intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các định chế xã hội của người Kơho trong quá trình phát triển (Nghiên cứu trường hợp ở Thị trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng)

Chia sẻ: ViNobinu2711 ViNobinu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

52
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tác giả cố gắng phác họa những đổi thay cơ bản của một số định chế xã hội người Kơho ở thị trấn Lạc Dương hiện nay so với trước đây, nêu lên các bối cảnh, các quá trình và các yếu tố dẫn đến sự biến đổi này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các định chế xã hội của người Kơho trong quá trình phát triển (Nghiên cứu trường hợp ở Thị trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng)

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 3( 28) - Thaùng 5/2015<br /> <br /> <br /> CÁC ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI<br /> CỦA NGƯỜI KƠHO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN<br /> (Nghiên cứu trường hợp ở Thị trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng)<br /> <br /> LÊ MINH CHIẾN(*)<br /> <br /> TÓM TẮT:<br /> Trong khuôn khổ bài viết, dựa trên kết quả các đợt khảo sát thực địa của tác giả tại<br /> các bon người Chil, người Lạch là những nhóm địa phương của người Kơho tại xã Lát và<br /> thị trấn Lạc Dương từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2014, kết hợp giữa khảo sát định lượng<br /> gồm 280 hộ gia đình với các quan sát, phỏng vấn sâu tại cộng đồng. Tác giả cố gắng phác<br /> họa những đổi thay cơ bản của một số định chế xã hội người Kơho ở thị trấn Lạc Dương<br /> hiện nay so với trước đây, nêu lên các bối cảnh, các quá trình và các yếu tố dẫn đến sự<br /> biến đổi này. Trong đó tập trung vào hai định chế căn bản là già làng và hệ thống quản lý<br /> xã hội và dựa trên luật tục trong quá trình phát triển.<br /> Từ khóa: định chế xã hội, già làng, luật tục, người Kơho, biến đổi xã hội<br /> <br /> ABSTRACT:<br /> In the article, based on the result of field surveys in the Chil and Lach’s hamlets of Lat<br /> village and Lac Duong town carried out from May to September 2014, combined with the<br /> quantitative survey of 280 households with observations, in-depth interviews in the<br /> community, the author tries to outline the fundamental changes of some social institutions<br /> of Koho people in Lac Duong town today compared with the past in order to highlight the<br /> background, the process and the factors that lead to these changes. In this article the<br /> author also focuses on two fundamental institutions as the village elderly and social<br /> management systems, the customary law in the development process.<br /> Keywords: social institution, the village elderly, customary law, Koho people, social<br /> change<br /> <br /> 1. MỞ ĐẦU(*) cận Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh<br /> Kơho là một trong bốn dân tộc có dân Hòa. Trải qua quá trình phát triển của lịch<br /> số đông nhất trong các dân tộc thiểu số bản sử, cộng đồng Kơho cũng chịu sự tác động<br /> địa ở Tây Nguyên sinh sống tập trung chủ của nhiều chiều kích chính trị văn hóa xã<br /> yếu ở tỉnh Lâm Đồng. Theo thống kê năm hội từ bên ngoài vào một cách khác nhau<br /> 2009 Lâm đồng có khoảng 1.2 triệu dân song trên hết và quan trọng nhất, người<br /> trong đó dân tộc thiểu số có 286.258 người Kơho đã và đang là “một hợp phần của văn<br /> và người Kơho có 145.665 người ở tỉnh hóa Tây Nguyên” nằm trong cộng đồng các<br /> Lâm Đồng chiếm trên 90% dân số các dân dân tộc Việt Nam.