CÁC MÔ HÌNH KHÔNG GIAN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KÌ<br />
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN<br />
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Khác với tư duy của con người hiện đại, tâm thức của người nguyên<br />
thủy không hề có sự phân biệt giữa thế giới siêu nhiên, vô hình với thế giới<br />
hữu hình, tự nhiên. Những thần thoại đối với người sáng tạo ra nó không phải<br />
là hư cấu nghệ thuật, mà là miêu tả những điều thực tế đã và đang diễn ra.<br />
Truyện cổ tích là một “mảnh vỡ” của thần thoại, nó kế thừa một cách tích cực<br />
thế giới quan thần thoại, đặc biệt là lối tư duy nhị phân và sự tri giác các mô<br />
hình thế giới của người nguyên thủy. Thừa hưởng những điều đó, kết hợp với<br />
những yêu cầu có tính nguyên tắc về mặt nghệ thuật, không gian trong truyện<br />
cổ tích kéo theo những phạm trù phi không gian trong đó đều tuân theo logic<br />
nhị phân. Các mô hình thế giới trong truyện cổ tích cũng được xây dựng theo<br />
kiểu phân đôi hoặc kiểu mô hình ba tầng thế giới.<br />
<br />
Lotman, nhà nghiên cứu nổi tiếng của chủ nghĩa cấu trúc đã nhấn mạnh rằng “Việc chú ý<br />
đến vấn đề không gian nghệ thuật là hệ quả của những quan niệm coi tác phẩm như một<br />
không gian hình ảnh được khu biệt, phản ánh trong cái hữu hạn của mình một thế giới vô<br />
hạn là không gian bên ngoài tác phẩm” [9, 200]. Nhận định này có thể nói đã bao quát<br />
hết tầm quan trọng của không gian nghệ thuật, một trong những thành tố kiến tạo nên một<br />
tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Mỗi một tác phẩm văn học đều có một không gian đặc thù.<br />
Đó là một dạng không gian đã được khu biệt hóa, trong đó chứa đựng mối liên hệ giữa<br />
các tính chất của không gian thông thường như cao - thấp, phải - trái, gần - xa, rộng hẹp… Mặt khác, mỗi một phạm trù chứa đựng những đặc tính không gian ấy lại là<br />
phương tiện để thể hiện thế giới, trong đó bao hàm cả những giá trị vốn bản thân chúng<br />
không chứa đựng những tính chất không gian như tôn giáo và đạo đức… Truyện cổ tích<br />
cũng vậy, do thừa hưởng lối tư duy nhị phân của con người từ thời viễn cổ, không gian<br />
nghệ thuật kéo theo những phạm trù phi không gian trong đó đều tuân theo lôgic nhị<br />
phân, được bao bọc trong một mô hình thế giới phân đôi và mô hình tam thế giới.<br />
1. TƯ DUY NHỊ PHÂN CỦA CON NGƯỜI THỜI CỔ - CƠ CHẾ SẢN SINH CÁC<br />
MÔ HÌNH KHÔNG GIAN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH<br />
Truyện cổ tích được xem là một trong những hình mẫu cổ điển của Folklore. Các nhà<br />
khoa học như Meletinsky, Dovletov, hay Propp đều đã chứng minh truyện cổ tích ra<br />
đời như một thể loại cơ bản vào thời kỳ tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Tuy<br />
nhiên, họ cũng khám phá ra rằng bản thân nó đã được hoài thai từ thời kỳ tiền giai cấp,<br />
khi tư duy con người vẫn còn tồn tại trong “tiền logic”. Là thể loại có mặt từ rất sớm<br />
nhưng truyện cổ tích vẫn có nguồn gốc và thoát thai từ thần thoại, một thứ thần thoại đã<br />
được “giải thiêng” và “thế tục hóa”, một “mảnh vỡ” của thần thoại. Chính vì lẽ đó, dẫu<br />
đã tạo dựng được cho mình một sự tồn tại đẳng lập qua một diện mạo nghệ thuật có<br />
những cấu tạo riêng biệt, nhưng truyện cổ tích vẫn kế thừa một cách tích cực thế giới<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 03(11)/2009: tr. 77-83<br />
