin một cách dễ dàng. Trong hoạt động của NHTM, việc giữ chữ “tín” là yếu tố quyết định đến việc huy động vốn thành công. Thứ tƣ, giảm chi phí vốn, tăng giá trị tài sản của ngân hàng. Với đặc thù hoạt động chủ yếu của NHTM là “đi vay và cho vay”, trong đó lãi suất là thƣớc đo cơ bản “giá” các khoản nợ và tài sản của ngân hàng. Các NHTM có QTDN tốt, có tín nhiệm với thị trƣờng có thể huy động vốn với lãi suất thấp do ngƣời gửi tiền đánh giá tính an toàn của khoản tiền gửi cao. 15
  17. Quản trị Ngân hàng Thứ năm, nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM. QTDN với một hệ thống giải trình đầy đủ, kịp thời là cơ sở để các vấn đề về hoạt động của ngân hàng đƣợc truyền đạt thông suốt đến các cấp quản trị, điều hành trong toàn hệ thống, từ đó cải thiện quá trình ra quyết định và có biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả với các biến cố. Bên cạnh đó, với hoạt động hiệu quả của kiểm soát nội bộ, kiểm soát của thị trƣờng và kiểm soát rủi ro sẽ hỗ trợ cho ngân hàng kiểm soát rủi ro, tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi rủi ro có thể chấp nhận. Nhƣ vậy, hệ thống các cơ chế vận hành trong cơ cấu QTDN đƣợc thiết lập và vận hành hiệu quả sẽ hỗ trợ cho việc kiểm soát rủi ro, kiểm soát hiệu quả hoạt động các bộ phận liên quan, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động trong toàn hệ thống. Hệ thống kiểm soát hoạt động và kiểm soát rủi ro hiệu quả còn hỗ trợ cho ngân hàng tăng khả năng chống đỡ với khủng hoảng và các sự kiện bất lợi 1.3. Các nguyên tắc quản trị ngân hàng 1.3.1. Khái niệm Để hoạt động quản trị đƣợc thực hiện nhƣ đúng dự định, ngân hàng cần phải đề ra các nguyên tắc. Nguyên tắc quản trị ngân hàng là những tiêu chuẩn hành động mà các chủ thể quản trị phải tuân thủ trong quá trình quản trị một ngân hàng. 1.3.2. Các nguyên tắc quản trị - Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế: Nguyên tắc này xuất phát từ đặc trƣng chế độ chính trị của VIệt Nam. Nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ, tối ƣu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý. Tập trung đƣợc hiểu là ngân hàng pải có chủ trƣơng, đƣờng lối, kế hoạch thống nhất trong toàn hệ thống, thực hiện chế độ một thủ trƣởng ở tất cả các cấp. Dân chủ thể hiện xác định trách nhiệm và quyền hạn của mỗi cá nhân và từng bộ phận trong ngân hàng. - Tuân thủ pháp luật và thông lệ kinh doanh: Điều này là hiển nhiên vì khi hoạt động trong một môi trƣờng có thể chế, quy định rõ ràng phải tuân theo. - Xuất phát từ khách hàng: Nguyên tắc này đƣợc đề xuất theo nguyên tắc quản lý kinh tế (sản xuất cho ai?). Khách hàng là nhân tố khách thể kinh doanh nhƣng chi phối rất mạnh đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Tiết kiệm và hiệu quả: - Kết hợp hài hòa các lợi ích: Các nhà quản trị ngân hàng phải xử lý một cách thỏa đáng mối quan hệ biện chứng giữa các lợi ích của mọi đối tƣợng tham gia vào hoạt động ngân hàng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển cho ngân hàng. Lợi ích của các đối tƣợng không đồng nhất với nhau, việc gia tăng lợi ích cho nhóm đối tƣợng này có thể làm giảm lợi ích của các đối tƣợng khác. 1.4. Các phƣơng pháp quản trị ngân hàng 1.4.1. Khái niệm Phƣơng pháp quản trị ngân hàng là cách thức tác động của chủ thể quản trị lên đối tƣợng bị quản trị và khách thể kinh doanh trong quản trị một ngân hàng. 16
