intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BÁO CÁO " NGHIÊN CỨU NUÔI SINH KHỐI LUÂN TRÙNG SIÊU NHỎ (Brachionus rotundiformis) "

Chia sẻ: Vồng Cầu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

87
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu nuôi sinh khối luân trùng siêu nhỏ được thực hiện với mục tiêu là nhằm ứng dụng trong việc ương nuôi một số ấu trùng cá biển và giáp xác. Nghiên cứu được thực hiện gồm có 1 thí nghiệm để xác định khả năng phát triển của quần thể luân trùng với các tỉ lệ thể tích thu sinh khối khác nhau và ứng dụng nuôi sinh khối luân trùng với thể tích nuôi lớn hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BÁO CÁO " NGHIÊN CỨU NUÔI SINH KHỐI LUÂN TRÙNG SIÊU NHỎ (Brachionus rotundiformis) "

  1. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ NGHIÊN CỨU NUÔI SINH KHỐI LUÂN TRÙNG SIÊU NHỎ (Brachionus rotundiformis) Nguyễn Thị Kim Liên1, Dương Thị Hoàng Oanh1 và Vũ Ngọc Út1 ABSTRACT The objective of this study was developed a procedure for biomass culture of supper-small sized rotifers (Brachionus rotundiformis) to support the production of marine fish and crustacean larvae. A study was conducted in order to determine the development of rotifer community in the culture with different regimes of biomass havest. The rotifers were cultured in a room temperature condition of 28oC and water salinity of 25‰ at a density of 500 ind./mL. They were fed with baker yeast at a feeding rate of 0.4 g per million rotifer per day. Four treatments were randomly designed in the 25 L composite tank system (three replicates each) with different ratios of biomass removal including 15, 20, 25 and 30%/day. The results indicated that treatment of 20% biomass/day resulted in higher biomass production compared to other treatments, with a mean yield of 4 millions rotifers/day/tank throughout 17 days of culture duration. Based on this optimal harvest rate, a trial of mass culture in larger scale was conducted in the out-door system. The rotifers were cultured in three composite tanks with volume of 500 L/tank each, and a harvest rate of 20% biomass/day was applied. With this removal rate, a mean biomass production of 68 millions rotifers/day/tank was obtained. However, the culture period was shorter than that in the indoor system (15 days compared to 17 days, respectively). The environmental parameters such as temperature, pH, NH3 and N-NO2 in the culture were in suitable range for growth of rotifers in both systems. Keywords: Biomass culture, mean yield, rotifer. Title: Study on biomass culture of supper-small sized rotifer (Brachionus rotundiformis) TÓM TẮT Nghiên cứu nuôi sinh khối luân trùng siêu nhỏ được thực hiện với mục tiêu là nhằm ứng dụng trong việc ương nuôi một số ấu trùng cá biển và giáp xác. Nghiên cứu được thực hiện gồm có 1 thí nghiệm để xác định khả năng phát triển của quần thể luân trùng với các tỉ lệ thể tích thu sinh khối khác nhau và ứng dụng nuôi sinh khối luân trùng với thể tích nuôi lớn hơn. Thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện nhiệt độ phòng (28oC), độ mặn 25‰ và được bố trí 1 Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ 302
