intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo "Một số bài học rút ra từ mô hình phát triển Bắc Âu. "

Chia sẻ: Bút Màu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

139
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhìn chung, các quốc gia Bắc Âu sở hữu trong tay mình một mô hình phát triển nhất định phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hoá và kinh tế của từng nước, nhưng cả bốn nước Bắc Âu đều có chung những nguyên tắc, mục tiêu, trụ cột chính sách trong thực hiện mô hình phát triển của mình. Chính vì vậy đã hình thành nên một mô hình phát triển kiểu Bắc Âu – Scandinavia có những đặc trưng riêng so với các khu vực khác ở châu Âu....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo "Một số bài học rút ra từ mô hình phát triển Bắc Âu. "

  1. CHÍNH TRỊ - AN NINH CHÂU ÂU MéT Sè BμI HäC RóT RA Tõ M¤ H×NH PH¸T TRIÓN B¾C ¢U PGS.TS. Đinh Công Tuấn Viện Nghiên Cứu Châu Âu Nhìn chung, các quốc gia Bắc Âu sở dịch vụ xã hội khác. Xã hội Bắc Âu được hữu trong tay mình một mô hình phát triển đánh giá là những xã hội giàu có, thịnh nhất định phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, vượng, công bằng và dân chủ. Tuy còn gặp văn hoá và kinh tế của từng nước, nhưng cả một số khó khăn thách thức nhất định, nhưng bốn nước Bắc Âu đều có chung những xã hội Bắc Âu được đánh giá là một xã hội nguyên tắc, mục tiêu, trụ cột chính sách lý tưởng và là mẫu hình phát triển của thế trong thực hiện mô hình phát triển của mình. giới. Chính vì vậy đã hình thành nên một mô hình phát triển kiểu Bắc Âu – Scandinavia có Qua nghiên cứu phân tích cũng có thể những đặc trưng riêng so với các khu vực phân loại mô hình Bắc Âu thành 2 nhóm: khác ở châu Âu. nhóm Thuỵ Điển và Phần Lan; nhóm Đan Mạch và Na Uy. Xã hội phúc lợi của Đan Sự phát triển của mô hình Bắc Âu cho Mạch và Na Uy mang tính chất tự do hơn thấy một đặc điểm nổi bật, đó là vai trò quan trong khi mô hình phúc lợi xã hội của Thuỵ trọng của nhà nước và của khu vực công Điển và Phần Lan mang tính chất kỷ luật và cộng. Tại các nước Bắc Âu, hàng hoá công nghiệp đoàn hơn. Tuy nhiên, không dễ dàng cộng dường như nhiều hơn các loại hàng hoá khác và các dịch vụ phúc lợi công cộng phân biệt mô hình phát triển của các nước chiếm ưu thế. Cũng có những bằng chứng trên. Mỗi nước có một thành công, trên con thực tế cho thấy sự phát triển của khu vực tư đường phát triển của họ, và tựu chung lại các nhân, nhưng sự phát triển này có sự kiểm nước đều có những đặc điểm chung tương soát của khu vực nhà nước. đồng của cả nhóm Bắc Âu. Việc làm đầy đủ là chiến lược ưu tiên Nghiên cứu mô hình Bắc Âu đã gợi mở chủ yếu của mô hình Bắc Âu. Xoay quanh một số bài học kinh nghiệm nổi bật. Thứ vấn đề việc làm đầy đủ là quyền lợi của phụ nhất, vào những thời điểm khủng hoảng kinh nữ, trẻ em, người về hưu, người bệnh tật, tế, chính trị, xã hội... đặc điểm của các chính những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và các sách xã hội, mối quan hệ giữa nhà nước và
