Đề  bài: Bình giảng đoạn thơ  sau trong bài thơ  Đất nước (Nguyễn Đình Thi): Mùa  <br />
thu nay khác rồi!... Những buổi ngày xưa vọng nói về<br />
<br />
                                         Bài làm<br />
<br />
Bài thơ  Đất nước được hình thành trong một quãng thời gian dài (19481955); lần đầu <br />
tiên được dưa vào tập Chiến sĩ (1956). Bài thơ  được tổ  hợp từ  một số  bài thơ  khác như <br />
Sáng mát trong như  sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Chủ  đề  bao trùm của  <br />
Đất nước là lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha, ý thức độc lập tự chủ, là lòng tự  hào về <br />
đất nước và nhân dân anh hùng, từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã  <br />
quật khởi vùng lên chiến thắng huy hoàng.Trong đó có những đoạn thơ Nguyễn Đình Thi <br />
đó là Tổ  quốc hồi sinh tràn đầy sức sống, ý thức độc lập tự  chủ  và niềm tự  hào về  Tổ <br />
quốc giàu đẹp, có truyền thông bất khuất kiên cường:<br />
<br />
                                  Mùa thu nay khác rồi!<br />
<br />
                                            ...<br />
<br />
                           Những buổi ngày xưa vọng nói về.<br />
<br />
Sau khi hồi tưởng đến mùa thu của những ngày rời Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn với cảm xúc  <br />
"Buồn buồn lặng lặng" (Hoài Thanh), tác giả bộc lộ cảm nghĩ của mình về mùa thu mới,  <br />
mùa thu trên đất nước nhân dân đã làm chủ vận mệnh của mình, mùa thu kháng chiến  ở <br />
núi rừng Việt Bắc: "Mùa thu nay khác rồi". Lời thơ  đầy tính chất khẳng định. Đó là sự <br />
khác rồi về không gian, thời gian và tâm trạng con người trước mùa thu. Nhưng cái khác  <br />
trước hết của mùa thu này được người đọc nhận ra ngay  ở nhịp điệu, tiết tấu, hình ảnh <br />
thơ: từ những câu thơ thất ngôn sâu lắng, cổ kính mang đậm màu sắc Đường thi, bài thơ <br />
bỗng chuyển sang những câu thơ tự do, tạo nên một nhịp điệu hối hả phơi phới làm cho <br />
đoạn thơ như hát vang lên từ một trái tim chất chứa niềm vui.<br />
<br />
Đứng giữa không gian bao la, giữa đất trời bát ngát thoáng đãng, với trái tim reo vui, tác <br />
giả đã lắng nghe, cảm nhận sắc thu, hồi thu mới "Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi". "Vui  <br />
nghe" chứ không phải là nghe vui. Nghe vui là niềm vui từ bên ngoài còn vui nghe là niềm <br />
vui từ trái tim trỗi dậy, dâng lên, lan toả, nhuốm lên tất cả cảnh vật, đất trời, cỏ cây mây <br />
nước "Gió thổi rừng tre phấp phới". "Phấp phới" là một từ  láy rất gợi hình, gợi cảm và  <br />
giàu ý nghĩa diễn tả. Phấp phới rừng tre gió thổi hay phấp phới của lá cỏ  đỏ  tung bay <br />
giữa chiến khu tự do hay còn gợi cho ta niềm vui phơi phới của con người đang bay lên <br />
cùng với đất trời giải phóng?<br />
<br />
Trong niềm vui lâng lâng  ấy, nhà thơ  đã cảm nghe được sự  chuyển đổi rất mực tinh tế <br />
của hồn thu:<br />
<br />
                                    Trời thu thay áo mới<br />
<br />
                                Trong biếc nói cười thiết tha<br />
<br />
Nhờ  sử  dụng biện pháp nhân hóa đặc sắc, nhà thơ  không chỉ  diễn tả  được sự  thay đổi <br />
của sắc thu mà còn diễn tả được sự thay đổi của lòng người, hồn người. Qua câu thơ của  <br />
Nguyễn Đình Thi, dường như mùa thu đất nước đã được hồi sinh và hiện lên như một cô  <br />
gái đầy sức trẻ, trẻ cả hình sắc, trẻ cả tâm hồn. "Trong biếc nói cười thiết tha". Câu thơ <br />
có 6 chữ  mà dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc và  ấn tượng: âm thanh thì "nói cười" tươi  <br />