  2. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ trên 12 bể composite 25 L với 4 nghiệm thức có tỉ lệ thể tích thu sinh khối lần lượt là 15, 20, 25 và 30%/ngày, mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại. Mật độ luân trùng là 500 cá thể/mL, thức ăn đựợc sử dụng là men bánh mì với lượng cho ăn là 0,4 g/1 triệu luân trùng/ngày. Dựa trên tỉ lệ thu sinh khối tốt nhất ở thí nghiệm đầu, phần thực nghiệm nuôi sinh khối luân trùng được bố trí ở ngoài trời và được thực hiện trên 3 bể composite (500 L) với tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày. Nghiệm thức có tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày thì quần thể luân trùng phục hồi nhanh nhất, bình quân số lượng luân trùng thu được khỏang 4 triệu cá thể/ngày trong bể 25 L và duy trì trong khoảng thời gian 17 ngày. Tuy nhiên, khi nuôi sinh khối luân trùng ở ngoài trời thì thời gian nuôi ngắn hơn, chỉ khoảng 15 ngày, số lượng luân trùng thu được trung bình là 68 triệu cá thể/ngày trên bể 500 L. Trong các nghiên cứu trên kết quả cho thấy các yếu tố môi trường bao gồm nhiệt độ, pH, NH3 và N-NO2 đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của quần thể luân trùng. Từ khóa: Nuôi sinh khối, năng suất trung bình, luân trùng 1 GIỚI THIỆU Hiện nay, có rất nhiều loài luân trùng được gây nuôi sinh khối để làm thức ăn cho ấu trùng cá biển và giáp xác giai đoạn nhỏ. Trong đó, luân trùng siêu nhỏ Brachionus rotundiformis được xem là một trong các đối tượng được nuôi phổ biến do chúng có nhiều đặc điểm ưu việc hơn so với các loài luân trùng khác. Bởi vì chúng có kích thước nhỏ, hình dạng tròn, bơi lội chậm, lơ lửng trong nước, dễ dàng được giàu hóa với các dưỡng chất cần thiết, khả năng sinh sản nhanh và được nuôi với mật độ cao (Hoff và Snell, 1989; Snell và Carrillo, 1984; Lubzens và ctv., 1989). Ngoài ra, luân trùng còn có hàm lượng dinh dưỡng cao và enzym cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của ấu trùng cá. Bên cạnh đó, luân trùng siêu nhỏ B. rotundiformis với kích thước trên dưới 100 µm sẽ là nguồn thức ăn ban đầu lý tưởng cho ấu trùng có kích thước nhỏ của các loài cá đối, cá nâu, cá mú… Chẳng hạn như ấu trùng cá mú khi được cho ăn bằng luân trùng siêu nhỏ và Artemia được giàu hóa với n-3 HUFAs sẽ có tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống cao hơn, khả năng chịu đựng được stress tốt hơn khi được cho ăn với các loại thức ăn khác, mật độ luân trùng được duy trì ở mật độ từ 2-3 cá thể/mL cho đến khi ấu trùng cá mú đủ lớn để chuyển sang ăn Artemia và Copepoda trưởng thành (Quinitio, 1996 được trích dẫn bởi Rimmer, 2000). Vì vậy, để chủ động tạo ra sinh khối luân trùng B. rotundiformis phục vụ cho việc sản xuất giống các loài thủy sản nước lợ nên nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là xác định khả năng phát triển của quần thể luân trùng với các tỉ lệ thu sinh khối khác nhau, trên cơ sở đó để mở rộng nuôi sinh khối luân trùng ở qui mô lớn hơn nhằm ứng dụng trong việc ương nuôi một số ấu trùng cá biển và giáp xác. 303
  3. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Thời gian thực hiện: nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2008. - Nguồn nước: Nước có độ mặn khoảng 80‰ được pha với nước ngọt đạt đến độ mặn 25‰. Nước được xử lí bằng Chlorine nồng độ 20-30 ppm trong vòng 24 giờ, sục khí mạnh liên tục. Sau đó được trung hòa bằng Natrithiosulphats, hàm lượng clo dư thừa được kiểm tra bằng dung dịch KI và dung dịch thử là hồ tinh bột. Nước xử lý được để lắng trong vòng 24 giờ, sau đó được lọc qua bông gòn trước khi sử dụng để nuôi luân trùng. - Quá trình nhân giống: luân trùng có nguồn gốc từ Nhật Bản được lấy từ phòng trữ giống luân trùng của Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Luân trùng được nhân giống từ các ống giữ giống có thể tích 50 mL, mật độ nuôi ban đầu là 2 ct/mL, cho