  2. 4 Nghiªn cøu Ch©u ¢u - European studies review No1 (136).2012 các nhóm kinh tế - xã hội chủ chốt trong xã công lí, gắn kết, ổn định, đảm bảo an ninh về hội đóng vai trò rất quan trọng, giúp tìm vật chất và thể lực, hạnh phúc cho con người kiếm những giải pháp, lối ra thoát ra khỏi và tăng trưởng kinh tế v.v... tình hình khủng hoảng đó. Các bài học thực tế về điều hành quản lí Thứ hai, từ kinh nghiệm Thuỵ Điển, xã hội của Bắc Âu chứng minh rằng, sự tăng Phần Lan trong thập kỉ gần đây có thể thấy trưởng kinh tế thực hiện song hành với một các hệ thống, thể chế dân chủ có thể thích số kiến tạo về phúc lợi xã hội, với phạm vi ứng với những thách thức mới nảy sinh trong và chế độ hưởng lợi ích hào phóng khác quá trình phát triển (cả bên trong và bên nhau. Song, phấn đấu tăng trưởng kinh tế và ngoài). nâng cao hiệu suất lao động không phải là mục tiêu duy nhất ở đường lối nhà nước Hiện nay, các nhà nước phúc lợi Bắc Âu phúc lợi Bắc Âu và châu Âu nói chung. nói riêng và châu Âu nói chung cũng gặp Đường lối chính trị và việc kiến tạo nhà phải những thách thức mới trong lịch sử như nước phúc lợi cũng chính là nhằm thực hiện sự chuyển đổi nhanh sang giai đoạn xã hội mục tiêu “bình đẳng hoá” các cơ hội sống hậu công nghiệp, gia tăng toàn cầu hoá, còn của mọi người dân, đảm bảo công bằng chuyển đổi, thay đổi trong cấu trúc nhân xã hội, gắn kết xã hội và ổn định xã hội. Các khẩu (tỉ lệ sinh thấp, xu hướng già hoá nhân đặc điểm này gắn chặt với tăng trưởng kinh khẩu tăng, di cư nội địa, khu vực tăng…), tế và động thái phát triển kinh tế, môi trường các quan hệ xã hội, xu hướng tiến tới hoà đầu tư và các ưu tiên lựa chọn chính trị, hệ tư nhập châu Âu (EU) và đường lối chính trị tưởng, các lợi ích và những giá trị được đề mới, hậu “chiến tranh lạnh” ..., song có thể cao trong xã hội. Việc chọn lựa và thực hiện nói, các nhà nước phúc lợi dân chủ xã hội đã loại chính sách nhà nước phúc lợi xã hội nào điều chỉnh chính sách xã hội khá tốt, theo phụ thuộc vào kiểu loại chính phủ, hệ tư hướng duy trì tính hợp pháp, tính chính danh tưởng chính trị và những nguyện vọng, mong của hệ thống này, ngay cả khi những biến muốn của cử tri tham gia bầu cử (Ví dụ, về đổi và thực tiễn mới của nền kinh tế ngày việc đáp ứng nhu cầu, về điều nhà nước cần càng gay gắt hơn. và phải có trách nhiệm thực hiện, và phụ Cả trong lịch sử và hiện tại, nhà nước thuộc vào bối cảnh chính trị văn hoá (các cấu phúc lợi Bắc Âu có thể mô tả là đa chức trúc chuẩn mực, kì vọng, giá trị xã hội...) năng. Việc đánh giá thành tựu, mức độ thành cũng như mức độ phát triển kinh tế và khả công của mô hình được xem xét và cần phải năng vận dụng những cơ sở lí luận và tri tính đến những giá trị đặc biệt, các mục tiêu, thức nền tảng, tiền đề cần thiết cho tăng nhiệm vụ chính trị xã hội như công bằng, trưởng kinh tế và hiệu quả.