trẻ, màu sắc thì "trong biếc", tình cảm thì "thiết tha”. Nhớ  lại cảnh mùa thu cũ hiện về <br />
như thiếu nữ "đứng chịu tang  Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng" với "áo mơ phai dệt <br />
lá vàng" còn thu nay đã được thay bằng chiếc áo màu tươi sáng, bình dị, ta càng thấm thía  <br />
thu từ đây "không thu thảm thu sầu" mà là "thu sướng nhuộm màu xuân mát mát":<br />
<br />
                                Mùa thu vàng sáng tới rồi đây<br />
<br />
                                Áo mới em phơi gió thổi đầy<br />
<br />
                                Áo trắng đòi tà phơ phất hoá<br />
<br />
                                Áo vàng em mặc cánh thu bay<br />
<br />
                                                                               (Xuân Diệu)<br />
Đoạn thơ  trên được tác giả  sử  dụng nhiều động từ  "đứng, nghe, gió thổi, thay áo, nói, <br />
cười" đã gợi được không khí nhộn nhịp sôi nổi rộn ràng của mùa thu. Cảnh sắc thiên <br />
nhiên ở đây vừa bình dị khoẻ khoắn, vừa trong trẻo tươi sáng hoà hợp với tâm trạng vui <br />
hồ hởi của thi nhân tạo nên một vẻ đẹp mới cho mùa thu đất nước. Nguyễn Đình Thi đã  <br />
đưa đến một nét mới cho những bài thơ về mùa thu Việt Nam muôn đời.<br />
<br />
Đứng trước khung cảnh mùa thu đất nước như  đang hồi sinh, trào dâng sức sống, niềm  <br />
vui, với tình yêu thương nồng thắm, tác giả đã bộc lộ ý thức độc lập, tự chủ và niềm tự <br />
hào về Tổ  quốc giàu đẹp. Thông qua tình cảm nồng thắm yêu thương và chói đỏ  tự  hào <br />
của tác giả, bức tranh đất nước cứ lần lượt được mở ra với không gian ba chiều bát ngát  <br />
và hiện lên với những đường nét, màu sắc, hình khối và cả  hương vị  nữa, thật nên thơ, <br />
nên họa.<br />
<br />
Ngẩng đầu lên là bầu trời "thu xanh ngắt mấy từng cao". Dường như không nén nổi cảm  <br />
xúc, tác giả  phải reo lên "Trời xanh đây là của chúng ta". Trời ta xanh mắt ai mà chẳng <br />
thấy, vốn rất xanh tứ  cái thuở  xa xưa. Bầu trời  ấy qua thơ  ca của Nguyễn Du, Nguyễn  <br />
Khuyến, Tản Đà... đã cao xanh, giờ đây càng trở nên xanh cao hơn nữa. Vì trong sắc xanh  <br />
muôn thuở  của bầu trời, này có thêm sắc xanh của lòng người được hưởng độc lập, tự <br />
do. Đúng như Chế Lan Viên đã viết:<br />
<br />
                          Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc<br />
<br />
                              Khi tự do về chói ở trên đầu<br />
<br />
                           Trời thu xanh ngắt sáng tuyên ngôn<br />
<br />
                           Trời bỗng xanh hơn nắng chói loà<br />
<br />
                           Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà<br />
<br />
                                                                               (Tố Hữu)<br />
<br />
Nhìn sang bên kia là những dãy núi, những cánh rừng trùng trùng điệp điệp "Núi rừng đây  <br />
là của chúng ta". Hai chữ  "núi rừng" không hề  gợi lên cảnh ma thiêng nước độc mà chỉ <br />
gợi lên sự  giàu có của Tộ  quốc,  ẩn chứa biết bao tài nguyên phong phú "Rừng vàng bể <br />
bạc đất phì nhiêu". Nhớ lại cảnh quê hương làng xóm trong máu lửa chiến tranh, bầu trời <br />
cánh đồng như   ứa máu, rách nát bởi dây thép gai, móng vuốt của kẻ thù "Ôi những cánh  <br />
đồng quê chảy máu  Dây thép gai đâm nát trời chiều!" chúng ta mới thấm thía cái vang <br />
hưởng của lòng tự hào, niềm kiêu hãnh và ý thức độc lập tự chủ toát ra từ hai câu thơ:<br />
<br />