ăn bằng tảo Chlorella. Sau đó, luân trùng được nhân ra bình tam giác 0,5 L, khi luân trùng đạt mật độ 200-300 ct/mL sẽ tiến hành chuyển sang bình 8 L, 30 L, 100 L cho đến khi đạt đủ số lượng để bố trí thí nghiệm. - Bố trí thí nghiệm: nghiên cứu gồm có 2 thí nghiệm như sau: Thí nghiệm 1: xác định khả năng phát triển của quần thể luân trùng với các tỉ lệ thể tích thu sinh khối khác nhau. Thí nghiệm được bố trí trong điều kiện phòng trên 12 bể composite có thể tích 30 L (chứa 25 L nước) với 4 nghiệm thức có tỉ lệ thu sinh khối khác nhau lần lượt là 15, 20, 25 và 30%/ngày (NT15, NT20, NT25 và NT30), mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại, bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên. Mật độ nuôi là 500 cá thể/mL, độ mặn 25‰. Thức ăn sử dụng là men bánh mì với lượng cho ăn là 0,4 g/1 triệu luân trùng/ngày, tần suất cho ăn 8 lần/ngày. Hệ thống bể thí nghiệm được sục khí nhẹ nhàng và liên tục. Hình 1: Hệ thống bể luân trùng của thí nghiệm 1 304
  4. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ Thí nghiệm 2: Thử nghiệm nuôi sinh khối luân trùng. Thí nghiệm được thực hiện trên 3 bể 500 L ở điều kiện bên ngoài có mái che, mật độ nuôi 500 cá thể/mL, tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày. Hình 2: Nuôi sinh khối luân trùng của thí nghiệm 2 Các thông số theo dõi của hai thí nghiệm Mật độ luân trùng: Hằng ngày mật độ luân trùng được kiểm ta bằng cách dùng micropipet lấy 50 μl mẫu, mỗi mẫu thu 3 lần, sau đó nhuộm bằng dung dịch lugol. Dùng buồng đếm Bogorov đếm tổng số luân trùng và số luân trùng mang trứng. Mật độ trung bình cho một mẫu là số trung bình của 3 lần đếm. Xác định tỉ lệ mang trứng của luân trùng Tỉ lệ mang trứng = (Số cá thể mang trứng/ tổng số cá thể đếm được) x 100 Các yếu tố thủy lý hóa: pH và nhiệt độ được đo 1 ngày/lần vào lúc 8 giờ sáng, các chỉ tiêu N–NO2- và TAN được thu 3 ngày/lần lúc 8 giờ sáng. Mẫu thu sẽ được lọc qua lưới lọc có kích thước mắt lưới 30 μm, đem trữ lạnh ở điều kiện nhiệt độ 40C. Sau đó các mẫu này được phân tích theo các phương pháp phân tích hiện hành (APHA, 1999) tại phòng phân tích chất lượng nước, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. - Phương pháp xử lý số liệu: các số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel và so sánh thống kê bằng phần mềm SPSS với ANOVA một nhân tố để so sánh độ sai biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở mức P
  5. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ 3.1.1 Các yếu tố môi trường - Nhiệt độ: Thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện phòng với nhiệt độ được duy trì ở 28oC, nhiệt độ nước trong bể nuôi thay đổi không đáng kể so với nhiệt độ phòng (28±0,5oC). Theo Dhert (1996) thì khoảng nhiệt độ thích hợp cho luân trùng sinh sản và phát triển nằm trong khoảng 25-30oC. Nuôi luân trùng ở ngoài khoảng nhiệt độ 20-25 oC sẽ hạn chế được Ciliates (Reguera, 1984). - pH: Giá trị trung bình của pH không có sự biến động lớn giữa các nghiệm thức và nằm trong khoảng tương đối thích hợp cho sự phát triển của luân trùng (7,14-7,19). pH ở các nghiệm thức có xu hướng giảm dần vào cuối thí nghiệm ở tất cả các nghiệm thức, điều này có thể là do lượng thức ăn thừa, xác bã luân trùng chết và phân hủy làm cho tăng khả năng tích tụ các vật chất trong bể nuôi, từ đó làm giảm pH bởi vì theo Dhert (1996) những chất thải ra từ quá trình trao đổi chất của chúng làm gia tăng lượng NO2- và giảm pH. Nhìn chung, pH trong thí nghiệm không ảnh hưởng đến đời sống của luân trùng. - Hàm