intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bẫy thu nhập trung bình

Chia sẻ: Thiên Thiên | Ngày: | Loại File: PPTX | Số trang:26

100
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo các chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới thì Bẫy của các nước thu nhập trung bình hay Bẫy thu nhập trung bình là tình trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền kinh tế đã đạt đến mức thu nhập trung bình. Mời các bạn cùng tham khảo để tìm hiểu sâu hơn về bẫy thu nhập trung bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bẫy thu nhập trung bình

  1. BẪY THU NHẬP TRUNG NHÓMBÌNH 2 Thuyết trình: Nguyễn Thị Hương Thảo_CQ55/32.01
  2. I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1. Khái niệm “Bẫy thu nhập trung bình” Theo các chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới thì“ Bẫy của các  nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình”  là tình  trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền kinh  tế đã đạt đến mức thu nhập trung bình.  Hai mốc quan trọng: GDP đạt trên 1000 USD/người/năm GDP đạt trên 10000 USD/người/năm
  3. Bốn giai đoạn của sự tăng trưởng và phát triển và “chiếc  trần thủy tinh vô hình” được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
  4. “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình” là một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mắc kẹt của nhiều quốc gia đã thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập niên vẫn không trở thành quốc gia phát triển.
  5. 2. Biểu hiện Từ các nguyên nhân trên cũng như công tác nghiên cứu việc vướng bẫy thu nhập trung bình từ các nước đi trước các nhà nghiên cứu đã chỉ ra một vài biểu hiện của việc vướng bẫy: 1.Tăng trưởng chậm 2. Năng suất sản xuất thấp 3. Thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu theo đúng nghĩa 4. Không có dấu hiệu cải thiện chỉ số khả năng cạnh tranh 5. Nảy sinh nhiều vấn đề do tăng trưởng gây ra (Sự phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, GDP “bẩn”...)
  6. II. Thực trạng Theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế  OECD công bố vào trung tuần tháng 12/2013, để từ một  nước có thu nhập trung bình trở thành một quốc gia có thu  nhập cao:  + Indonesia có thể phải mất tới 30 năm, tức sẽ chậm hơn rất nhiều so với các nước như Malaysia, dự kiến sẽ lọt vào nhóm nước thu nhập cao vào năm 2020, + Trung Quốc (năm 2026) + Thái Lan (năm 2031), + Philippines (năm 2051) + Việt Nam (2058) + Ấn Độ (năm 2059).
  7. II. Thực trạng 1. Thực trạng vướng bẫy tại các nước trên thế giới Kinh tế Trung Quốc đang bước vào giai đoạn giảm tốc mạnh nhất trong vòng gần ba thập kỷ trở lại đây, khi chính phủ nước này hiện chỉ đang đặt mục tiêu tăng trưởng khá khiêm tốn là trung bình 6,5-7% trong giai đoạn 2016 - 2020. Cho đến trước năm 2015 Trung Quốc được xem là ứng cử viên sáng giá nhất có thể trở thành nền kinh tế tiếp theo trong khu vực thoát được bẫy thu nhập trung bình.Tốc độ tăng trưởng hai con số trong hơn hai mươi năm đã khiến thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc có một bước nhảy vọt ấn tượng.Chỉ trong vòng 7 năm từ 2006-2013, thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc đã tăng vọt từ mức 2.000 USD/người lên mức 7.000 USD/người. Kể cả Hàn Quốc cũng phải mất tới 10 năm để làm được điều này (1981-1991), còn Đài Loan là 9 năm (1979-1988).