<br />
78<br />
<br />
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN<br />
<br />
quan của thần thoại. Thế giới quan ấy được thể hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp<br />
trong các câu chuyện cổ. Để hiểu được bản chất sâu xa của các mô hình không gian<br />
nghệ thuật và sự dịch chuyển của nhân vật giữa các dạng thức không gian đó, chúng ta<br />
cần có cái nhìn thấu đáo hơn về tư duy của con người thời cổ, về cội rễ phát sinh thế<br />
giới quan và các loại hình không gian trong truyện cổ tích thần kỳ.<br />
Trong công trình nổi tiếng Hình thái học của nghệ thuật, Macgan có những nghiên cứu<br />
sâu sắc về tính hỗn đồng của tư duy nguyên thủy. Ông cho rằng: “Tình trạng con người<br />
chưa tách mình ra khỏi tự nhiên, việc con người tinh thần hóa tự nhiên, cấp cho nó hình<br />
dáng người, tình trạng thiếu ranh giới giữa cái hiện thực và cái quái đản - đó là những<br />
đặc điểm của cấu trúc nhận thức nguyên thủy, chỉ có thể thể hiện thích hợp trong hình<br />
tượng nghệ thuật mà thôi” [4, 254]. Theo ông, chuyện kể về những truyền thuyết cổ<br />
xưa nhất chẳng qua là những huyền thoại, tức là lời tự sự quái đản về cuộc sống của<br />
thiên nhiên, nguồn gốc của con người, những quan hệ giữa con người với động vật, cây<br />
cỏ. Điều quan trọng hơn cả là các yếu tố tự nhiên và những bài tự sự này đối với những<br />
người tạo tác ra nó hoàn toàn “không phải là hư cấu nghệ thuật, mà là miêu tả những<br />
điều thực tế đã diễn ra và đang diễn ra” [4, 251].<br />
Không chỉ riêng Macgan, những nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng khác như Taylor, nhà<br />
xã hội học Bruhl, nhà nhân học trứ danh Frazer… đều đi đến kết luận: Đặc điểm nổi bật<br />
nhất của tư duy con người thời cổ chính là kết quả của việc, một mặt chưa tách mình ra<br />
khỏi thế giới tự nhiên, mặt khác con người, một cách cố tình, gán cho môi trường tự<br />
nhiên những thuộc tính của bản thân mình, như sự sống, khát vọng, diện mạo và đặc<br />
biệt là cơ cấu tổ chức xã hội của chính con người. Đấy là lý do cho sự ra đời của tín<br />
ngưỡng vật linh, các thuyết về vật tổ, ma thuật vi lượng, hay quan niệm về “sự tham dự<br />
thần bí” của các thế lực thần thánh trong đời sống thường nhật của con người.<br />
Levi-Strauss-nhà khoa học khởi xướng trường phái nhân loại học cấu trúc lại kiến giải<br />
về khả năng tư duy của người nguyên thủy theo một hướng khác. Ông cho rằng con<br />
người ở các dân tộc thời cổ cũng có khả năng tư duy logic và tư duy đó không phải là<br />
kém phát triển: “Họ nhận xét thế giới trước hết bằng các cặp đối lập mà cơ bản nhất là<br />
hai cặp Trời / Đất và Đực / Cái. Hai cặp này cũng lồng vào nhau như Trời/Đất //<br />
Đực/Cái. Những bản phối hợp của chúng có thể biến thành nhiều “bản hòa tấu” trong<br />
thế giới của những ký hiệu, tượng trưng và thần thoại. Từ tư duy cặp đối lập, họ tìm ra<br />
yếu tố trung gian xen vào giữa, yếu tố có sứ mạng hòa giải tạo nên sự cân bằng. Nhiều<br />
nghi lễ, tập tục, thần thoại được tạo ra là để cụ tượng hóa yếu tố trung gian này. Chúng<br />
vừa là văn hóa nghệ thuật, vừa là công cụ giải thích thế giới, vừa có chức năng nghệ<br />
thuật, vừa có chức năng tôn giáo” [9, 28].<br />
Meletinsky cũng đồng ý với quan điểm này. Theo ông, bước đường chuyển hóa tư duy<br />