                              Trời xanh đây là của chúng ta<br />
<br />
                              Núi rừng đây là của chúng ta<br />
<br />
Những câu thơ khẳng định, những đại từ chỉ định "đây” cùng với điệp từ ngữ "của chúng <br />
ta" đã vang lên dõng dạc niềm tự hào kiêu hãnh về  quyền làm chủ  đất nước. Cảm hứng  <br />
này là một cảm hứng mà ta thường gặp trong thơ ca Việt Nam sau ngày giải phóng:<br />
<br />
                                Của ta trời đất, đêm ngày<br />
<br />
                            Núi kia đồng nọ, sông này của ta<br />
<br />
                                                                                (Tố Hữu)<br />
<br />
Những câu thơ "Tôi nhớ; Tôi đứng vui nghe" là những lời độc thoại của nhân vật trữ tình.  <br />
Sau lời độc thoại, đến đây dường như  nhà thơ  hát chung với dàn đồng ca của nhân dân,  <br />
hòa trong cảm hứng vui sướng, tự hào được làm chủ  đất trời thiên nhiên Tổ  quốc tươi  <br />
đẹp:<br />
<br />
                               Những cánh đồng thơm mát<br />
<br />
                               Những ngả đường bát ngát<br />
<br />
                            Những dòng sông đỏ nặng phù sa<br />
<br />
Bằng hàng loạt từ  "những", một từ  chỉ  số  nhiều không xác định mở  đầu các dòng thơ, <br />
trước hết tác giả như muốn kể thêm nhiều hơn vẻ giàu đẹp của đất nước, sau nữa đoạn  <br />
thơ  gợi cho người đọc bức tranh đất nước cứ  lần lượt được mở  ra lộng lẫy, bát ngát. <br />
Nguyễn Đình Thi sử dụng nhiều tính từ chỉ cảm xúc "thơm mát, bát ngát, đỏ nặng". Điều  <br />
đó vừa diễn tả được tình cảm yêu nước thiết tha, nồng nàn của tác giả  vừa làm cho bức <br />
tranh đất nước như có thêm đường nét, màu sắc, hình khối. Với tấm lòng yêu nước thiết <br />
tha sâu nặng, dường như tác giả cảm nhận được cả cái vị "thơm mát" của cánh đồng, tận  <br />
mắt thấy được cái "bát ngát" tự do của những ngả đường mở ra, như trông thây được cả <br />
những dòng sông đỏ nặng phù sa cuộn chảy về xuôi. Câu thơ  của Ngụyễn Đình Thi thật <br />
trĩu nặng suy tư. "Những dòng sông đỏ nặng phù sa" hay đỏ nặng tấm lòng yêu thương và  <br />
tự hào đối với đất nước của tác giả? Ở đây nhà thơ sử dụng nhiều nguyên âm mở "a, at”  <br />
cuối dòng thơ  cũng đã góp phần diễn tả  thành công cái cảm xúc thơ  nói trên (Từ  cuộc  <br />
sống có phần tù túng trong năm cửa ô, các văn nghệ  sĩ mang ba lô hành hương lên đất  <br />
thánh Việt Bắc. Qua bao nhiêu nẻo đường kháng chiến, cảm nhận về đất nước được mở <br />
ra theo chiều rộng không gian với bầu trời thu trong xanh, những núi rừng bát ngát của <br />
Việt Bắc, những cánh đồng lúa thơm mùi sữa, những dòng sông Lô, sông Thao, sông <br />
Hồng cuồn cuộn phù sa).<br />
<br />
Từ  những cảm nhận về cái hữu hình của đất nước với không gian, bầu trời, cánh đồng,  <br />
dòng sông, câu thơ đang náo nức, dồn dập reo vui bỗng như trầm lắng hẳn xuống, đượm <br />
vẻ  thiêng liêng thành kính khi nghĩ về  cái vô hình là hồn thiêng đất nước trên chiều dài <br />
của thời gian 4000 năm lịch sử:<br />
<br />
                                     Nước chúng ta<br />
<br />
                          Nước những người chưa bao giờ khuất<br />
<br />
                             Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất<br />
<br />
                            Những buổi ngày xưa vọng nói về<br />
<br />
"Nước chúng ta", câu thơ có ba chữ mà như nổi bật lên giữa bài thơ giống như dòng nước  <br />
đang cuộn chảy bỗng chững lại, dồn nén lại. Câu thơ bình dị mà chất chứa bao nhiêu cảm  <br />