lượng NH3 (ppm): Kết quả hàm lượng NH3 được tính toán kết quả phân tích hàm lượng TAN trong thí nghiệm và được thể hiện ở Hình 3. Hàm lượng NH3 ở các nghiệm thức tương đối thấp và tăng dần về cuối thí nghiệm, nhưng vẫn còn ở mức thấp, thích hợp cho sự phát triển của luân trùng. Hàm lượng NH3 cao nhất ở NT15 vào ngày thứ 13 (0, 32±0,02mg/l), điều này là do quá trình thay nước hàng ngày đã làm cho hàm lượng NH3 không tăng cao vào cuối thí nghiệm. Theo Dhert (1996) hàm lượng NH3 dưới 1 ppm là an toàn cho quần thể luân trùng Brachionus plicatilis phát triển. Bên cạnh đó, Groeneweg và Schluter (1981) cho rằng với hàm lượng NH3 nhỏ hơn 3 ppm thì không gây độc cho luân trùng Brachionus rubens. 0.350 NT15 0.300 NT20 0.250 NT25 NH3 (ppm) 0.200 NT30 0.150 0.100 0.050 0.000 Ngày 0 3 6 9 12 Hình 3.1: Biến động hàm lượng NH3 ở thí nghiệm 1 - Hàm lượng N-NO2- (ppm): Hàm lượng N-NO2- không có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức và biến động trong khoảng 0,027-0,174 ppm. Theo Groeneweg và Schluter (1981) hàm lượng N-NO2- từ 10-20 ppm không gây 306
  6. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ độc cho luân trùng Brachionus rubens. Như vậy, hàm lượng N-NO2- rất thấp trong các bể nuôi sẽ không gây độc cho quần thể luân trùng. Nhìn chung, trong suốt quá trình thí nghiệm các yếu tố nhiệt độ, pH, NH3 và N-NO2- được duy trì phù hợp cho sự phát triển của quần thể luân trùng. 3.1.2 Sự phát triển của luân trùng Thí nghiệm được thực hiện trong thời gian 17 ngày. Kết quả cho thấy ở nghiệm thức NT20 luân trùng phục hồi nhanh nhất sau mỗi lần thu và đạt mật độ cao nhất ở hầu hết các đợt thu mẫu. Mật độ trung bình cũng đạt cao nhất ở nghiệm thức NT20 là (850 ± 229 cá thể/mL) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P
  7. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ Kết quả đo kích thước 30 mẫu luân trùng cho thấy khi luân trùng được cho ăn hoàn toàn bằng men bánh mì có chiều dài trung bình là 142,2 ± 19,74 µm và chiều rộng 131,58±21,49 µm. Bảng 1: Mật độ luân trùng của thí nghiệm 1 và thu hoạch theo các tỉ lệ thu khác nhau Ngày NT15 NT20 NT25 NT30 1 689±38a 666±128a 677±57a 692±29a 2 703±46a 658±58a 681±184a 642±120a 3 622±155b 719±92c 689±60b 514±19a 4 769±391b 897±24c 672±139b 469±113a 5 811±229b 1.067±304c 543±27a 536±76a 6 580±67a 689±83b 639±183ab 509±38a 7 969±441a 1.045±254a 819±303a 530±54a 8 872±302b 1.128±404c 589±42a 494±63a 9 1.139±592c 1.411±531c 836±207b 494±75a 10 664±64b 839±60c 489±73a 483±96a 11 539±54a 717±104b 524±26a 475±36a 12 564±17a 833±84b 522±51a 464±100a 13 622±108a 772±111b 553±48a 439±26a 14 486±65a 791±22b 517±88a 419±13a 15 375±80a 617±73b 378±29a 295±29a 16 250±50a 600±68b 300±55a 225±95a 17 150±100a 450±45b 250±65a 100±45a TB 694±195b 850±229c 609±124b 497±91a Các trị số trong cùng một hàng có cùng ký tự thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) 3.1.3 Số lượng luân trùng thu được Số lượng luân trùng thu được thể hiện ở Bảng 2. Kết quả cho thấy bình quân số lượng luân trùng thu được cao nhất ở nghiệm thức NT20 (4±1, 14 triệu cá thể/ngày) nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0, 05) so với NT25 và NT30. Số lượng luân trùng thu được đạt thấp nhất ở NT15 (2, 4±0,08 triệu cá thể/ngày) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P
