intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo thực tập tốt nghiệp: Sự di chuyển lao động từ khu vực công sang khu vực tư ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Ngoc Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:57

64
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu: Cơ sở lý luận chung và thực trạng của thị trường lao động trong nước, phân biệt giữa khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước trong nền kinh tế; thực trạng dao động cung cầu giữa các khu vực kinh tế, cũng như những tác động do sự di chuyển từ khu vực Nhà nước sang các khu vực ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo thực tập tốt nghiệp: Sự di chuyển lao động từ khu vực công sang khu vực tư ở Việt Nam

  1. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn chủ đề Trong thời đại hiện nay, khi mà hầu hết các nước trên thế  giới đang hướng   đến một nền kinh tế năng động và phát triển, nền kinh tế đa thành phần đang là một  ưu thế.  Ở  nền kinh tế  đa thành phần đó luôn tồn tại hai khu vực: “khu vực kinh tế  Nhà nước”( khu vực công) và khu vực kinh tế Tư nhân( khu vực tư). Trong đó, kinh tế  nhà nước đóng vai trò chủ lực và kinh tế  tư  nhân là động lực phát triển của nền kinh  tế. Hai khu vực kinh tế  này chính là hai nhân tố  chính đóng góp vào sự  tăng trưởng  kinh tế, cũng như chiếm một tỉ trọng rất cao trong GDP và trong việc  Và bao giờ cũng vậy, để phát triển kinh tế thì không thể không nói đến yếu tố  “nguồn lao động”. Rõ ràng, đây là một yếu tố  có ảnh hưởng rất lớn. Nếu nguồn lao   động có chất lượng cao thì quá trình phát triển kinh tế  cũng sẽ  thuận lợi và dễ  dàng  hơn. Tuy nhiên, một thực tế đang trở thành vấn nạn hiện nay đó chính là sự di chuyển   của các nguồn lao động, đặc biệt là nguồn lao động có chất lượng ( lực lượng tri   thức). Ở  phạm vi trong nước, đó chính là sự  di chuyển của lực lượng lao động từ  khu vực này sang khu vực khác, hay từ ngành này sang ngành khác. Nổi bật nhất vẫn là   sự di chuyển của các nguồn lực lao động từ khu vực công ( khu vực kinh tế nhà nước)   sang khu vực tư ( khu vực kinh tế tư nhân) hoặc ngược lại.   Có thể  hiểu vấn đề  trên là một hệ  quả  tự  nhiên của sự  phát triển. Tất cả  chúng ta bao gồm cán bộ  công nhân viên chức đều muốn có một cuộc sống tốt đẹp  hơn, được phát triển, đóng góp nhiều cho xã hội, vì vậy ở đây không có gì là sai khi họ  rời khỏi nhà nước để  tạo điều kiện sống tốt hơn cho mình. Nhưng nếu việc làm này  ngày càng phổ biến, đội ngũ cán bộ công chức hoạt động trong Nhà nước có nguy cơ  bị  thiếu hụt hay không đảm bào chất lượng thì nó sẽ  trở  thành một vấn đề  lớn cần   được quan tâm một cách nghiêm túc. Vì vậy chúng ta phải tự  hỏi: tại sao họ  lại  
  2. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  2 chuyển từ khu vực công sang khu vực tư ? Những yếu tố nào đã tác động đến họ? Đặc  biệt, hiện tượng này có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực như thế nào đối với quá  trình phát triển kinh tế của các nước đang tồn tài vấn nạn này? Để từ đó xem xét xem   có giải pháp và chính sách nào để có thể  hạn chế hiện tượng này? Để  có câu trả  lời,   tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện đề  tài: “ Sự  di chuyển lao động từ  khu vực   công sang khu vực tư ở Việt Nam” . 2. Mục tiêu nghiên cứu  Mục tiêu nghiên cứu của bài tiểu luận nhằm hiểu một cách sâu sắc hơn các   vấn đề cụ thể như sau:  Cơ sở lý luận chung và thực trạng của thị trường lao động trong nước  Phân biệt giữa khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước trong nền   kinh tế.   Thực trạng dao động cung cầu giữa các khu vực kinh tế, cũng như những   tác động do sự di chuyển từ khu vực Nhà nước sang các khu vực ngoài. Trên cơ  sở  đó đưa ra một số  ý kiến đóng góp về  hạn chế  sự  di chuyển lao  động từ khu vực công sang khu vực tư, đảm bảo cân đối giữa các khu vực kinh tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là thực trạng tình hình di chuyển lao   động từ khu vực Nhà nước sang các khu vực khác và những tác động do sự  dao động  trên đối với nền kinh tế chung.  Phạm vi nghiên cứu: đi sâu vào thực trạng cụ  thể  tại địa bàn thành phố  Hồ  Chí Minh 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề  tài tôi có sử  dụng kiến thức thông qua việc   nghiên cứu các loại tài liệu, nghiên cứu bằng các phương pháp như: phương pháp trao 
  3. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  3 đổi trực tiếp, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích   số liệu. 5. Nguồn số liệu Nguồn số liệu được thu thập dựa trên : Báo cáo thường niên của Bộ  Lao Động, Thương Binh­Xã hội về  số  lao  động di chuyển giữa các khu vực kinh tế. Nguồn ADB do Bộ  Tài Chính cung cấp về  mức thu nhập giữa các khu  vực kinh tế. Các số liệu khác thu thập trên các website có liên quan. 6. Kết cấu Với đề  tài nghiên cứu cụ  thể  về  sự  di chuyển lao động giữa khu vực Nhà   nước sang các khu vực ngoài, đồng thời trong phạm vi nghiên cứu học tập nên bài tiểu  luận gói gọn trong phần nội dung gồm 3 chương:  Chương 1: Cơ sở lý luận chung.  Chương 2: Thực trạng sự di chuyển lao động từ khu vực Nhà nước sang  các khu vực Tư nhân.  Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế  sự  di chuyển lao động từ  khu vực  Nhà nước sang các khu vực khác.