<br /> tộc thiểu số của tỉnh, ngoài Lâm Đồng Lạc Dương là một thị trấn huyện lỵ của<br /> người Kơho còn sống rải rác ở các tỉnh lân tỉnh Lâm Đồng nằm cách thành phố Đà Lạt<br /> khoảng 15 km, nơi đây tập trung một bộ<br /> (*)<br /> ThS, Trường Đại học Đà Lạt<br /> <br /> 113<br /> phận đông đảo người Kơho sinh sống đã và hội lễ nghi tinh thần, giải quyết các bất<br /> đang chịu tác động mạnh mẽ của quá trình đồng các vi phạm luật tục, tập hợp dân làng<br /> đô thị hóa nhanh chóng từ thành phố Đà bảo vệ đất đai, nguồn lực kinh tế, đón tiếp<br /> Lạt, một thành phố cao nguyên với 120 hay hòa giải khi xung đột xảy ra với các<br /> năm tuổi, là địa bàn cư trú lâu đời của làng khác, dòng họ khác.<br /> người dân bản địa đã từng sinh sống lâu Chủ làng là người có nhiều quyền<br /> nay. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, đến hành, nhưng không đứng trên hay tách rời<br /> nay Lạc Dương là một đô thị loại V theo cộng đồng mà thường là người đại diện cho<br /> tiêu chí phân loại đô thị ở Việt Nam. lợi ích cho tập thể, ông không có nhiều đặc<br /> Huyện Lạc Dương có 19.298 người, trong quyền đặc lợi, trong cuộc sống hằng ngày<br /> đó các tộc người thiểu số bản địa chiếm tỷ vẫn phải lao động kiếm sống như mọi<br /> lệ 78.1% dân số toàn huyện. Thị trấn có người để nuôi mình và gia đình.<br /> tổng diện tích đất tự nhiên 7.061 ha, qui Thứ hai, để thực hiện công việc của<br /> mô dân số là 2.101 hộ với 9.213 người, làng, chủ làng thường dựa vào ý kiến của<br /> trong đó nhóm tộc người Kơho tại chỗ có các già làng có kinh nghiệm, được tôn<br /> 1.156 hộ chiếm gần 56%. trọng. Họ trở thành một tập thể quan trọng<br /> Xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ tham gia vào quá trình quản lý vận hành<br /> quan khách quan khác nhau của các quá mọi hoạt động sống của làng. Đó là “Hội<br /> trình xã hội như đô thị hóa, công nghiệp đồng già làng” họ tạo thành một cơ chế bao<br /> hóa, sự hội nhập và giao lưu quốc tế hay gồm những người đại diện cho các hộ gia<br /> đời sống cộng sinh giữa các nhóm cư dân đình trong làng. Đặc điểm già làng thường<br /> trở thành quy luật tất yếu tác động đến là người cao tuổi, am hiểu núi rừng, có tri<br /> chuyển biến xã hội trong “xã hội” người thức bản địa phong phú, nằm vững phong<br /> Kơho. Ở đây hiện đang diễn ra những thay tục tập quán, lịch sử của làng, được mọi<br /> đổi nhanh chóng về mọi mặt: kinh tế, văn người tin yêu kính trọng.<br /> hóa, xã hội, tôn giáo tín ngưỡng, truyền Trong nhiều buôn làng Kơho, bên cạnh<br /> thống xã hội, nghề nghiệp, lối sống, đặc chủ làng, các già làng, còn tồn tại một số<br /> biệt là hệ thống các định chế xã hội. chức sắc khác như tộc trưởng, chủ nhà, chủ<br /> 2. GIÀ LÀNG VÀ HỆ THỐNG đất – người làm nhiệm vụ điều hành sử<br /> QUẢN LÝ XÃ HỘI dụng và quản lý rừng, đất đai của cộng<br /> Trong quá khứ, làng cổ truyền của dân đồng. Thầy cúng hay thầy phù thủy theo<br /> tộc Kơho là một thiết chế xã hội mang tính cách gọi của các nhà