  8. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ hơn so với các nghiệm thức khác vào cuối thí nghiệm (0,32 ppm). Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của quần thể luân trùng và được thể hiện rõ thông qua số lượng luân trùng giảm dần kể từ ngày thứ 9. Mặc dù hai nghiệm thức NT25 và NT30 có tỉ lệ thu sinh khối cao hơn NT20, nhưng do mật độ luân trùng đạt được ở hầu hết các đợt thu mẫu thấp hơn, nên số lượng luân trùng thu được luôn thấp hơn so với NT20. Ngoài ra, tỉ lệ thu sinh khối cao nên quần thể luân trùng không có khả năng phục hồi sau khi bố trí nghiệm (ngày thứ 4 đối với NT30) và vào cuối thí nghiệm (ngày thứ 10 đối với NT25), trong khi đó ở NT20 quần thể luân trùng vẫn duy trì được đến ngày thứ 17. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng để có thể ứng dụng nuôi và thu sinh khối luân trùng trong quá trình sản xuất giống nhân tạo các giống lòai thủy sản nước lợ vì quá trình ương cá và giáp xác đều có thời gian ương kéo dài từ 6-30 ngày. Như vậy, việc chọn lựa tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày là hoàn toàn phù hợp để nuôi sinh khối luân trùng siêu nhỏ. Bảng 2: Số lượng luân trùng thu được (triệu cá thể/ngày) theo các tỉ lệ thu họach khác nhau Ngày NT15 NT20 NT25 NT30 1 2,585±0,143a 3,330±0,640ab 4,229±0,356b 5,187±0,217b 2 2,635±0,172a 3,291±0,291b 4,254±1,148b 4,812±0,9b 3 2,333±0,582a 3,596±0,459b 4,304±0,376c 3,85±0,142bc 4 2,885±1,465a 4,485±0,121b 4,202±0,865b 3,520±0,848a 5 3,041±0,857a 5,333±1,520b 3,391±0,165a 4,022±0,567b 6 2,176±0,251a 3,443±0,416b 3,993±1,143b 3,815±0,286b 7 3,635±1,654a 5,223±1,70b 5,120±0,189b 3,977±0,405a 8 3,271±1,130a 5,640±2,022c 3,679±0,261b 3,707±0,468b 9 4,271±2,221b 7,055±2,654c 5,227±0,129b 3,707±0,561a 10 2,488±0,238a 4,193±0,3b 3,054±0,455a 3,625±0,723a 11 2,020±0,201a 3,583±0,520b 3,277±0,162b 3,560±0,270b 12 2,113±0,064a 4,166±0,421b 3,264±0,317b 3,477±0,747b 13 2,333±0,405a 3,861±0,554b 3,456±0,297b 3,292±0,191b 14 1,822±0,242a 3,956±0,108b 3,229±0,549b 3,145±0,094b 15 1,406±0,299a 3,085±0,363ab 2,360±0,181b 2,210±0,218b 16 0,937±0,34a 3±0,67c 1,875±0.97b 1,687±0,63b 17 0,562±,13a 2,22±0,354c 1,562±0,321b 0,75±0,345a Trung bình 2,4±0,08a 4,0±1,14b 3,5±0,776b 3,4±0,67ab Tổng cộng 41,417 ±9,3 68,963±14,914 60,479±13,331 58,35±13,06 Các trị số trong cùng một hàng có cùng ký tự thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) 309
  9. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ Với kết quả của thí nghiệm này, có thể tính được năng suất luân trùng dựa trên số lượng luân trùng thu được và tổng lượng men bánh mì đã sử dụng trong thí nghiệm. Kết quả cho thấy 1 g men bánh mì có thể sản xuất được khoảng: 436.860, 627.612, 799.711, 1.021.003 luân trùng tương ứng với NT15, NT20, NT25, NT30 (Bảng 3). Bảng 3: Hiệu suất sử dụng men bánh mì của luân trùng ở thí nghiệm Nghiệm thức Tổng lượng Tổng số lượng Hiệu suất Luân trùng/1g MBM (g/bể) LT (cá thể/bể) (g/1 triệu LT) MBM NT15 92,75 40.518.750 2,29 436.860 NT20 109,93 68.993.333 1,59 627.612 NT25 75,16 60.106.251 1,25 799.711 NT30 56,61 57.799.000 0,98 1.021.003 Kết quả này tương tự như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv. (2008), khi nuôi sinh khối luân trùng siêu nhỏ thì 1 g men bánh mì có thể sản xuất được khoảng 637.000-714.000 luân trùng. Nhưng nếu so sánh với nghiên cứu của Hirano (1987) thì kết quả này cao hơn rất nhiều. Theo tác giả này thì 1g men bánh mì chỉ có thể sản xuất được 80.000 luân trùng Brachionus plicatilis và 100.000 luân trùng Brachionus rotundiformis. Mặc dù hiệu suất sử dụng men bánh mì ở NT20 không cao so với NT25 và NT30, tuy nhiên với tỉ lệ thu 20%/ngày thì thời gian thu sinh khối luân trùng sẽ được kéo dài hơn và số lượng luân trùng thu được