  4. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  4 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I  CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG  1. Một số khái niệm 1.1. Khu vực Nhà nước (Khu vực công) Khu vực Nhà nước được xem là một khái niệm quan trọng trong các học   thuyết kinh tế­chính trị.  Xét  ở  góc độ  kinh tế thì khu vực Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong  nền kinh tế  thị  trường. Nó bao gồm các bộ  phận sản xuất và phân phối được tài trợ  bởi các cơ quan Nhà nước. Xét  ở  góc độ  chính trị  thì khái niệm “công” thường liên quan đến các hoạt  động hoặc các đặc điểm của Nhà nước nói chung, đặc biệt là Chính phủ. Xét theo  nghĩa này thì khu vực Nhà nước bao gồm chính quyền Trung  Ương, chính quyền địa   phương và các doanh nghiệp Nhà nước.
  5. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  5 Tóm lại, có thể  nói khu vực Nhà nước là tổng thể  các tổ  chức kinh tế, văn   hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà nước đầu tư, cấp  phát tài chính toàn bộ hay bộ phận quan trọng nhất, do Nhà nước trực tiếp quản lý, tổ  chức nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất­tinh thần, những dịch vụ công cộng phục  vụ đời sống nhân dân và lợi ích toàn xã hội . 1.2. Khu vực ngoài Nhà nước (Khu vực tư) Khu vực ngoài Nhà nước  bao gồm tất cả các nhà cung cấp, các công ty, dịch  vụ đã tồn tại ở bên ngoài khu vực Nhà nước. Hiện nay, kinh tế tư nhân được hiểu là   một nhóm các thành phần kinh tế, bao gồm cơ sở sản xuất, hộ nông nhân cá thể  và   tiểu chủ, hộ  sản xuất kinh doanh dịch vụ, thương mại  ở  thành thị; doanh nghiệp tu   nhân. Kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là bộ phận hợp  thành hữu cơ quan trọng của nền kinh tế của các quốc gia và ngày càng tỏ rõ sự năng   động cũng như tính hiệu quả của nó trong nền kinh tế thị trường. Ba hình thức tham gia của khu vực tư nhân tồn tại đó là : cho lợi nhuận, không  phải cho lợi nhuận và doanh nghiệp xã hội.  Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, khu vực kinh tế tư nhân không thể  tránh khỏi những hạn chế nhất định. Quá trình phát triển đa dạng các thành phần kinh   tế ngày càng được mở rộng thì tất yếu nó sẽ gây ra một số trở ngại nếu như nền kinh   tế không được kiểm soát một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, không thể vì thế mà chúng ta   phủ nhận vai trò không kém phần quan trọng của khu vực kinh tế này. 2. Các tiêu chí phân biệt khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân Có 3 tiêu chí phân biệt giữa hai khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân:  Chế độ sở hữu  Mục đích hoạt động  Nguồn vốn
  6. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  6  Chế độ quản lý STT Tiêu chí Khu vực kinh tế Nhà nước Khu vực kinh tế tư nhân 1 Chế   độ   sở  Sở   hữu   toàn   dân   do   Nhà  Sở hữu tư nhân hữu nước đại diện  2 Mục đích hoạt  Vì lợi ích toàn dân Vì   lợi   nhuận   của   chính  động doanh   nghiệp,   tổ   chức,   cá  nhân, hộ gia đình… 3 Nguồn vốn Thuế, ngân sách Nhà nước Từ   nguồn   vay,   tích   lũy   tự  có… 4 Chế   độ   quản  Chế   độ   công   quản,   mệnh  Tự  quản lý, điều hành trực  lý lệnh hành chính… tiếp hoặc gián tiếp Khu vực Nhà nước bao gồm : Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực  sản xuất, khinh doanh và dịch vụ, hay doanh nghiệp công tư  hợp doanh với người   nước ngoài…; các tổ  chức tài chính tín dụng công đặc biệt là ngân sách Nhà nước và  các Ngân hàng Nhà nước; các tổ  chức, cơ quan làm công tác liên quan đến tài nguyên  đất nước, khoáng sản, kết cấu hạ tầng kinh tế­xã hội; các cơ sở văn hóa­xã hội công;  hệ thống về tổ chức các hoạt động của bộ máy Nhà nước… Khu vực kinh tế  tư  nhân chính thức và không chính thức bao gồm : Các tổ  chức, tổng công ty, các cá nhân cung cấp dịch vụ; các hiệp hội chuyên nghiệp, bên  cạnh đó còn có quốc gia và các tổ  chức phi chính phủ  quốc tế  và một số  tổ  chức từ  thiện… Trong nền kinh tế của một quốc gia, bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước thì  khu vực kinh tế tư nhân là một thành phần không thể thiếu được. Cả hai khu vực kinh   tế  đều là hai cánh tay đắc lực, hỗ  trợ  lẫn nhau trong quá trình đưa nền kinh tế  đất  nước đi lên. 3. Các lý thuyết về di chuyển nguồn nhân lực 