nhân học, họ có<br /> tự quản. Hệ thống “chức sắc” trong làng nhiệm vụ giúp chủ làng, giúp cộng đồng<br /> (bon) có vị trí và vai trò quan trọng trong trong các lễ quan trọng, trong giao tiếp<br /> điều hành “bộ máy” và tập thể cộng đồng giữa con người và thần linh, họ có chức<br /> mà họ “lãnh đạo”. năng như B.Maninowski gọi là vừa mang<br /> Trước hết, đứng đầu là vị chủ làng tính “công khai” vừa “tiềm ẩn” giống như<br /> (Tom Bon), người có uy tín, am hiểu lễ hội cầu mưa của nhóm cư dân trên các<br /> phong tục tập quán, có nhiều kinh nghiệm đảo ở Thái Bình Dương.<br /> trong lao động sản xuất, có khả năng tổ Chủ làng và hội đồng già làng (hay già<br /> chức, điều hành công việc của làng từ đối làng) điều hành quản lý công việc chung<br /> nội đến đối ngoại bao gồm: Chủ trì các lễ của làng Kơho bằng luật tục (tập quán pháp)<br /> <br /> 114<br /> nhằm duy trì bảo vệ các giá trị cộng đồng, Nguyên nhân vai trò, vị thế xã hội của<br /> đảm bảo sự phát triển lành mạnh và trường các “chức sắc” vốn có ảnh hưởng quyết<br /> tồn dân tộc mình. Người dân trong làng lo định đến đời sống cộng đồng trong truyền<br /> sợ nhất là bị ruồng bỏ hay bị đuổi ra khỏi thống trước đây nay ít nhiều đã suy giảm<br /> cộng đồng, nên tuyệt đại bộ phận tuân thủ đó là do các yếu tố cơ bản của chuyển biến<br /> các quy định vốn có một cách tự giác. thiết chế. Cụ thể:<br /> Bước vào xã hội hiện đại nhất là xã hội Cuộc sống người dân Kơho Lạc<br /> thị dân, thiết chế cũ với vai trò chủ làng, Dương đã định cư từ lâu, đời sống không<br /> chủ rừng, hội đồng già làng suy yếu. Các quá phụ thuộc vào tự nhiên, rừng núi,<br /> khái niệm chủ làng, chủ rừng trở nên mờ nương rẫy, …<br /> nhạt, không còn tồn tại trong cộng đồng. Chịu sự chi phối và ảnh hưởng của các<br /> Già làng là những người có uy tín, vẫn định chế xã hội hiện đại, mang tính quan<br /> đóng vai trò quan trọng nhất định trong phương.<br /> công tác hòa giải, vai trò động viên tinh Khi thị trấn thành lập, cách tổ chức<br /> thần trong cộng đồng nhiều hơn, tiếng nói quản lý công dân theo hình thức mang tính<br /> đại diện cho quyền lực trong cộng đồng thiết chế, đô thị: Tổ dân phố, khu phố văn<br /> như trong quá khứ có phần suy giảm nhất hóa, văn minh đô thị. Thị trấn là nơi có sự<br /> là tại các khu vực đô thị. tiếp nhân và thường xuyên chịu sự tác<br /> Phỏng vấn ông B. J. Cán bộ Thị trấn, động của các hoạt động kinh tế – chính trị<br /> sinh năm 1972, ngày 24/08/2014 cho biết: – xã hội thông qua các quá trình như: Đô<br /> “Trong thiết chế cộng đồng người Kơho thị hóa ở địa phương xuất phát từ chủ<br /> ở thị trấn Lạc Dương hiện nay vai trò già trương hình thành khu công nghệ cao; các<br /> làng, chủ làng, chủ rừng không còn nữa. Già hoạt động du lịch ảnh hưởng do là yếu tố<br /> làng trước đây có tiếng nói rất quan trọng vùng ven thành phố Đà Lạt<br /> nay còn ít, thay vào đó là những người trong Trình độ dân trí so với nhiều địa<br /> cộng đồng, dòng họ lớn, giàu có, có trình độ, phương trong tỉnh có trình độ học vấn từ<br /> ăn nói tốt trong địa phương thì sẽ là những trung học cơ sở trở lên (chiếm 60,2%).