cũng cao hơn so với các nghiệm thức khác. Như vậy, nuôi luân trùng bằng men bánh mì với các tỉ lệ thu sinh khối khác nhau thì số lượng luân trùng đạt được khá cao, có thể ứng dụng trong việc làm thức ăn cho ấu trùng cá và giáp xác. 3.2 Thí nghiệm 2: Thử nghiệm nuôi sinh khối luân trùng 3.2.1 Các yếu tố môi trường - Nhiệt độ và pH: Thí nghiệm 2 được tiến hành ở điều kiện bên ngoài, có mái che, nên nhiệt độ nước trong các bể nuôi tương đối cao hơn (29,79±0,63oC) so với nhiệt độ nước ở thí nghiệm 1 (28±0,5oC). Giá trị trung bình của pH (7,19±0,08) không có sự chênh lệch lớn giữa hai thí nghiệm và nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của luân trùng. - Hàm lượng NH3 (ppm): Hàm lượng NH3 có khuynh hướng tăng dần theo thời gian nuôi (từ 0,04 đến 0,46) và không có sự khác biệt lớn so với thí nghiệm 1. Hàm lượng NH3 được sinh ra từ quá trình phân hủy của các chất hữu cơ, sự tích tụ thức ăn dư thừa và các sản phẩm thải của luân trùng, nên hàm lượng NH3 có khuynh hương tăng cao vào cuối thí nghiệm. Theo Hoff và Snell 310
  10. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ (2004) thì hàm lượng NH3 trong bể nuôi luân trùng không nên vượt quá 1ppm. Như vậy, hàm lượng NH3 không ảnh hưởng đến sự phát triển của luân trùng. - Hàm lượng N-NO2 (ppm): Theo Groeneweg và Schluter (1981) thì hàm lượng N-NO2 từ 10-20 ppm không gây độc cho luân trùng. Do đó, với hàm lượng N-NO2 của thí nghiệm 2 biến động trong khoảng 0,03-0,13 ppm thì không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và phát triển của luân trùng. 3.2.1 Sự phát triển của luân trùng Mật độ luân trùng (ct/mL) 1000 900 800 700 600 500 400 300 200 100 0 Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Hình 5: Mật độ luân trùng của thí nghiệm 2 100 90 Số lượng LT thu đựợc 80 (triệu LT/ngày) 70 60 50 40 30 20 10 0 Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Hình 6: Số lượng luân trùng thu được ở thí nghiệm 2 Mật độ luân trùng của thí nghiệm 2 được trình bày ở Hình 5. Nuôi sinh khối luân trùng trên bể 50 0L, kết quả cho thấy đỉnh cao mật độ luân trùng đạt được ở giai đọan sau 6-7 ngày (840 cá thể/mL) và 11-12 ngày nuôi (900 cá thể/L). Trung bình mật độ luân trùng thu được hàng ngày là 681 cá thể/mL, nếu so sánh với kết quả của thí nghiệm 1 (850 cá thể/mL) thì mật độ luân trùng đạt được ở thí nghiệm 2 của hầu hết các đợt thu mẫu đều thấp hơn. Bình quân số lượng luân trùng thu được hàng ngày là khoảng 68 triệu luân trùng/bể (500 L) và tổng số lượng luân trùng thu được trong suốt giai đoạn nuôi là khoảng 1 tỉ luân trùng (Hình 6). Như vậy khi nuôi sinh khối luân trùng ở điều kiện bên 311
  11. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ ngoài thì quần thể luân trùng duy trì được thời gian ngắn hơn (15 ngày) so với nuôi luân trùng ở điều kiện phòng thí nghiệm (17 ngày). Điều này cho thấy khả năng sinh sản và phát triển của luân trùng sẽ bị ảnh hưởng khi chuyển từ môi trường nuôi ở điều kiện phòng với qui mô nhỏ sang môi trường bên ngoài với qui mô lớn hơn. Hiện nay, nuôi sinh khối luân trùng siêu nhỏ có thể ứng dụng trong việc ương nuôi cá và giáp xác giai đoạn mới nở, chẳng hạn như quá trình ương cua cần sử dụng luân trùng liên tục trong thời gian khoảng 17 ngày, giai đoạn Zoae 1-Zoae 3 với mật độ 25 cá thể/mL cho ấu trùng cua đạt tỉ lệ sống 96%, cao hơn so với việc sử dụng Artemia bung dù. Đến giai đoạn từ Zoae 3-Megalopa, cho ăn kết hợp luân trùng và Artemia bung dù với mật độ luân trùng 5 cá thể/mL cũng cho ấu trùng cua đạt tỉ lệ sống cao (56%). Bên