  7. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  7 3.1. Mô hình Lewis Theo mô hình của Lewis, nền kinh tế  được chia thành hai khu vực đối lập   nhau là nông nghiệp (khu vực truyền thống) và công nghiệp (khu vực hiện đại) và ông  chủ yếu nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực trên. Trong đó, khu  vực nông nghiệp là khu vực lạc hậu, dư thừa lao động, có năng suất biên bằng không   còn khu vực công nghiệp lại thiếu lao động. Vì vậy, khu vực công nghiệp phải lôi kéo   lao động từ  nông thôn bằng cách trả  mức lương cao hơn mà theo Lewis thì mức tiền  lương phải trả  cao hơn khoảng 30% so với mức tiền lương tối thiểu. Việc lao động   từ  khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp không làm giảm tổng sản  phẩm nông nghiệp. Mô hình hai khu vực của Lewis cho thấy, mức chênh lệch tiền lương thực tế  là nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển lao động giữa hai khu vưc và nhu cầu thu hút   lao động lao động của khu vưc công nghiệp là theo khả năng tích lũy vốn của khu vực   này. 3.2. Mô hình Haris­Todaro Đây là mô hình đầu tiên giải thích tại sao tình trạng thất nghiệp lại tồn tại  ở  các nước đang phát triển và tại sao người dân từ nông thôn vẫn chuyển tới thành thị dù  thất nghiệp ở thành thị vẫn cao. Giả định chính của mô hình là dân di cư tiềm năng là   những người ra quyết định hợp lẽ và phản ứng theo những động cơ kinh tế. Họ quyết  định di cư  do sự  khác biêt về  tiền lương giữa nông thôn và thành thị. Khả  năng tìm   được việc làm ở thành thị cũng liên quan trực tiếp đến tỷ lệ việc làm ở thành thị. Như  vậy, vấn đề di cư ra thành thị có thể mang lại lợi ích cá nhân cho người nhập cư. Nếu   mức thu nhập của họ lớn hơn thu nhập thực tế  ở nông thôn thì họ vẫn di cư dù cho ở  thành thị đang tồn tại tỷ lệ thất nghiệp cao. Xác suất tìm được việc ở  thành thị  tỷ  lệ  nghịch với tỷ lệ thất nghiệp  ở thành thị. Lý thuyết di dân của Harris­ Todaro còn cho   rằng khi chênh lệch giữa hai khu vực này tương đối lớn thì tỷ  lệ  di dân sẽ  vượt quá   tốc độ tăng trưởng việc làm ở thành thị.
  8. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  8 3.3. Lý thuyết “mới” về di dân Katz và Start (1986) giải thích quá trình di dân như  là một phương thức để  giảm thiểu rủi ro. Tại các nước đang phát triển có sự  chênh lệch lớn  ở  nông thôn so  với thành thị, đặc biệt là thị  trường vốn, do đó người dân muốn di cư  ra thành thị  để  giảm thiểu những rủi ro do sự yếu kém của nông thôn mang lại. Hai ông đưa ra khái niệm “sự thua thiệt tương đối” để phân tích hiện tượng di   dân ở các nước đang phát triển. Một người có động cơ mạnh mẽ khi di cư từ nơi này  sang nơi khác sẽ  nhận thấy sự thua thiệt tương đối giảm xuống và mức độ  hài lòng  về nơi ở mới tăng lên. Động cơ sẽ không lớn nếu sự hài lòng và thua thiệt tăng lên hay  giảm xuống cùng mức. Di dân cũng là một cách đa dạng hóa rủi ro. Khi mức thu nhập   ở các vùng là khác nhau, một gia đình có thể giảm tổng rủi ro bằng cách gửi một thành   viên đến một nơi khác. 4. Di chuyển lao động trên thị trường lao động Việt Nam 4.1. Các yếu tố tác động đến việc di chuyển nguồn nhân lực Hoạt động của cung cầu lao động trên thị trường lao động thúc đẩy di chuyển  lao động, làm thay đổi cung cầu lao động trên các loại thị trường khác nhau. Các dòng  di chuyển lao động trên thị trường có tính quy luật, chịu sự tác động của nhiều yếu tố  như:  Môi trường làm việc:  ở  đâu môi trường làm việc tốt, thoải mái, giá trị  lao động cao, phù hợp với năng lực và trình độ của mình thì ở đó thu hút lực lượng lao   động tới. Nhân tố  việc làm: nơi nào kiếm được việc làm dễ  dàng thì chắc chắn   lực lượng lao động sẽ tập trung cao hơn. Khả  năng phát triển trong tương lai: Nơi nào bảo đảm cho người lao  động có khả năng thăng tiến dễ dàng hơn, thuận lợi cho cuộc sống trong tương lai thì   có luồng di chuyển nhân lực đến.