<br /> người có uy tín, nói bà con nghe theo. 3. LUẬT TỤC TRONG QUÁ TRÌNH<br /> Già làng ở thị trấn vẫn còn nhưng uy PHÁT TRIỂN<br /> tín không bằng trước đây, đang dần dần bị Mỗi cộng đồng cư dân Tây Nguyên<br /> mất. Hiện nay có nhà thờ, người dân tin đều có một Luật tục riêng, nhằm duy trì<br /> tưởng vào chức sắc tôn giáo hơn”. các mối quan hệ xã hội bao gồm quản lý<br /> Đợt khảo sát tháng 08/2014, chúng tôi điều hành xã hội, kiểm soát, chế tài các<br /> có nêu ra câu hỏi: “Khi giải quyết các ranh hành vi con người. Luật tục cũng chính là<br /> chấp/ xung đột mà không thể tự hòa giải thái độ ứng xử giữa con người với con<br /> được thì ông/bà thường tìm đến tổ chức, cá người trong xã hội và con người với môi<br /> nhân nào?” Kết quả cho thấy rằng trong trường tự nhiên.<br /> 280 người được hỏi là: Xung đột vợ chồng Luật tục được các nhà khoa học nghiên<br /> có 47.3% số người được hỏi nói là tìm đến cứu với nhiều tên gọi khác nhau: Luật<br /> người uy tín trong dòng họ, trong khi đó phong tục (Customary Law), luật dân gian<br /> già làng chiếm 8.2%. Mâu thuẫn anh em, tỉ (Folk – Law), Luật truyền thống<br /> lệ là: 59.1% và 12.2%. (Traditional Law), Luật địa phương ( Local<br /> <br /> 115<br /> Law), nhưng dù dưới tên gọi nào đi nữa, như những hình phạt quá khắc khe: phạt<br /> Luật tục cũng cho thấy nó được hình thành bằng đền bù trâu bò, ăn bằng máng dưới<br /> trong quá trình phát sinh, phát triển của tộc đất, hay khi bị kết tội là “ ma lai” bị đuổi ra<br /> người, được tích lũy và luân chuyển từ thế khỏi cộng đồng, bị bệnh tật nặng nghi<br /> hệ này đến thế hệ khác, không ngừng được truyền nhiễm thì không được cộng đồng<br /> bổ sung hoàn chỉnh để trở thành dạng “ luật chăm lo chữa trị mà bị cách ly với xã<br /> pháp đặc thù” của một dân tộc, đảm bảo cho hội…. Điều này không phù hợp trong xã<br /> dân tộc đó ổn định, phát triển bền vững. hội tiến bộ, hiện đại ngày nay.<br /> Luật tục có đặc điểm chung là sản Luật tục Kơho được hình thành và đúc<br /> phẩm của các xã hội cổ truyền gắn liền với kết từ các giá trị nhân văn lâu đời được hình<br /> những đặc điểm, điều kiện xã hội, địa lý tự thành qua quá trình lao động, sáng tạo, và<br /> nhiên của mỗi cộng động dân cư, gắn với sống hòa đồng với thiên nhiên. Luật tục<br /> tư duy là sự suy nghĩ, tình cảm, quan niệm Kơho đề cập đến khá nhiều vấn đề mang<br /> về sở hữu, tâm linh, ứng xử văn hóa của tính “ toàn diện của luật pháp sơ khai” trong<br /> cộng đồng. Có những nét tương đồng, có đó chứa đựng các nguyên tắc khai thác, sử<br /> nét khác biệt giữa luật tục và pháp luật. dụng, bảo vệ rừng và đất đai, các quy định<br /> Luật tục là của một tộc người, còn luật về sở hữu tài sản cá nhân, cộng đồng, mang<br /> pháp là của một nhà nước quốc gia dân tộc. tính giáo dục, định hướng hành động xã hội<br /> Luật tục phản ánh mối quan hệ cộng đồng theo các chuẩn mực đạo đức, phân biệt<br /> được xây dựng trên cấu trúc, xã hội cổ thiện- ác, đúng-sai. Đồng thời có tính răn<br /> truyền, là thói quen, kinh nghiệm của con đe, xử phạt – động viên, khen thưởng áp đặt<br /> người được hình thành trong quá trình tồn lên cá nhân và cộng đồng.<br /> tại, vận đồng tại gia đình – dòng họ – buôn Luật tục vận hành trong xã hội Kơho với<br /> làng và có tính cố kết cao. Luật tục là hình nhiều quy định liên quan đến nhiều vấn đề tổ<br /> thái sơ khai của luật pháp trong xã hội chưa chức xã hội. Khoảng hơn 400 “ điều khoản”<br /> có nhà nước, chưa phân chia giai cấp nhằm tập trung vào các chủ đề trong cuộc sống:<br /> hướng dẫn, điều chỉnh, điều hòa các quan quy định ứng xử với rừng, thần linh, lễ hội,<br /> hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng cưới xin, ma chay… và các hình phạt.