cạnh đó, theo Assavaaree et al., (2003) để ương 1 triệu ấu trùng cá mú giai đoạn nhỏ hơn 4 ngày tuổi cần 1,5 tỉ luân trùng siêu nhỏ Brachionus rotundiformis. Như vậy với số lượng luân trùng thu được khoảng 1 tỉ luân trùng/bể 500 L trong thời gian 15 ngày của thí nghiệm 2 có thể ứng dụng vào việc sản xuất các giống loài thủy sản nước lợ, do đó tùy thuộc vào số lượng luân trùng cần sử dụng trong quá trình ương nuôi cá và giáp xác mà ta có thể bố trí nuôi sinh khối luân trùng với thời gian và thể tích bể nuôi cho phù hợp. 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1 Kết luận - Nuôi luân trùng trong điều kiện phòng thí nghiệm trên bể 25 L, mật độ ban đầu 500 cá thể/mL, thức ăn là men bánh mì 0,4 g/1 triệu LT/ngày và tỉ lệ thu sinh khối 20%/ngày thì quần thể luân trùng phục hồi nhanh nhất, trung bình số lượng luân trùng thu được hàng ngày là 4 triệu cá thể/bể và duy trì được thời gian nuôi 17 ngày. - Thực nghiệm nuôi sinh khối luân trùng trên các bể 500 lít ở điều kiện bên ngoài thì mật độ luân trùng thu được hằng ngày là 68 triệu luân trùng/bể và duy trì được thời gian 15 ngày. 4.2 Đề xuất - Tiếp tục nghiên cứu nuôi luân trùng siêu nhỏ Brachionus rotundiformis với các loại thức ăn khác nhau như tảo, tảo kết hợp men bánh mì với các tỉ lệ khác nhau nhằm nâng cao năng suất của luân trùng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Assavaaree M., A. hagiwara, T. Kogane and M. Arimoto, 2003. Effect of temperature on resting egg formation of the tropical SS-type rotifer Brachionus rotundiformis Tschugunoff. Fisheries Science 69: 520-528. 312
  12. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản lần 4: 302-313 Trường Đại học Cần Thơ Dhert, Ph., 1996. “Rotifer”, Manual on the production and use of live food for aquaculture, P. Sorgeloos and P. Lavens (Eds). Published by arrangement with the Food and Agriculture Organization of the United Nations by Ministry of Fisheries of Vietnam. Dương Thị Hoàng Oanh, 2005. Nghiên cứu cải tiến hệ thống nuôi thâm canh luân trùng Brachionus plicatilis. Luận văn Thạc sĩ ngành Nuôi trồng thủy sản, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. Groeneweg, J. and Schluter, 1981. Mass production of freshwater rotifer on liquid wastes II. Mass production of Brachionus rubens Ehrenberg 1838 in the effluent of high rate alga ponds used fot the treatment of piggery waste. Aquaculture 25: 25-33. Hoff, H. and T.W. Snell, 2004. Plankton culture manual. 6nd edition. Florida Aqua Farms, Florida. Nguyễn Thanh Phương, Bùi Minh Tâm, Lý Văn Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên, Dương Nhựt Long, Nguyễn Thanh Hiệu, Nguyễn Hoàng Thanh, Trần Tấn Huy, Trần Ngọc Hải, Lê Quốc Việt, Trần Thị Thanh Hiền, Vũ Ngọc Út và Nguyễn Huấn, 2008. Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống các loài thủy sản bản địa Đồng bằng sông Cửu Long. Đề tài cấp Nhà nước. Reguera B. 1984. The effect of ciliates contamination in mass culture of the rotifer, Brachionus plicatilis O.F.Muller. Aquaculture 40: 103-108. Hoff, H. and T.W. Snell, 1989. Plankton culture manual. 2nd edition. Florida Aqua Farms, Florida. Lubzens, E., A. Tandker and G. Minkoff, 1989. Rotifer as food in aquaculture. Hydrobiologia. 186/187: 387-400. Snell, T. W. and Carrillo, 1984. Body size variation among strain of Rotifer Brachionus plicatilis. Aquaculture 37: 359-367. Rimmer, 2000. Review of grouper hatchery technology. The Grouper Aquaculture Electronic Newsletter. 313
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2