  3. Mét sè bμi häc... 5 Thứ ba, nhà nước phúc lợi nhằm phục dân cư có việc làm đầy đủ và bền vững đã vụ nhiều chức năng, thường bắt đầu đi từ các được mở rộng và bình đẳng, chuyển hướng mục tiêu, phạm vi hẹp sang mở rộng bao từ mô hình “người kiếm sống chính là nam quát và toàn diện. Ban đầu, mục tiêu quan giới” sang “mô hình cả nam và nữ cùng kiếm trọng nhất mà các nước này thường tính đến sống, cùng chia sẻ trách nhiệm gia đình” và là cân nhắc về hài hoà xã hội và hỗ trợ chế điều này đã trở thành chuẩn mực chính sách độ lợi ích. Ví dụ, thực hiện xóa đói giảm công cộng theo phương thức quản lí (nguồn nghèo, hỗ trợ các nhu cầu, dịch vụ tối thiểu cầu lao động) theo tư tưởng trường phái cơ bản là một mục tiêu quan trọng trong Keyn. An sinh xã hội được mở rộng và nâng chương trình xã hội. Theo thời gian, một số cấp, xét cả về mức độ chế độ lợi ích hào chương trình được phát triển mở rộng nhằm phóng và phạm vi bao phủ tới toàn bộ dân cư đảm bảo phòng ngừa những rủi ro, biến cố ở hầu hết các loại hình bảo hiểm xã hội. trong đời sống cá nhân, do bị mất thu nhập, Ở cấp độ vĩ mô, thậm chí một số chế độ nhằm mục tiêu tái phân bổ thu nhập theo chu bảo hiểm thất nghiệp có thể tạo ra hiệu ứng trình sống của mỗi công dân, tái phân bổ ngược, như có thể tạo ra các khuyến khích nguồn lực trong và giữa các nhóm xã hội, cho cá nhân từ bỏ thị trường lao động, song cung cấp, đảm bảo an ninh cơ bản cho tất cả quan điểm chính là vấn đề thất nghiệp không mọi công dân. Theo nghĩa này, có thể nói còn được coi là vấn đề của cá nhân mà là nhà nước phúc lợi Bắc Âu được coi là “công quan tâm của cả xã hội. Vì vậy, thị trường cụ ổn định xã hội” hữu hiệu, nhằm phòng lao động đã được phát triển trở thành yếu tố ngừa những bất ổn xã hội, những phản kháng chính của nền kinh tế tiền tệ, trong khi đó, hệ bất đồng và hạn chế nạn nghèo đói lan rộng thống an sinh xã hội trở thành các thiết chế trong xã hội. Việc kết hợp giữa cấu trúc quản cơ bản của nhà nước phúc lợi hiện đại. trị dân chủ, phát triển nền kinh tế tư bản thị trường có điều tiết và xây dựng các thiết chế Xét ở nghĩa rộng nhất, việc điều hành phúc lợi tương đối toàn diện giúp quốc gia kinh tế vĩ mô đã trở thành một phần không thích ứng và đáp ứng những nhu cầu xã hội tách rời của công tác quản trị xã hội. Ở Bắc đang thay đổi một cách khá thành công ở Âu, sự hòa nhập hệ thống song hành với hoà Bắc Âu. nhập xã hội, dựa trên các quan điểm luận Kinh nghiệm của Bắc Âu trong suốt một thuyết xã hội học cấu trúc - chức năng cũng thế kỉ qua cho thấy, sự tham gia thị trường như những quan điểm lí luận định hướng chủ lao động ngày càng cao và tăng lên vẫn có thể - quyền công dân. Vì vậy, rủi ro của công thể cùng đồng hành với sự mở rộng hệ thống dân khi bị mất việc, rơi vào tình trạng bên lề an sinh xã hội. Từ thập kỉ 1960 đến nay, tỉ lệ và tách biệt xã hội được tích cực khắc phục.