  9. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  9 Thu nhập: Nơi nào cáo mức lương và thu nhập cao, đảm bảo cho cuộc  sống thì lao động tập trung cao. Điều   kiện   tự   nhiên:  Là   những  nơi   có   điều   kiện   khí   hậu   thuận   lợi,   nguồn nước, cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại thuận tiện… Phong tục tập quán­sự quản lý của địa phương:  Nơi có sự quản lý dễ  dãi, phong tục tập quán thân thiện với người từ nơi khác đến cũng là một trong những  yếu tố thu hút dòng di chuyển đến đây nhiều. Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ 2 phía doanh nghiệp và người lao   động:  Doanh nghiệp: Doanh nghiệp có môi trường làm việc thoải mái, thân   thiện, được sự quan tâm, chú ý nhiều từ cấp trên thì chắc chắn cũng sẽ  thu hút một lượng lao động đến đây.  Người lao động: vì một số lý do cá nhân, gia đình hoặc sở thích… nên   di chuyển đến nơi khác làm việc. 4.2. Các dòng di chuyển cơ bản trên thị trường lao động trong nước 4.2.1. Dòng di chuyển lao động nông thôn đi xây dựng kinh tế mới Trước những năm 90, dòng di chuyển dân cư  và lao động lớn nhất là dòng di  chuyển theo các chương trình của Chính Phủ  đi xây dựng vùng kinh tế  mới  ở  miền  núi, hải đảo, nhằm giảm bớt áp lực dân số  và lao động  ở  các vùng đồng bằng đông   dân ít đất. Di dân và lao động khai hoang phát triển nông nghiệp, hình thành các điểm   kinh tế  mới, nhằm khai thác hiệu quả  hơn nguồn lao động xã hội và các tiềm năng   thiên nhiên của đất nước, gắn với củng cố và bảo vệ an ninh quốc phòng. Dòng di chuyển này chịu tác động chủ  yếu từ  các chính sách, kế  hoạch của  Chính Phủ, di chuyển lao động không phải do tác động của quy luật cung cầu lao   động trên thị trường. Vì vậy, hiệu quả chung của di chuyển cung lao động và điều tiết   cung­cầu lao động giữa các vùng, các địa phương còn thấp.
  10. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  10 4.2.2. Dòng di chuyển lao động nông thôn đến thành thị Trước đổi mới (1986), dòng di chuyển lao động nông thôn đến thành thị  bị  hạn chế và số lượng không đáng kể. Những năm sau 1986, các chính sách cải cách khu  vực nông nghiệp, xóa bỏ chế độ  bao cấp trong phân phối, tiền tệ hóa tiền lương, tốc   độ  đô thị  hóa được đẩy nhanh, cải cách chế  độ  hộ  khẩu…đã có tác dụng thúc đẩy  dòng di chuyển từ nông thôn nhập cư vào các thành phố làm việc. Dòng di chuyển nông thôn đến thành thị  mang tính quy luật, do sự  chi phối   của quy luật cung cầu lao động trên thị  trường lao động. Dòng di chuyển này có xu  hướng phát triển nhanh trong tương lai, đặc biệt ở địa bàn đang đẩy nhanh quá trình đô   thị hóa, công nghiệp hóa. 4.2.3. Dòng di chuyển Bắc­Nam Dòng di chuyển lao động từ  miền Bắc vào miền Nam và từ  miền Nam ra   miền Bắc khá phát triển từ  1991 trở  lại đây. Nguyên nhân thúc đẩy dòng di chuyển   này  do:  mức   tiền  lương,   thu  nhập  ở   miền  Nam  cao  hơn;  tập  trung   các   khu  công   nghiệp, khu chế xuất tại miền Nam nhiều hơn; đối với miền Bắc thì phát triển một   số ngành nghề mới nên cũng thu hút một lượng lao động miền Nam ra làm việc. Di chuyển lao động Bắc­Nam là hiện tượng có tính quy luật, do quan hệ cung   cầu trên thị  trường lao động quyết định. Quy mô và mức độ  sôi động của dòng di   chuyển lao động này phản ánh mức độ  phát triển và năng động của thị  trường lao   động. 4.2.4. Dòng di chuyển lao động từ  khu vực kinh tế  Nhà nước sang khu vực   kinh tế khác. Dòng di chuyển lao động từ khu vực Nhà nước sang các khu vực kinh tế khác  diễn ra khá sôi động, bắt đầu trong những năm 1990­1996. Trong đó dòng di chuyển 
  11. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  11 với quy mô lớn hơn là sang khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có nguồn vốn   đầu tư nước ngoài.  Từ 1986 trở lại đây, dòng di chuyển này có cường độ thấp hơn do quy mô lao   động trong khu vực Nhà nước thu hẹp và bộ  phận lao động làm việc trong khu vực   kinh tế Nhà nước nâng cao được tiền lương, thu nhập do các doanh nghiệp Nhà nước   thích ứng dần với môi trường kinh doanh cơ chế thị trường, nâng cao được hiệu quả  hoạt động. CHƯƠNG II