<br /> đồng, cộng đồng này với cộng đồng khác. Bước vào xã hội ngày nay, nhiều điều<br /> Luật tục được lưu giữ từ đời này sang đời quy định trong luật tục không còn phổ<br /> khác thông qua trí nhớ, thông qua truyền biến. Xã hội tộc người Kơho ở trung tâm<br /> miệng của người dân. Nó góp phần gìn giữ, thị trấn Lạc Dương chấp hành các chủ<br /> củng cố sự ổn định của buôn làng và tạo trương chính sách của Đảng và pháp luật<br /> nên các giá trị văn hóa cho từng dân tộc. của Nhà nước. Mọi xét xử liên quan đến<br /> Luật tục bên cạnh những mặt tích cực quyền lợi, nghĩa vụ công dân được thực<br /> thì còn một đặc điểm nữa là có những hạn hiện bởi cấp thấp nhất là các tổ hòa giải, tổ<br /> chế nhất định, đôi khi rất nghiệt ngã, thiếu văn hóa khu phố, cao hơn là tòa án các cấp.<br /> dân chủ, thiếu khách quan mang nặng tính Khảo sát, phỏng vấn 280 người tại Lạc<br /> cảm tính, đối xử với con người trong bối Dương, mọi người đều khẳng định “ Tòa<br /> cảnh xã hội mà con người sống gắn chặt án phong tục” của người Kơho thị trấn hiện<br /> với môi trường tự nhiên nên không tránh nay không còn hiện hữu. Ông B.J cho rằng<br /> khỏi những vấn đề mang tính hủ tục. Ví dụ “Luật tục còn giữ ít thôi, giải quyết theo<br /> <br /> 116<br /> luật pháp hết, tình trạng con cô con cậu lấy quy định riêng trong mỗi dòng họ và hầu<br /> nhau còn rất ít, tòa án phong tục thì không như được “ thu xếp” ổn thỏa, chỉ những<br /> còn nữa.” Không còn tín ngưỡng theo kiểu vấn đề nghiêm trọng mới đưa ra chính<br /> cúng tế như trước đây, Đảng và nhà nước quyền để giải quyết.<br /> đưa ra chủ trương chính sách mang tính Cuối cùng tôn giáo và các thiết chế của<br /> định hướng rồi, ma chay hay cưới xin đều tôn giáo xâm nhập cồng đồng Kơho những<br /> thực hiện trong nhà thờ.” năm 30-40 của thế kỷ XX cũng như sự<br /> Đa số người dân được khảo sát cho phát triển nhanh của đạo Tin lành và Thiên<br /> rằng: Mọi cúng tế không theo nghi thức Chúa giáo góp phần làm biến đổi không<br /> trước đây, người dân đã bỏ nhiều hủ tục chỉ thiết chế làng bản mà cả hệ thống chức<br /> như không còn ăn uống linh đình kéo dài sắc bon làng cùng hệ thống niềm tin, các<br /> nhiều ngày nữa, lể vật mang theo còn rất ít, tín ngưỡng truyền thống.<br /> chủ yếu là đi phong bì, việc chôn cất người 4. KẾT LUẬN<br /> chết không theo dòng họ rải rác như trước Nhìn chung, trong quá trình tồn tại và<br /> mà hình thức giống người Kinh. phát triển trước khi chuyển sang xã hội đô<br /> Qua nghiên cứu, quan sát và phỏng vấn thị, thị tứ bước đầu hình thành lối sống thị<br /> sâu chúng tôi nhận thấy luật tục tuy đã suy dân thì cộng đồng cư dân Kơho ở thị trấn<br /> giảm nhiều, song một số vấn đề quan trong Lạc Dương đã phải trải qua thời gian dài<br /> mang tính giáo dục, lưu truyền, truyền sống trong cơ cấu tổ chức xã hội cổ truyền<br /> thống tộc người không hoàn toàn biến mất mà nền tảng của nó là bon với các định chế<br /> tại thị trấn. Hình thức lưu truyền là những cơ bản bao gồm luật tục và hệ thống “ chức<br /> lời răn