  18. Quản trị Ngân hàng 1.4.2. Các phƣơng pháp quản trị ngân hàng - Phƣơng pháp hành chính: Là phƣơng pháp tác động vào đối tƣợng quản trị dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản trị và kỷ luật của ngân hàng. Đó là mối quan hệ giữa uy quyền và phục tùng. Phƣơng pháp này đƣợc tác động bằng cách các nhà quản trị ngân hàng đƣa ra mệnh lệnh, quyết định, chỉ thị để cấp dƣới thi hành. Ƣu điểm: Các quyết định đƣợc tiển khai một cách nhanh chóng ngay khi đƣợc ban hành, có tính thống nhất trong toàn ngân hàng, giữ đƣợc trật tự, kỷ cƣơng và lề lối làm việc trong ngân hàng Nhƣợc điểm: Gây tâm lý ức chế cho đối tƣợng bị quản trị và có thể tạo ra sự phản kháng. - Phƣơng pháp kinh tế: Các nhà quản trị tạo điều kiện cho ngƣời lao động kết hợp một cách đúng đắn giữa lợi ích của mình và lợi ích của tập thể trong quá trình thực hiện công việc. Chẳng hạn, để hoạt động kinh doanh của ngân hàng có lãi, cần phải tăng dƣ nợ, tăng huy động vốn. Ở một số ngân hàng giao chỉ tiêu xuống từng chi nhánh, từng bộ phận, từng cá nhân, nếu thực hiện tốt đƣợc khen thƣởng,… Ƣu điểm: Khuyến khích đƣợc sự nhiệt tình, sự tự giác, giúp ngƣời lao động thoải mái về mặt tâm lý Nhƣợc điểm: Làm sói mòn yếu tố văn hóa của tổ chức nên các nhà quản trị ngân hàng chỉ sử dụng phƣơng pháp này ở những thời điểm và hoạt động thích hợp. - Phƣơng pháp giáo dục: Tác động vào nhận thức, tình cảm của ngƣời lao động để khuyến khích họ làm việc tốt hơn. Xét về mặt tƣ tƣởng đạo đức thì phƣơng pháp tuyên truyền để họ thấy đƣợc trách nhiệm của mình. Xét về chuyên môn thì phải huấn luyện, đào tạo. Mặt khác phải tổ chức thi tay nghề, biểu dƣơng những lao động tốt. Ƣu điểm: Nâng cao đƣợc nhận thức, trình độ, ổn định tƣ tƣởng cho ngƣời lao động, tạo đƣợc bầu không khí thân thiện, nâng cao sự thỏa mãn, hài lòng của ngƣời lao động. - Phƣơng pháp Marketing: + Chiến lƣợc Marketing hỗn hợp Chiến lƣợc giá: Ngân hàng phải sử dụng một cách hợp lý thì mới thu hút đƣợc khách hàng Chiến lƣợc sản phẩm: Căn cứ vào thu nhập, thị hiếu của khách hàng để tạo ra sản phẩm phù hợp với từng khách hàng Chiến lƣợc xúc tiến: Ngân hàng mở rộng kênh phân phối đến ngƣời tiêu dùng để họ có điều kiện thuận lợi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Chiến lƣợc quảng cáo: Sử dụng các phƣơng tiện thông tin đại chúng, đăng báo, thiết kế tờ rơi, băng rôn,… Khuyến mãi: Ở Việt Nam chiến lƣợc này không đƣợc quan tâm nhiều, khi kết thúc đợt khuyến mãi, khách hàng lại trở về với các dịch vụ truyền thống. - Phƣơng pháp cạnh tranh: Các ngân hàng cố gắng tạo lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng đối thủ thông qua các chính sách giá (dịch vụ, lãi xuất,…), sản phẩm (chất lƣợng, số lƣợng,…) 17
  19. Quản trị Ngân hàng - Phƣơng pháp hợp tác và thƣơng lƣợng: Các ngân hàng cùng chia sẻ với nhau trên thị trƣờng làm cho các ngân hàng cùng lớn mạnh. 1.5. Các chức quản trị ngân hàng Quản trị điều hành ngân hàng thƣơng mại có các chức năng chính sau: - Chức năng hoạch định: Xác định mục tiêu và lựa chọn chiến lƣợc để thực hiện mục tiêu trong từng giai đoạn nhất định. Các mục tiêu phải đƣợc cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu quy mô, chất lƣợng, chỉ tiêu tài chính. - Chức năng tổ chức, lãnh đạo: Tổ chức là sắp xếp các bộ phận (phòng, ban) các yếu tố (tài sản, đội ngũ cán bộ nhân viên). Xác định cơ cấu và mối quan hệ (trực tuyến, trung gian) giữa các bộ phận để phối hợp hoạt động. Lãnh đạo là điều khiển, đƣa ra các quyết định và các mặt hoạt động theo từng cấp độ khác nhau. Đối với cấp độ chi nhánh, đây là lãnh đạo tác nghiệp, chỉ đạo các mặt hoạt động nghiệp vụ đƣợc thực hiện thông suốt ở tất cả các mặt hoạt động liên quan. Lãnh đạo ở cấp chi nhánh vừa đòi hỏi chặt chẽ để bảo đảm an toàn, vừa phải phát huy hiệu quả ở mức độ cao nhất. - Chức năng phối hợp: Sự liên kết hợp lý các khả năng riêng biệt của từng ngƣời, từng bộ phận, từng yếu tố đảm bảo các mặt hoạt động nghiệp vụ đƣợc thông suốt và hỗ trợ nhau tích cực - Chức năng kiểm tra: Tho dõi đối tƣợng quản trị đang hoạt động và thu thập thông tin về kết quả thực tế ngân hàng đạt đƣợc, đối chiếu kết quả với mục tiêu đề ra ban đầu, tiến hành điều chỉnh, đảm bảo ngân hàng đi đúng quỹ đạo 18