  12. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  12 THỰC TRẠNG DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ KHU VỰC NHÀ  NƯỚC SANG KHU VỰC TƯ NHÂN  1. Ảnh hưởng của khu vực Nhà nước đến phát triển kinh tế đất nước 1.1 Vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước Từ xưa đến nay, nền kinh tế nhà nước luôn là một thành phần kinh tế vô cùng   quan trọng ở bất cứ một quốc gia nào. Nó tạo ra một lượng lớn của cải vật chất phục  vụ  cho xã hội đặc biệt là các sản phẩm mang tính chất công cộng và dịch vụ  như  đường sá, cơ sở hạ  tầng, các công trình giao thông công cộng, giáo dục, y tế… mà ở  các thành phần kinh tế khác không hoặc rất hiếm khi tham gia vào quá trình sản xuất   hay tạo ra. Đại hội VI (12­1986) gắn vai trò quốc doanh với việc “chiếm tỷ trọng lớn cả  trong sản xuất và lưu thông”; Hội nghị Trung ương 6 Khóa VI (3­1989) vẫn đặt quốc   doanh vào vị trí chủ đạo nhưng “không cần thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành,   nghề”  Cương lĩnh 1991 chỉ nêu gọn “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ  đạo trong   nền kinh tế”. Đến Chiến lược 1991 nói rõ hơn “Kinh tế  quốc dân được củng cố  và  phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng  yếu và đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc   không muốn đầu tư kinh doanh…Những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì   Nhà nước chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời có  chính sách giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động”. Quan điểm này một mặt tạo tiền đề  cho sự  phát triển khu vực kinh tế ngoài  nhà nước, nhất là kinh tế  tư  nhân; mặt khác không coi vai trò chủ  đạo của kinh tế 
  13. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  13 quốc doanh là điều mặc nhiên mà phải gắn với việc “sắp xếp lại, đổi mới công nghệ  và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế  khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà   nước. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo nguyên tắc tự  chủ  kinh doanh, tự  trang trãi và tích lũy trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có hạn   cho một số cơ sở thật sự cần thiết”. Tuy nhiên, khu vực quốc doanh chưa thật sự đảm nhiệm được vai trò chủ đạo  vì nhìn chung kém hiệu quả  hơn các khu vực khác, vẫn còn dựa dẫm,  ỷ  lại vào các   chính sách ưu đãi của Nhà nước dưới nhiều hình thức và còn bị rang buộc bởi cơ chế  “chủ quản” của cơ quan hành chính. 1.2. Ảnh hưởng tích cực của khu vực kinh tế Nhà nước 1.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Khu vực công có vai trò rất lớn trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.  Như  chúng ta đã biết, khu vực công bao gồm nhiều khu vực khác nhau trong đó bao  gồm khu vực tài chính. Khu vực kinh tế công thông qua các khu vực khác nhau đó kể  cả khu vực tài chính sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.  Theo quan điểm của trường phái kinh tế  mới (lý thuyết tăng trưởng kinh tế  nội sinh), Mankiw (1992), King và Levine (1993) nhấn mạnh rằng một khu vực tài  chính vững mạnh có thể  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  dài hạn, đổi mới công nghệ  (TFP), nghiên cứu và phát triển (R&D) thông qua các kênh cung cấp tài chính cho các  doanh nghiệp và hộ kinh tế gia đình. Hơn thế nữa, một khu vực tài chính vững mạnh   không chỉ  giới hạn chức năng huy động các nguồn vốn trong nước mà còn có chức  năng rất lớn tới thu hút và nâng cao hiệu quả  sử  dụng các nguồn vốn bên ngoài nền   kinh tế  như  vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn đầu tư  gián tiếp (FPI).  Trong khi đó các nhà kinh tế  theo quan  điểm lý  thuyết ngân hàng (the  bank­based   theory) cho rằng các ngân hàng thương mại có thể phân bổ nguồn vốn một cách hiệu  quả, giảm thiểu các rủi ro tài chính, và tránh tạo ra các cú sốc về tài chính đối với các  