  4. 6 Nghiªn cøu Ch©u ¢u - European studies review No1 (136).2012 Ở cấp độ vĩ mô, trách nhiệm của chính 1930, một phần của thập kỉ 1990). Một phạm phủ là phải tạo ra các điều kiện để doanh trù xã hội như “các bà nội trợ” đã gần như nghiệp có thể phát triển và gắn chặt với trách biến mất khỏi đời sống xã hội. Ảnh hưởng nhiệm chung của mỗi công dân, người có tích cực của hệ thống giáo dục là định hướng năng lực/khả năng cần phải làm việc hoặc phát triển các kĩ năng, trình độ cao. Độ tuổi phải đạt được trình độ học vấn để được tham và giới tính của thành phần lực lượng lao gia lao động đầy đủ trên thị trường lao động. động đã thay đổi nhanh chóng trong suốt thế kỉ qua. Mặc dù hệ thống an sinh xã hội cung cấp các chế độ lợi ích khác nhau (trẻ em, Ngày càng có nhiều chế độ lợi ích hào người già..), song chuẩn mực nổi trội ở Bắc phóng cho thai sản, nghỉ chăm sóc con cái Âu và Tây Âu nói chung là thanh niên, trung cũng như sự phát triển các hệ thống dịch vụ niên, cả nam và nữ, cần phải là người tích chăm sóc trẻ em đã tạo ra môi trường “thân cực trên thị trường lao động để có thu nhập thiện ở nơi làm việc”, “thân thiện cho gia độc lập. Sự chấp thuận chuẩn mực xã hội này đình”, “thân thiện cho phụ nữ”, tạo điều kiện đã được duy trì và củng cố, không chỉ thể thuận lợi cho phụ nữ tham gia lao động ở hiện thuần tuý ở khía cạnh thu nhập tiền tệ, Bắc Âu trong suốt những năm 1980-1990. mà còn ở những đặc điểm xã hội như vị thế, Yếu tố quan trọng khác là sự huy động chính đặc quyền, quyền lực được phổ biến ở cộng trị của phụ nữ đã diễn ra khá nhanh. Phụ nữ đồng, tuỳ theo việc cá nhân đó có làm việc tham gia nhiều vào các đảng chính trị, công hoặc không làm việc. Các cơ chế giám sát xã đoàn, có tiếng nói quan trọng ở các lĩnh vực hội ở cộng đồng Bắc Âu tương đối gắn kết ra quyết định như Quốc hội, Chính phủ và bộ và bình đẳng, nơi sự khác biệt giữa nhà nước máy Nhà nước. và xã hội có khoảng cách Blurred lớn, “sự Lĩnh vực quan trọng để thay đổi tư duy bất tuân thủ” qui định có thể dẫn đến mất và cải cách ở nhà nước phúc lợi Bắc Âu là danh dự hoặc bị loại trừ khỏi nhóm xã hội các chính sách việc làm. Tình trạng thất nổi trội vv. Điều này cho thấy, khía cạnh của nghiệp và thiếu việc làm, vấn đề “không làm lôgíc đạo đức của nhà nước phúc lợi hiện đại việc”, luôn được đặt rõ trên bàn nghị sự và có ý nghĩa rất quan trọng. thu hút sự quan tâm chính trị rất lớn trong xã Ở Bắc Âu, tỉ lệ dân cư tham gia lao hội. động ở các khu vực hiện đại của nền kinh tế Thứ tư, tạo ra việc làm luôn là trọng tâm (ngoài nông nghiệp và các công việc nội trợ ưu tiên của hệ thống luật pháp, chính sách không được tính công) đã tăng lên trong suốt phúc lợi là đặc điểm của nhà nước phúc lợi, thế kỉ 20 (trừ hai giai đoạn ngắn là thập kỉ có sự gắn bó chặt chẽ thiết chế phúc lợi với
  5. Mét sè bμi häc... 7 việc làm. Các nhà nước Bắc Âu đều thể hiện phổ quát về mức độ phúc lợi chung trong xã là các xã hội được dựa trên cơ sở, nền tảng hội. tạo ra số lượng việc làm lớn và nhà nước Trước khi cất cánh về kinh tế và công phúc lợi chế độ cao. Vì vậy, chính sách thị nghiệp, các xã hội Bắc Âu tương đối bình trường lao động tích cực và tiếp cận công đẳng và trong suốt 100 năm phát triển, kết việc là hòn đá tảng của chính sách phúc lợi hợp giữa kiến tạo nhà nước phúc lợi và phát kể từ Chiến tranh thế giới thứ Hai. triển kinh tế thành công nhất, các xã hội này Vào thập kỉ 1990, một cách tiếp cận đã thể hiện tinh thần không chấp thuận với công việc và hoạt động mới đã