dạy, khuyên bảo, những vật dụng sắc” như chủ làng, già làng, chủ đất. Sau<br /> cổ, hay các nghi thức quan trọng trong gia ngày giải phóng quá trình di dân ồ ạt và<br /> đình, dòng họ. Chiếc “ché” cổ của cộng nhiều chính sách vĩ mô thời kỳ này đã làm<br /> đồng dòng họ không phải ai cũng được trao cho tình hình Tây Nguyên và Lâm Đồng có<br /> quyền nắm giữ. Khi tổ chức một nghi lễ nhiều chuyển biến quan trọng, cục diện tổ<br /> quan trọng như mừng thọ hay lễ cúng trong chức xã hội có nhiều thay đổi. Ở thị trấn<br /> đời sống thường nhật, mọi thành viên khi Lạc Dương được bổ sung thêm bằng tác<br /> tham gia uống rượu cần vẫn phải có những động của các nhân tố đô thị hóa như ảnh<br /> câu khấn cầu nguyện hay tục “ xoay cần”, hưởng văn hóa du lịch, quá trình phát triển<br /> “chạm cần” như là một nét văn hóa vừa của thành phố Đà Lạt, Xã Lát trở thành thị<br /> trang trọng vừa linh thiêng phải có. trấn cấp huyện ( Đô thị loại V). Bên cạnh<br /> Kết quả khảo sát cũng cho thấy có từ đó, các sự xâm nhập tôn giáo ( Tin Lành,<br /> 50-80% những người được hỏi rằng khi Thiên chúa giáo) có tác động không nhỏ<br /> giải quyết những vấn đề có liên quan đến góp phần làm thay đổi tổ chức xã hội truyền<br /> gia đình thì ít khi đưa nhau ra cơ quan công thống của cư dân thị trấn Lạc Dương. Do<br /> quyền có thẩm quyền để gia quyết mà chủ vậy, vấn đề đặt ra là toàn bộ hệ thống chính<br /> yếu thực hiện trong dòng họ với nhau. trị cần có sự quan tâm nghiên cứu để có<br /> Điều này cho thấy yếu tố luật tục không những chính sách vĩ mô phù hợp với thực<br /> “hiện” ra bên ngoài nhưng lại “ẩn” trong tiễn hiện đang diễn ra với tốc độ nhanh<br /> dòng họ, giải quyết những bất đồng khi chóng cho các cư dân bản địa Tây Nguyên<br /> không còn tòa phong tục thì vừa có những nói chung, tộc người Kơho nói riêng.<br /> <br /> 117<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 1. Phan Ngọc Chiến (Chủ biên) (2005), Người K’ho ở Lâm Đồng, Nxb Trẻ, Thành phố<br /> Hồ Chí Minh.<br /> 2. Bùi Minh Đạo (2011), Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển<br /> bền vững. Nxb KHXH, Hà Nội.<br /> 3. Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng (2003), Dân tộc Kơho ở Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội.<br /> 4. Mạc Đường (Chủ biên) (1983), Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở văn hóa tỉnh Lâm<br /> Đồng xuất bản.<br /> 5. Lê Văn Khoa – Phạm Quang Tú (2014), Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên,<br /> Nxb Tri Thức, Hà Nội.<br /> 6. Lê Văn Kỳ (Chủ biên) và đồng nghiệp (2005), Phong tục tập quán cổ truyền một số<br /> dân tộc thiểu số Nam Tây Nguyên, Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.<br /> 7. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu, (1998), Văn hóa các dân tộc<br /> thiểu số ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> 8. Nhiều tác giả (1989). Những kết quả nghiên cứu kinh tế – xã hội Lâm Đồng, Nxb<br /> KHXH, Hà Nội.<br /> 9. Krajan Plin (2010), Luật tục người K’ho Lạch, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.<br /> 10. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,<br /> Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br /> <br /> * Ngày nhận bài: 06/3/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2