  14. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  14 nền kinh tế  đang phát triển. Tuy nhiên, để  khu vực tài chính hoạt động hiệu quả  và  thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì theo các nhà nghiên cứu theo quan điểm  Lý thuyết về luật và tài chính như Levine (1999); Rajan và Zingales (1998), cần có một   môi trường pháp lý hiệu quả. Lý thuyết này nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Nhà  nước đặc biệt là các chính sách tiền tệ trong nền kinh tế. Như vậy, chỉ mới lấy đơn cử một khu vực nhỏ trong khu vực công là khu vực   tài chính, chúng ta đã thấy được phần nào tầm quan trọng của nó trong quá trình thúc  đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu thiếu đi khu vực kinh tế công này thì quá trình phát triển  kinh tế của toàn xã hội nói chung sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 1.2.2. Bình ổn thị trường Như  chúng ta biết thị  trường là nơi mà cầu và cung biến động không ngừng.   Chỉ cần một chút bất ổn trong hai yếu tố này có thể dẫn đến tình trạng khủng hoảng   hàng hóa (dư  cung hoặc dư  cầu) từ  đó làm cho giá cả  của hàng hóa có thể  tăng vọt   hoặc giảm một cách đáng kể. Để  giúp bình  ổn tình trạng đó, khu vực công chính là  một bộ phận quan trọng. Thông qua đặc quyền của mình trong quá trình sản xuất, khu   vực công của nhà nước sẽ quyết định sản xuất bao nhiêu cho phù hợp với cầu của thị  trường.  Chẳng hạn trong tình trạng cầu tăng vọt làm cho sản phẩm cung  ứng trên thị  trường không đủ, giá cả hàng hóa tăng lên các doanh nghiệp trong khu vực này sẽ tăng   thêm khối lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, khu vực công còn ổn định thị trường thông qua một số các công  cụ  khác như  quy định giá trần, giá sàn nhằm giúp bình  ổn giá cả  các sản phẩm tránh  tình trạng tăng đột ngột gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc tình trạng giá giảm  nhiều làm cho các công ty sản xuất thua lỗ. Một biện phát không kém phần hiệu quả  đó là áp dụng chế độ độc quyền  ở một số các mặt hàng hết sức cần thiết như  điện,   nước. 1.2.3. Kiềm chế lạm phát
  15. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  15 Lạm phát hiện nay đang là một vấn đề  đau đầu của hầu hết các quốc gia.  Lạm phát có nhiều mức  độ  khác nhau.  Đây là tình trạng khối lượng tiền trên thị  trường dư thừa trong khi khối lượng hàng hóa vẫn giữ nguyên hậu quả là giá cả  hàng   hóa tăng nhanh. Đứng trước tình trạng đó, các doanh nghiệp trong khu vực công sẽ là  bộ  phận chủ  lực trong việc cung  ứng thêm sản phẩm ra thị  trường, giúp  ổn định giá   cả.  Song song với việc làm đó, khu vực tài chính, ngân hàng của khu vực công sẽ  là những bộ phận chủ chốt trong việc điều tiết lạm phát bằng cách sử dụng các công   cụ như lãi suất, các công cụ thị trường tự do như bán cổ phiếu ra…để giảm bớt lượng  tiền cung ứng trên thị trường. Theo quy luật, khi tình trạng lạm phát tăng càng cao thì  rõ ràng nguy cơ xảy ra tình trạng suy thoái, khủng hoảng kinh tế cũng sẽ dễ dàng hơn.  Như  vậy, nếu như  các doanh nghiệp, bộ  phận trong khu vực công không làm tốt  nhiệm vụ, chức năng của mình và không có những biện pháp kịp thời để giải quyết thì   nền kinh tế sẽ dễ dàng đi vào tình trạng suy thoái mà hậu quả nặng hơn là có thể gây   ra các cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài. 1.3. Ảnh hưởng tiêu cực của khu vực kinh tế Nhà nước 1.3.1. Vấn đề chính sách, chế độ bao cấp, ưu tiên, độc quyền và bảo hộ Có thể nói chính sự bao cấp,  ưu tiên, độc quyền và bảo hộ không hợp lý của  nhà nước đã gây một kết quả  trái với mong đợi, biến các doanh nghiệp Nhà nước  (DNNN)   trở   thành   “những   đứa   con   được   quá   nuông   chiều”,   luôn   nhũng   nhiễu   và  thường tỏ ra kém cỏi khi phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của thực tế.  Sự bao cấp, ưu tiên, độc quyền của nhà nước là nguyên nhân cơ bản làm cho   các DNNN không được điều hành theo đúng cơ  chế  thị  trường và hậu quả  là các  DNNN mất sức cạnh tranh luôn phải cậy nhờ vào sức mạnh và sự  can thiệp vốn rất  hạn hẹp của Nhà nước. Trong xu thế hội nhập, nếu không nhanh chóng xoá bỏ chế độ  bao cấp, ưu tiên, độc quyền thì DNNN khó có thể có được sức mạnh thực sự để cạnh  tranh có kết quả với các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế chứ chưa  