và nhận thức từ thần thoại sang cổ tích đến sử thi anh hùng bị chi phối bởi lối tư duy nhị<br />
phân và lôgic nhị phân của con người thời cổ “Logic huyền thoại sử dụng rộng rãi các<br />
cặp đối lập nhị phân (cặp đôi) những phẩm chất cảm xúc, đồng thời nó khắc phục tính<br />
“liên tục” của tri giác về thế giới xung quanh bằng cách tách các khuôn hình riêng rẽ<br />
có dấu hiệu mâu thuẫn” [6, 219].<br />
<br />
CÁC MÔ HÌNH KHÔNG GIAN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ<br />
<br />
79<br />
<br />
Truyện cổ tích thoát thai từ thần thoại, là một mảnh vỡ của thần thoại nên phương diện cơ<br />
bản nhất của thần thoại còn được bảo lưu một cách độc đáo trong truyện cổ tích đó chính<br />
là lối tư duy nhị phân. Nó đã chuyển hóa và in dấu ấn rất đậm vào trong các motif của<br />
truyện kể dân gian. Trong bảng tra motif của Thompson, riêng phần “Hành trình đến thế<br />
giới khác”, chúng ta có thể thấy thường xuyên xuất hiện các motif thể hiện sự phân đôi<br />
của các sự vật hiện tượng theo logic nhị phân này. Chẳng hạn như: “Lên trời bằng cừu<br />
trắng, xuống địa ngục bằng cừu đen” (F69), “Phân chia giới tính trong thế giới khác”<br />
(F.112.0.2), “Hành trình đến vùng đất của những người khổng lồ và những người tí hon”<br />
(F.123), “Mùa hè ở thế giới khác trong khi ở thế giới người chết đang là mùa đông”<br />
(F.161.1.1), “Đồ vật có phẩm chất trái ngược nhau được tìm thấy trong khu vườn ở thế<br />
giới khác” (F.162.1.2.), “Vòi nước đắng và ngọt trong khu vườn ở thế giới khác”<br />
(F.162.1.2.1), “Nước sôi và nước lạnh trong khu vườn ở thế giới khác” (F.162.1.2.2), “Đồ<br />
vật ở phía này thì màu trắng, phía kia thì màu đen trong khu vườn ở thế giới khác”<br />
(F.162.1.2.3), “Cây một nửa đang xanh, một nửa đang cháy trong khu vườn ở thế giới<br />
khác” (F.162.1.2.4), “Cây tri thức cho thiện và ác trong thế giới khác” (F.162.3.5)…<br />
Lối tư duy nhị phân này của người nguyên thủy chính là nguyên nhân sâu xa, là cơ chế<br />
sản sinh ra các mô hình không gian trong truyện cổ tích.<br />
2. MÔ HÌNH THẾ GIỚI PHÂN ĐÔI<br />
Như đã nói, Levi-Strauss rất chú tâm đến nguyên tắc nhị phân trong tư duy của con người<br />
thời cổ. Ông chứng minh rằng người nguyên thủy tư duy theo từng cặp đối lập, đồng thời<br />
đưa ra những kiến giải cho rằng logic nhị phân là công cụ chính yếu của phương pháp<br />
huyền thoại hóa. Levi-Strauss cho rằng: người nguyên thủy phân thế giới thành Trời và<br />
Đất, Đực và Cái. Trời và Đất, Đực và Cái lại tiếp tục hình thành nên một cặp đối lập. Từ<br />
những bản phối hợp này có thể biến thành nhiều “bản hòa tấu” khác nhau. Tương tự,<br />
chúng ta có thể tìm thấy trong truyện cổ tích hàng trăm những cặp không gian đối lập,<br />
phân đôi như vậy. Ví dụ: không gian tĩnh và động, không gian kết nối và đứt quãng,<br />
không gian xa và gần, không gian chật và rộng, không gian tối và sáng…<br />
Tất cả các cặp đối lập trong không gian cổ tích ấy đều chứa đựng những nội hàm tư<br />
tưởng và đạo đức. Nhân vật trong truyện cổ tích thường bị phân hóa chức năng theo các<br />
loại hình không gian ấy. Chẳng hạn nhân vật cổ tích sống trong không gian tĩnh là ngôi<br />
làng của mình. Khi bị xua đuổi, lập tức anh ta bị đẩy vào một không gian động đó là<br />
khu rừng. Chỉ những chuyện ly kỳ và rùng rợn mới xảy ra trong khu rừng, chỉ có ở<br />
trong khu rừng, nhân vật cổ tích mới bị buộc phải chiến đấu và vượt thoát khỏi các cạm<br />