xúc yêu thương và tự hào.<br />
<br />
Nghĩ về quá khứ của đất nước chúng ta, điều làm tác giả cảm phục nhất là truyền thống <br />
bất khuất kiên cường. Truyền thống  ấy nổi bật lên tạo thành gương mặt rạng rỡ  nhất  <br />
của lịch sử  cha ông "Nước những người chưa bao giờ  khuất". Câu thơ  giản dị  như  một  <br />
lời nói thường nhưng đã làm sống dậy trước mắt ta cả một quá khứ oanh liệt của tổ tiên.  <br />
Ta như  thấy trong đó tư  thế  của Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang  <br />
Trung... luôn luôn hiên ngang bất khuất trước mọi đợt sóng ngoại xâm hung tàn: Hán, <br />
Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh.<br />
<br />
Sức mạnh anh hùng bao đời của dân tộc đối với hiện tại là một sự thực lớn lao hùng hồn.  <br />
Nhưng  ở  đây đà được nhà thơ  diễn tả  thông qua việc sáng tạo ra một hình tượng âm  <br />
thanh như không thật, một âm thanh của tâm tưởng hơn là của thính giác: âm thanh rì rầm  <br />
đêm đêm trong lòng đất vọng từ nghìn xưa vọng tới mai sau. "Rì rầm" là một từ láy tượng  <br />
thanh rất gợi cảm. Nó không ồn ào vang động, vang xa nhưng liên tục đều đặn như dòng <br />
suối chảy bất tận. "Rì rầm" trong lòng đất "đêm đêm" còn gợi lên không khí thầm lặng  <br />
thiêng liêng. "Đất" là hình  ảnh tượng trưng cho đất nước, của sự  khổng lồ, vĩnh hằng. <br />
"Đất" cũng là cái được dựng lên từ mồ hôi nước mắt, kể cả xương máu của biết bao thế <br />
hệ  cha ông. Với hình ảnh thơ  độc đáo này, tác giả đã hình tượng hóa được truyền thống <br />
anh hùng của đất nước thành một hình  ảnh đầy sức sống, đầy mạnh thầm lặng, thiêng <br />
liêng và vững bền muôn thuở, trở thành nhịp đập của con tim lịch sử Việt Nam bất khuất  <br />
anh hùng:<br />
<br />
                           Tim Việt Nam có Bạch Đằng ca hát<br />
<br />
                         Có đường gươm "sát thát" chém Toa Đô<br />
<br />
                          Có Nguyễn Trãi trong hồn thơ ý nhạc<br />
<br />
                         Sang sảng ngân trong Đại cáo hình Ngô<br />
<br />
Đúng là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo, vừa mang yếu tố cảm xúc cụ thể vừa có ý nghĩa  <br />
tượng trưng khái quát sâu xa.<br />
<br />
"Những buổi ngày xưa vọng nói về". Nhờ  sự  kết hợp khéo léo giữa các từ  "những ... <br />
xưa... vọng... về", câu thơ của Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn tả  được tính chất liên tục  <br />
truyền thống bất khuất kiên cường của dân tộc. Cả  quá khứ  sâu thẳm của lịch sử  đất <br />
nước dường như cũng đều có mặt với con cháu hôm nay, luôn luôn nhắn gửi về  những  <br />
lời thiêng liêng tha thiết. Đúng như Lê Anh Xuân đã từng viết:<br />
<br />
                         Nghe như tiếng của cha ông thuở trước<br />
<br />
                      Truyền con cháu hãy ngẩng cao đầu mà bước<br />
<br />
                              Nghe như lời cây cỏ gió mưa<br />
<br />
                         Hãy viết tiếp bài ca bất khuất ngày xưa<br />
<br />
Bằng những câu thơ giàu tính chất suy tư và cảm xúc, bằng những hình ảnh nhân hoá vừa  <br />
cụ thể vừa tượng trưng, đoạn thơ trên không chỉ thể hiện được niềm vui, niềm tự hào về <br />
Tổ quốc giàu đẹp và ý thức độc lập tự chủ mà còn bảy tỏ được niềm biết ơn thành kính  <br />
với tổ  tiên. Vì hơn ai hết, nhà thơ đã ý thức được những chiến công vẻ vang hôm nay là  <br />
kết quả  của sức mạnh tổng hợp giữa quá khứ  oanh liệt của cha ông với cuộc đấu tranh <br />
anh hùng của nhân dân ta.<br />