  16. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  16 nói đến vai trò chủ đạo của nó, nghĩa là nó phải kinh doanh có hiệu quả nhất, có sức   cạnh tranh lớn nhất và gương mẫu đi đầu trước mọi thách thức trong quá trình hội  nhập.  Ta có thể thấy căn bệnh độc quyền dẫn tới những phi lý về  giá cả  làm thiệt   hại đến lợi ích người tiêu dùng và ảnh hưởng tới sự cạnh tranh và sự  phát triển lành  mạnh của chính các doanh nghiệp nhà nước. Giá sản phẩm và dịch vụ của các công ty  độc quyền bất hợp lý làm biết bao doanh nghiệp khốn đốn và mất sức cạnh tranh một  cách oan uổng. Những  ưu tiên, độc quyền kiểu này chính là nguyên nhân dẫn đến   những nghịch lý đang tồn tại như một căn bệnh di căn làm trở ngại sự phát triển bình   thường của cả nền kinh tế. Rõ ràng là việc xoá bỏ những ưu tiên, độc quyền cho các  DNNN không chỉ có tác dụng làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên vững mạnh   và có sức cạnh tranh lớn hơn mà quan trọng hơn, nó còn là một điều kiện tiên quyết  để cho cả nền kinh tế phát triển ổn định theo những quy luật thông thường.  1.3.2. Vấn đề đầu tư Hiện nay,  ở  một số  nước, nhất là các nước đang phát triển trong đó có cả  Việt Nam, có một thực trạng là  các DNNN hiện sử dụng một tỷ lệ lớn các nguồn lực   nhưng lại tạo ra quá ít việc làm và có mức tăng năng suất lao động thấp. Đầu tư, phát   triển sản xuất của các DNNN thiếu hiệu quả  do không gắn với thị  trường và thiếu   chiến lược đầu tư  hợp lý. Các DNNN đầu tư  mua thiết bị, máy móc, công nghệ, lạc   hậu hàng chục năm so với các nước phát triển nhưng trầm trọng hơn nếu các DNNN  được đầu tư dàn trải và sai định hướng. Chúng ta chạy theo sự đầu tư dàn trải vào các  ngành, các lĩnh vực trong khi ngân sách nhà nước khá hạn chế.  1.3.3. Vấn đề sử dụng nhân lực và chính sách tiền lương Tại một số nước hiện nay, nhất là ở các nước đang trong tình trạng ở các giai   đoạn đầu của quá trình thực hiện nền kinh tế theo chế độ đa dạng hóa các thành phần   kinh tế thì sự yếu kém của các DNNN một phần là do không thu hút được lực lượng  lao động có chuyên môn cao. Một thực tế là ngày nay lực lượng chất xám trong đó có 
  17. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  17 nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, có xu hướng bị  thu hút về khối doanh nghiệp có  vốn đầu tư  nước ngoài, nơi có tiền lương và thu nhập cao hơn. Về  bản chất đây là   hiện tượng bình thường của kinh tế  thị  trường, các DNNN với tiền lương thấp hơn   đương nhiên khó lòng thu hút được đội ngũ lao động có chất lượng cao. Kết quả là các   DNNN vốn dĩ yếu kém càng ngày càng mất đi sức mạnh cạnh tranh về chất lượng đội  ngũ lao động của mình. Thực tế cũng cho thấy, các DNNN chỉ có thể thực sự có vai trò chủ đạo khi nó  là một mô hình kinh doanh năng động, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao và gương   mẫu đi đầu trong nhiệm vụ cạnh tranh và hội nhập quốc tế đầy khó khăn ngày nay. Vì  vậy, đổi mới DNNN phải là thực hiện những giải pháp khắc phục những thiếu sót cơ  bản kể trên chứ không thể chỉ đổi mới thông qua các giải pháp mang tính tổ chức, tình  thế.  1.4. Tác động của khu vực kinh tế Nhà nước đến quá trình phát triển kinh tế  của đất nước Ở Việt nam, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định   hướng xã hội chủ nghĩa, bộ phận kinh tế nhà nước (khu vực công) vẫn là bộ phận chủ  lực và không thể  thiếu được. Cụ  thể, Tính đến 31/12/2005, cả  nước có 3067 công ty   nhà nước (bằng 58,2% số lượng công ty nhà nước năm 2000) và 944 doanh nghiệp có  cổ phần chi phối của Nhà nước. Tuy nhiên, có một thực tế đó là số lượng các công ty  công ở nước ta hiện nay đang có xu hướng giảm. Quan sát bảng ở  bên dưới chúng ta   có thể thấy được điều này:
  18. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  18 Số  lượng doanh nghiệp Nhà nước qua các năm 7.000 6.052 6.052 5.800 6.000 5.600 5.400 5.266 5.438 4.773 5.000 4.273 3.808 4.000 3.067 3.000 2.000 1.000 0 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp Quy mô vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước đã được nâng lên, so   với thời điểm 1/1/2001, vốn nhà nước tại công ty nhà nước tăng trên 50%, quy mô vốn   của công ty nhà nước tăng 1,08 lần, đầu tư tài sản cố định tăng 15,8%/ năm.  Kết quả sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu, lợi nhuận,   nộp ngân sách của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục có sự tăng trưởng; cụ  thể là: số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 79,4%, hòa vốn chiếm 5,4% và thua lỗ  là 15,2%; doanh thu tăng bình quân 11,2%/ năm trong giai đoạn 2001­2005, tỷ suất lợi   nhuận trên vốn năm 2005 đạt 15,4%. Căn cứ  tiêu chí đánh giá hiệu quả  hoạt động của công ty nhà nước, theo báo   cáo chưa đầy đủ thì kết quả phân loại năm 2004 đối với 2.848 công ty nhà nước gồm:   42% xếp loại A, 41% xếp loại B và 17% xếp loại C.  Đồng thời, khu vực doanh   nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và vẫn là “lực   lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai   và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, anh   ninh” (Nghị quyết Trung ương ba khoá IX).