bẫy. Những con quỷ, những mụ phù thủy ăn thịt người lại chỉ sống trong không gian<br />
của khu rừng, chúng không được xâm nhập vào ngôi làng. Cấu trúc văn bản của một<br />
câu chuyện cổ tích bị phân đôi và như thế kéo theo sự phân đôi của mô hình không gian<br />
được khu biệt hóa ở trong đó. Từ sự phân đôi trong mô hình không gian, như đã nói, các<br />
phạm trù phi không gian trong đó cũng sẽ phân hóa tương tự. Truyện cổ tích vì vậy luôn<br />
chứa đựng sự phân đôi trong các phạm trù đạo đức, tôn giáo… Đó là sự đối lập giữa<br />
thiện và ác, tốt và xấu, cao cả và thấp hèn, thiêng liêng và phàm tục, giàu và nghèo, cai<br />
trị và bị trị, thông minh và ngu ngốc… Cũng với nguyên lý như thế, chu kỳ thời gian<br />
<br />
80<br />
<br />
NGUYỄN THỊ KIM NGÂN<br />
<br />
trong chính các xã hội cổ xưa cũng phụ thuộc vào mô hình phân đôi. Nó là sự đối lập<br />
giữa thời gian thần thánh và thời gian phàm tục, là “trước đây và bây giờ, là quá khứ và<br />
hiện tại... Ở đây sự phân đôi không chỉ được hiểu theo nghĩa đơn thuần mà là theo hình<br />
thức đối lập đẳng cấp.<br />
Dĩ nhiên, nếu cho rằng sự phân đôi trong không gian cổ tích chỉ hoàn toàn xuất phát từ<br />
tư duy nhị phân của con người thời cổ có lẽ là chưa đầy đủ. Nguyên nhân là truyện cổ<br />
tích có thể thoát thai từ thần thoại, nhưng hơn hết, nó là một thể loại độc lập. Khác với<br />
thần thoại, sự tạo tác ra truyện cổ tích đã có sự tham gia của các thủ pháp nghệ thuật có<br />
ý thức. Xuất phát điểm là từ tư duy và logic nhị phân của con người thời cổ, đến truyện<br />
cổ tích, việc phân đôi mô hình thế giới đã trở thành một trong những thủ pháp có tính<br />
chất nguyên tắc trong quá trình nghệ nhân sáng tạo nên một câu chuyện. Axel Olriki<br />
trong bài nghiên cứu Những quy tắc mang tính sử thi của truyện kể dân gian đã chứng<br />
minh truyện kể dân gian về mặt hình thức bị ràng buộc cao hơn hẳn những gì mà chúng<br />
ta vẫn hằng nghĩ. Ông gọi những quy tắc về mặt hình thức đó là những quy tắc sáng tác<br />
và tổng kết thành các loại sau: quy tắc về sự mở đầu và sự kết thúc, quy tắc về sự lặp<br />
lại, quy tắc về con số ba, quy tắc hoạt cảnh hai người, quy tắc về cặp song sinh, quy tắc<br />
về vai trò cuối tàu, quy tắc một sợi chỉ hành động, sự mô hình hóa nghệ thuật tạo hình,<br />
tính logic của truyện kể dân gian, tính thống nhất của hành động (tính thống nhất có tính<br />
chất hành động và tính thống nhất có tính chất lý tưởng), sự tập trung vào nhân vật<br />
chính (kể cả sự tập trung thật sự lẫn sự tập trung chỉ có tính chất hình thức trong một vài<br />
trường hợp) và đặc biệt quan trọng là “quy tắc về các cặp đối lập” [72, 254]. Vì vậy,<br />
bên cạnh không gian cung điện sẽ là không gian làng quê, một người anh sống trong<br />
cảnh nhung lụa sẽ là người em cô độc nghèo nàn sống trong một góc vườn hay trên một<br />
chiếc thuyền chài; một cô chị chăm ngoan, xinh đẹp, làm lụng vất vả sẽ xuất hiện bên<br />
cạnh một cô em xấu xí và biếng lười…<br />
Cũng theo hướng nghiên cứu cấu trúc văn bản, từ kết quả nghiên cứu hình thái học<br />
truyện cổ tích của Propp, Greimas trong công trình Ngữ nghĩa học cấu trúc đã quy bảy<br />
vai trò (7 nhân vật) thành ba cặp đối lập bao gồm: Chủ thể / Khách thể, Người cho / Kẻ<br />
nhận, Người giúp / Kẻ hại. Mô hình này chứa đúng sáu vai tính cách hay nhân vật hành<br />