được điều tình trạng bất bình đẳng xã hội, nghèo đói chỉnh, với việc thắt chặt tiêu chí về người có hơn ở hầu hết các nước phát triển nhất. thể hưởng chế độ lợi ích, giảm dần thời gian Trong nửa đầu thế kỉ 20, phạm vi lập qui và mức độ hỗ trợ. Ví dụ, ở bốn nước Bắc Âu hoạch xã hội bao gồm thiết lập và phát triển đã áp dụng các điều kiện chặt chẽ hơn về an sinh xã hội, hệ thống y tế và giáo dục là việc hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp: Ở kết quả rõ ràng của quá trình chính trị dân Na Uy, tiêu chí về bảo hiểm y tế cho người chủ nhằm cân bằng yêu cầu phát triển tăng tàn tật; Ở Phần Lan và Thuỵ Điển - điều kiện trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Bắc hưởng bảo hiểm ốm đau được thắt chặt hơn Âu. v.v... Lịch sử Bắc Âu cho thấy, phúc lợi xã Tuy nhiên, so với nhiều nước châu Âu, hội có thể mang tính chất tích cực và tiêu có thể khẳng định, các nhà nước phúc lợi cực. Về truyền thống, vì những lí do tôn giáo Bắc Âu vẫn thể hiện những nét khác biệt và và văn hoá khác nhau, các nước Bắc Âu kế không theo hướng hội tụ với mô hình tân - tự thừa những di sản rất mạnh mẽ về tinh thần, do về bảo trợ xã hội, hoặc theo hướng tiếp ứng xử đạo đức trong công việc và đó là cận thị trường tự do về giải điều tiết và thực nguồn lực nội tại rất lớn cho sự phát triển và tồn tại của nhà nước phúc lợi cũng như đảm hiện phúc lợi tối thiểu – vốn được coi là nền bảo năng suất lao động cao. tảng để thực hiện các chính sách tạo việc làm tích cực những năm gần đây. Tất cả các nước Bắc Âu đều bắt đầu phát triển các nhà nước phúc lợi từ từ, bắt Thứ năm, bên cạnh sự độc đáo của mô đầu từ những chương trình với qui mô, giới hình Bắc Âu, không thể không đề cập đến sự hạn chừng mực, dựa trên thẩm định mức thu phát triển năng lực của chính phủ và các thể nhập, hoặc chương trình hạn chế cho một số chế trong thúc đẩy phúc lợi và hàm ý tích nhóm đối tượng nhất định. Sự lựa chọn các cực đối với việc thực hiện các chính sách giải pháp thể chế ban đầu có tác dụng hiệu
  6. 8 Nghiªn cøu Ch©u ¢u - European studies review No1 (136).2012 quả là mở rộng và phát triển tiếp theo. Ví dụ, và được định hình bởi văn hoá, truyền thống, các chương trình đầu tiên dựa trên nguyên phát triển kinh tế, công nghệ, cấu trúc xã hội tắc thẩm định kinh tế, sẽ dễ dàng chuyển và quan hệ xã hội. Dĩ nhiên, cần rất thận sang chương trình phổ quát hơn là những trọng khi bàn luận về con đường đúng đắn, chương trình lúc đầu chỉ nhằm cho nhóm dân cân nhắc về tính hợp lí của các chính sách xã cư tham gia tích cực vào thị trường lao động hội của các chính phủ. Những quan tâm, giá (Ví dụ, chương trình cho công nhân doanh trị ưu tiên cốt lõi, quan niệm về công bằng, nghiệp). công lí xã hội, đoàn kết xã hội, ổn định và bình đẳng hoá các cơ hội được sống tử tế của Thứ sáu, các mục tiêu giáo dục phổ mọi công dân là nổi trội và ưu tiên cao của thông, cung cấp dịch vụ y tế phổ quát là đặc xã hội. biệt quan trọng, và được ưu tiên cao nhằm phát triển kinh tế và hưng thịnh quốc gia liên Một khía cạnh chủ chốt của hệ thống an tục trong nhiều năm. Trách nhiệm của nhà sinh xã hội chính là cần phải tổ chức và tạo nước và khu vực công đối với đảm bảo sức ra những khuyến khích để mọi người đều khoẻ dân cư đã được khẳng định từ rất sớm phải làm việc và đây là nhiệm vụ rất quan nhằm tạo ra của cải, tài sản và sức mạnh trọng của mọi chính phủ. Một hiệu quả nổi quốc gia. Trọng tâm nhấn mạnh đầu tiên là bật của hệ thống bảo hiểm thất nghiệp là nó thực hiện giáo dục bắt