  8. Tốc độ tăng trưởng GDP Trung Quốc Nguồn: Cơ sở dữ liệu của Ngân hàng thế giới truy cập ngày 20/01/2017 Mười bốn năm phát triển mạnh mẽ nhất của kinh tế Trung Quốc trong giai đoạn 2001-2015 chính là khoảng thời gian nước này gia nhập WTO – sự kiện được xem như chìa khóa mở cánh cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt vào thị trường Trung Quốc, biến nước này thành công xưởng thế giới.Thâm dụng lao động quy mô lớn trong một thời gian ngắn kỷ lục bằng đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự thần kỳ Trung Quốc, từ một nước nghèo và thiếu ăn trở thành cường quốc kinh tế số hai thế giới. Cuối năm 2014, làn sóng ồ ạt rút vốn đầu tư khỏi Trung Quốc đã khiến người ta cho rằng đây là một trong những nguyên nhân chủ đạo đẩy kinh tế nước
  9. II. Thực trạng 1. Thực trạng vướng bẫy tại các nước trên thế giới     Tình trạng của Brazil thậm chí còn tệ hơn Trung Quốc khi mà tốc  độ tăng trưởng GDP bình quân đang giảm dần qua các năm, thậm chí  còn rơi vào ngưỡng hơn ­3% năm 2016. Ấn Độ cũng không duy trì  được mức tăng 8% trong bao lâu, gần đây còn đang có xu hướng giảm.  Bên cạnh đó GDP bình quân chỉ mới đạt 1,709,39USD sau hơn 10 năm  trở thành nước có thu nhập trung bình thấp (theo Ngân hàng thế giới)
  10. II. 1. Thực trạng  Việt Nam và bẫy thu nhập trung bình Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp từ năm 2008 (tính theo GDP bình quân đầu người vào năm đó đạt 1.145 USD/người). Hiện có 2 loại ý kiến khác nhau đánh giá về nguy cơ “sập bẫy thu nhập trung bình” của Việt Nam. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Việt Nam chưa rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” khi thời gian nằm ở nhóm nước có thu nhập trung bình thấp mới qua 1/3 theo thông lệ của thế giới. Với dự báo của một dự án nghiên cứu là đến năm 2035, Việt Nam đạt GDP bình quân đầu người 5.000 USD, vượt qua mức cao nhất của nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (4.035 USD/người). Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Việt Nam tuy chưa “sập bẫy thu nhập trung bình”, nhưng đang đứng trước nguy cơ này. Dưới đây là năm dấu hiệu của việc vướng bẫy thu nhập trung bình bao gồm: (i) tăng trưởng chậm, (ii) năng suất sản xuất thấp, (iii) thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu theo đúng nghĩa, (iv) không có dấu hiệu cải thiện chỉ số khả năng cạnh tranh và (v) nảy sinh nhiều vấn đề do tăng trưởng gây ra. Những triệu chứng này không chỉ xuất hiện ở Việt Nam. Đây cũng là những vấn đề mà các quốc gia láng giềng trong khu vực đã bị mắc bẫy thu nhập trung bình trước Việt Nam phải đối mặt.
  11. II. Thực trạng 1.  Việt Nam và bẫy thu nhập trung bình v Tăng trưởng chậm: Sau khi khắc phục các tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính Châu Á giai đoạn 1997 - 1998, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ từ khoảng năm 2000.Tăng trưởng dần dần tăng tốc từ năm 2001 và đạt mức cao nhất 7,55% trong năm 2005. Nhịp độ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong nước khá cao và Chính phủ hài lòng với mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ này. Sau năm 2006, tăng trưởng có xu hướng đi xuống với nhiều biến động. Tâm trạng toàn xã hội trở nên ảm đạm, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với nhiều thách thức vì tốc độ tăng trưởng được dự kiến là7-8%, giảm xuống chỉ còn 5 - 6%. Đất nước trải qua một giai đoạn khó khăn với bong bóng bất động sản xì hơi, lạm phát, nợ xấu và nới rộng khoảng cách về thu nhập và
  12. Tăng trưởng GDP Việt Nam đã bị chậm lại sau khi ra khỏi nhóm  nước thu nhập thấp. N ếu bình quân năm của thời kỳ 1991­2007 là 7,49%,  thì của thời kỳ 2008­2016 chỉ còn 5,15%. Năm nay, Chính phủ đang  quyết tâm phấn đấu mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7% và nếu thực hiện  được thì bình quân 2 năm còn thấp so với bình quân thời kỳ 1991­2007,  cũng thấp hơn so với mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016­2020 (6,5­7%/năm). 
  13. II. Thực trạng 1.  Việt Nam và bẫy thu nhập trung bình v Năng suất sản xuất thấp: Thực tế,khi xem xét chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), có rất ít bằng chứng cho thấy chỉ số này đang tăng lên liên tục và đáng kể. Trong khi đó, tiền lương tại Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng và biến động tỷ giá lại không đủ để bù đắp sự thiếu hụt của năng lực cạnh tranh.