  19. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  19 Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước cải thiện   đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm 2005: 639 USD;  năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên 1.000 USD.   Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)… Vai trò của bộ  phận kinh tế Nhà nước ta đối với kinh tế  càng bộc lộ  rõ nét   trong việc ban hành, thực thi các chính sách khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế gần   đây. Trên cơ  sở  tiên định những diễn biến xấu có thể  xảy ra, Nhà nước đã đưa ra 8   nhóm giải pháp cấp bách, và bằng việc tổ  chức thực hiện có hiệu quả  các giải pháp  đó, các công ty công cùng với Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm   phát, chỉ số giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9­2008 tăng 0,18%, tháng 10 giảm  0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế  vĩ mô  ổn định: thu chi  ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả năm, tăng   26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kế hoạch đề ra;   kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ  USD, tăng 28% so với năm 2007. Những thành tựu  này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho  tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh   tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta hiện nay cũng còn những hạn  chế đáng kể: Thể  chế kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa còn chưa được   xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ Quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập  Chưa có giải pháp mang tầm đột phá để  kinh tế  nhà nước thực sự  hoàn  thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh tế Kinh tế tập thể còn rất yếu kém Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp 
  20. GV:Nguyễn Ngọc Tuấn Trang  20 Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi  trường… Lấy ví dụ cụ thể hơn, trong thời gian gần đây, khi mà nền kinh tế nước nhà ở  trong tình trạng lạm phát tăng cao, Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, việc tăng giá các  mặt hàng liên tục đã tạo một sức ép lớn lên chỉ  số tiêu dùng (CPI), tuy nhiên chúng ta  thấy không nhiều những nỗ lực của các DNNN trong việc bình ổn giá. Đơn cử một vài  trường hợp:  Chúng ta nghe đến việc các doanh nghiệp xăng dầu kêu lỗ nhưng Tổng công  ty xăng dầu Việt Nam khi báo cáo lại có kết quả kinh doanh lãi đến vài trăm tỷ đồng. Chúng ta nghe đến chuyện Tổng công ty Hàng không Việt Nam đề  nghị  tăng  giá vé để  bù đắp chi phí nhưng theo thống kê thì tiền lương của các nhân viên trong  doanh nghiệp này thuộc loại cao nhất trong các lĩnh vực kinh tế. Hay chuyện Tập đoàn   Than Khoáng sản đề  nghị  tăng giá than vì hiện tại đang bán với giá thấp hơn giá thế  giới nhiều nhưng nhiều công ty than niêm yết báo cáo có mức lợi nhuận lên đến 100%   vốn điều lệ. Trong khi Chính phủ  kêu gọi các doanh nghiệp bình  ổn giá, nỗ  lực kìm chế  lạm phát … thì chính giá bán hàng và sản phẩm dịch vụ của các Tập đoàn, Tổng công   ty Nhà nước lại “tiên phong” thông báo tăng giá. Rõ ràng đây là những bất cập cần đáng lưu ý của khu vực kinh tế nhà nước   của Việt Nam chúng ta mà chúng ta cần phải xem xét lại. 2. Ảnh hưởng của khu vực tư nhân đến phát triển kinh tế đất nước 2.1. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân Ngày nay, khu vực kinh tế  tư    nhân, trong đó có các hộ  kinh doanh thương   mại, các công ty tư  nhân đã có vị  trí, tiếng nói trong hệ  thống doanh nghiệp, doanh  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2