  20. Quản trị Ngân hàng Chƣơng 2. Quản trị chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng 2.1. Khái niệm và vai trò của quản trị chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng 2.1.1. Khái niệm - Chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng là một kế hoạch dài hạn mang tính tổng thể hay là một chƣơng trình hành động mang tính tổng quát nhằm triển khai các nguồn lực để đạt đƣợc mục tiêu đề ra của ngân hàng đảm bảo sự phù hợp với sự thay đổi của môi trƣờng - Quản trị chiến lƣợc là quá trình phân tích môi trƣờng hiện tại, dự báo môi trƣờng tƣơng lai, xác định sứ mệnh, mục tiêu và chƣơng trình chiến lƣợc, tổ chức triển khai, kiểm tra đánh giá việc thực hiện mục tiêu, chƣơng trình chiến lƣợc trên thực tế. - Quản trị chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng là kế hoạch và nghệ thuật của việc xây dựng, thực hiện, đánh giá và điều chỉnh chiến lƣợc kinh doanh, giúp ngân hàng có thể đạt đƣợc mục tiêu của mình. Phải có sự kết hợp cả hai yếu tố khoa học và nghệ thuật. Hai yếu tố này hỗ trợ, bổ sung cho nhau để tạo nên thành công của một nhà quản trị. Muốn quản trị chiến lƣợc kinh doanh các nhà quản trị phải dựa vào lý luận về chiến lƣợc kinh doanh và sau đó bằng nghệ thuật của mình để đạt đƣợc mục tiêu. 2.1.2. Vai trò của quản trị chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng * Vai trò của chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng - Giúp xây dựng phƣơng hƣớng hoạt động dài hạn cho toàn ngân hàng và từng bộ phận trong ngân hàng - Cung cấp cho các nhà quản trị ngân hàng một chƣơng trình hành động cụ thể nhằm hƣớng dẫn tƣ duy và hành động của họ trong cả dài hạn và ngắn hạn (tiền đề cho việc thực hiện các chức năng cơ bản của mỗi cấp quản trị) - Tạo ra căn cứ vững chắc cho việc đề ra các chính sách, các quyết định kinh doanh - Nâng cao hiệu quả hoạt động tác nghiệp trong quản trị ngân hàng. * Vai trò của quản trị chiến lƣợc kinh doanh ngân hàng - Giúp cho các nhà quản trị và các thành viên trong ngân hàng hiểu đƣợc mục đích và định hƣớng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong một thời gian dài - Làm tăng tính chủ động, tính thích nghi của hoạt động kinh doanh ngân hàng trƣớc những biến động của môi trƣờng kinh doanh thông qua kỹ thuật phân tích, dự báo môi trƣờng kinh doanh để giúp các nhà quản trị ngân hàng chủ động điều chỉnh mục tiêu và các hoạt động quản trị tác nghiệp khi cần thiết. - Làm thay đổi cách thức và phƣơng thức quản trị trong mỗi ngân hàng bằng cách thay vì tập trung vào xử lý các sự vụ thì ngân hàng sẽ tập trung vào các chƣơng trình hành động tổng thể, các kế hoạch dài hạn để phù hợp với môi trƣờng kinh doanh - Giúp các nhà quản trị xác định một cách tƣơng đối vị thế, tiềm năng, triển vong của của ngân hàng trong tƣơng lai - Nắm bắt đƣợc các cơ hội và đối phó đƣợc với những thách thức có thể xảy ra, nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của ngân hàng. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2