  14. Theo điều tra của Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản (JETRO) về các doanh nghiệp FDI Nhật Bản, trong năm 2012, 10 quốc gia Châu Á có tốc độ tăng tiền lương hàng tháng của một công nhân làm việc toàn bộ thời gian lên tới hơn 10%. Việt Nam dẫn đầu với mức tăng 21,0%, Myanmar 18,0%, Indonesia 15,9%, Bangladesh 13,7%, Thái Lan 13,4% và Ấn Độ 13,0%. Áp lực tiền lương được hỗ trợ bởi động cơ chính trị không có dấu hiệu giảm xuống.
  15. • Thời kỳ 2011-2015, yếu tố TFP - yếu tố chất lượng, chiều sâu - chiếm 28,94%, thấp khá xa so với nhiều nước. Năm 2017, tỷ lệ này của Việt Nam cao hơn, nhưng vẫn còn thấp so với nhiều nước. • Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam thuộc loại khá cao, một mặt do số gốc so sánh (điểm xuất phát còn thấp), mặt khác do sự chuyển dịch cơ cấu lao động đang làm việc theo hướng tỷ trọng
  16. • Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR còn cao và tăng lên (bình quân thời kỳ 2001-2005 mới có 4,88 lần, thì thời kỳ 2006-2010 đã lên đến 6,96 lần, thời kỳ 2011-2015 tuy thấp hơn (còn 6,91 lần), nhưng cao hơn mức bình quân 2011-2013 của Trung Quốc (6,4 lần), Malaixia (5,4 lần), Inđônêxia (4,64 lần), Philippines (4,1 lần), Lào (2,59 lần).... Năng suất lao động năm 2015 của Việt Nam mới đạt 79,3 triệu
  17. II. Thực trạng v Thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu theo đúng nghĩa: Theo số liệu tài khoản quốc gia, từ năm 1990 đến 2016: Tỷ trọng GDP của các ngành công nghiệp tăng từ 28,88% lên 32,72% Tỷ trọng dịch vụ cũng tăng từ 33.06% lên 40,92% Nông nghiệp Công nghiệp
  18. Giá trị sản xuất gia tăng của Việt Nam trong GDP là 19,7% trong năm 2010, cao hơn so với những nước Nam Á như Ấn Độ và Pakistan nhưng thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia hay Indonesia. Tỷ trọng xuất khẩu sản xuất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã tăng từ 42,7% năm 2000 lên 64,7% trong năm 2010. Do đó, Việt Nam gia nhập nhóm hạng hai cùng với Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Sri Lanka và Pakistan. Nhưng số liệu này vẫn còn thấp hơn nhiều so với nhóm dẫn đầu với Trung Quốc và Hàn Quốc.
  19. II. Thực trạng 1.  Việt Nam và bẫy thu nhập trung bình v Các vấn đề do tăng trưởng gây ra Theo GS. Kenichi Ohno, Đại học Nghiên cứu Chính sách (Nhật  Bản): Khả năng Việt Nam r ơi vào BTNTB khá cao, sau 10 ­ 15 năm nữa  tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ chậm lại nhi ều nếu như không có những  hành động ngay từ bây giờ. Không thể tiếp tục dựa vào lắp ráp giản đơn  với lao động không có kỹ năng. Các ngành công nghiệp sẽ rút khỏi Việt  Nam khi mức lương tăng lên và hội nhập ngày càng sâu rộng. Theo điều  tra dân số, năm 2011 tỷ lệ người trên 60 tuổi của Việt Nam đã hơn 8,6  triệu người, chi ếm gần 10% dân s ố (năm 2013 dân số Việt Nam là 90  triệu người), tỷ l ệ trên 65 tuổi chiếm 7% dân số nên Việt Nam chính thức  gia nhập các quốc gia già hóa dân số từ năm 2011 (sớm hơn dự báo là 6  năm). Sự chuyển đổi nhân khẩu này đưa đến nhiều thách thức gay gắt về  các vấn đề tạo công ăn việc làm, bảo hiểm xã hội, an ninh trật tự, an ninh  lương thực, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo dục…đối với sự phát  triển kinh tế­ xã hội ở nước ta trong thời gian t ới. Đã xuất hiện một số vấn  đề cản trở sự tăng bậc lên mức thu nhập cao hơn. Cơ cấu “dân số vàng”  mới qua được mươi năm, nhưng có dấu hiệu bước vào thời kỳ già hóa  tương đối nhanh, làm xuất hiện tình trạng “chưa giàu đã già”. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2