buộc và có tính phổ có thể tạo ra những điều kiện thúc đẩy quá quát, điều này không chỉ là tiền đề cần thiết trình tái cấu trúc các ngành công nghiệp, để thúc đẩy phát triển kinh tế, mà còn được kinh doanh... Đảm bảo an ninh kinh tế có thể cả xã hội nhìn nhận là rất quan trọng để mọi giúp giảm bớt sự chống cự, đối kháng của dân cư có thể thông hiểu mọi văn bản, giáo lí công nhân và người lao động đối với những Kinh thánh và nhận thức luật pháp. Người thay đổi. Các chế độ lợi ích phúc lợi bắt dân đạt trình độ giáo dục phổ thông phổ cập buộc của chính phủ, và bao phủ cho mọi và giáo dục chuyên nghiệp, trình độ cao là người lao động/công nhân không phụ thuộc công cụ để thực hiện công nghiệp hoá, hiện vào điều kiện làm việc đặc biệt hoặc đặc đại hoá nền kinh tế và phát triển kinh tế điểm của nơi làm việc, thời gian của doanh nhanh ngay từ đầu thế kỉ XX. nghiệp... có thể sẽ có lợi cho mức độ linh Các mục tiêu an sinh xã hội và nhà nước hoạt, di động lao động, tác động đến thay đổi phúc lợi có thể nhằm nhiều mục đích như cấu trúc kinh tế và tăng trưởng. Các chế độ đảm bảo nguồn trợ cấp cho thất nghiệp, tuổi bảo hiểm thất nghiệp quốc gia đều cần thể già, ốm đau... Các chính sách an sinh xã hội hiện tính chất thân thiện với lao động-việc cũng thể hiện các ưu tiên chính trị - xã hội, làm.
  7. Mét sè bμi häc... 9 Kinh nghiệm Bắc Âu cho thấy, không trong thị trường lao động. Chính mẫu hình có mối liên hệ trực tiếp giữa phạm vi, qui mô mới này có thể tạo ra sự thay đổi trong hệ nhà nước phúc lợi, mức độ nghĩa vụ thuế, tỉ thống hưu trí và làm cho hệ thống này minh lệ việc làm, năng suất lao động và tăng bạch hơn, không phụ thuộc vào những năm trưởng kinh tế. Ví dụ của Thuỵ Điển, và làm việc tốt nhất, hoặc những năm cuối có Phần Lan vào thập kỉ 1990 cho thấy nhà thu nhập, vì vậy điều công bằng hơn là cần nước phúc lợi dân chủ toàn diện có đủ khả tính toán mức hưu trí dựa trên mức đóng góp năng để thực hiện những điều chỉnh trong của tất cả các năm làm việc của người lao quá trình xây dựng chính sách để kích thích động. tăng trưởng kinh tế mới khi gặp suy thoái _______________________________ hoặc bất đồng. Các nhà nước phúc lợi phát Tài liệu tham khảo triển, với các chế độ an sinh xã hội thông 1. Esping Andersen G, 1990, Three thái có thể vượt qua được khủng hoảng dễ world of capitalism, Princeton. Princeton dàng hơn hoặc với chi phí xã hội ít tốn kém University Press. hơn (về khía cạnh nghèo đói, bất bình đẳng). 2. Esping Andersen G (ed), 1996, An sinh xã hội được coi là “công cụ giảm Welfare states in transition: National global sốc” rất quan trọng. Các thể chế dân chủ có economies. London: Sage publication. thể đáp ứng tốt đối với các thách thức kinh tế xã hội. 3. Esping-Andersen, 1999, Social foundations of Post-industrial economies, Thứ bảy, bài học khác là, trong giai Oxford University Press. đoạn toàn cầu hoá cần thiết phải tăng cường 4. Dally, 2000, The Gender division of củng cố hệ thống an sinh xã hội quốc gia, và welfare, Cambrige University Press. nhiệm vụ này ngày càng trở nên cấp thiết hơn trước. Ví dụ, trong thế giới ngày càng 5. Titmuss R A, 1974, Social policy, toàn cầu hoá mạnh, sự thay đổi nhanh trên London: Allen and Unwin thị trường lao động, mức độ di động lao 6. Stephen, J. D, 1995, The động cao, chế độ việc làm linh hoạt hơn, tình Scandinavian welfare states: Achievements, trạng người lao động "nhảy việc" nhiều hơn crisis and prospects, UNRISD.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2