động với tư cách là những phạm trù khái quát làm cơ sở cho các truyện kể. Sáu vai tính<br />
cách này hình thành từng cặp đôi một trong quan hệ đối lập, phân đôi và được sơ đồ hóa<br />
như sau:<br />
Người cho<br />
<br />
Khách thể<br />
<br />
Kẻ nhận<br />
<br />
Người giúp<br />
<br />
Chủ thể<br />
<br />
Kẻ hại<br />
<br />
Mô hình tinh giản mà Greimas đưa ra này cũng chính là một minh chứng quan trọng<br />
cho việc phân đôi mô hình thế giới trong truyện cổ tích. Sự phân đôi trong các phạm trù<br />
không gian đã kéo theo sự phân chia tương tự ở các phạm trù phi không gian xung<br />
quanh nó.<br />
<br />
CÁC MÔ HÌNH KHÔNG GIAN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ<br />
<br />
81<br />
<br />
3. MÔ HÌNH BA THẾ GIỚI<br />
Xuất phát từ lối tư duy và lôgic nhị phân, từ những ý niệm triết học về nhân sinh và vũ<br />
trụ từ thời xa xưa, người nguyên thủy hình dung thế giới theo mô hình thế giới phân đôi,<br />
theo quan hệ đối lập tầng bậc. Từ mô hình thế giới phân đôi ấy, người nguyên thủy bắt<br />
đầu hình dung những yếu tố đóng vai trò trung gian để kết nối các cặp đối lập. Mô hình<br />
thế giới theo trục dọc và phân chia thành ba lớp không gian hình thành từ đó. Như thế,<br />
mô hình ba lớp không gian chính là hệ quả trực tiếp của mô hình thế giới phân đôi. Nói<br />
cách khác, việc phân chia vũ trụ theo trời và đất, trên và dưới theo nguyên tắc nhị phân<br />
đã tạo thành những nhân tố quan trọng để định tính phân biệt về bản chất vũ trụ theo<br />
chiều dọc. Chính loại mô hình này đã khiến cho không gian nghệ thuật trong truyện cổ<br />
tích trở nên vô cùng độc đáo và phân biệt nó với các loại hình không gian nghệ thuật<br />
của các thể loại khác. Chúng ta gọi đó là mô hình tam thế giới. Thế giới trên cao (thiên<br />
đường, những hành tinh xa xôi, mặt trăng, mặt trời và các vì tình tú), thế giới trên mặt<br />
đất (bao gồm cả những thế giới khác cùng tồn tại trên mặt đất), và thế giới dưới mặt đất<br />
(âm ty, địa phủ và thế giới thủy cung).<br />
Meletinsky đã khẳng định: “Cách phân chia tam giới như vậy là kết quả của cặp đối<br />
lập cặp đôi “trên/dưới”, tiếp đó là kết quả của những đặc tính khác biệt giữa âm giới<br />
như là nơi trú ngụ của ma quỷ và thượng giới như là nơi sinh sống của các vị thần và<br />
sau đó là những người “được tuyển chọn” sau khi chết” [6, 285]. Như vậy, về nguyên<br />
tắc, lôgic nhị phân cũng gắn liền với việc phân chia thế giới theo nguyên tắc tam phân<br />
thành thiên giới, địa giới và âm giới (bao gồm cả thủy giới). Thompson trong Folktale<br />
đã nhận xét về mô hình các thế giới này như sau: “Nếu ta xem xét đến những nguồn gốc<br />
đa hình thức của truyện cổ tích Châu Á và Châu Âu, những hình thức có từ thời tiền sử,<br />
những truyện cổ tích phương Đông với sự phản ánh những niềm tin tôn giáo cổ xưa,<br />
những câu chuyện huyền thoại của người Celt và người Norse, những truyền thuyết của<br />
nhà thờ trung cổ, ta không ngạc nhiên khi nhận ra rằng đã tồn tại một cách mãnh liệt<br />
những niềm tin vào thế giới khác không phải là thế giới ta đang sống”. Ông cũng khẳng<br />
định trong phần lớn các truyện cổ tích Châu Âu ta thấy có một niềm tin về sự tồn tại của<br />
ba thế giới:“Trái đất, nơi chúng ta đang sống một cách bình thường; thế giới ở trên<br />
cao, hay thiên đường nơi những điều huyền bí có thể xảy ra; và cuối cùng là thế giới ở<br />
dưới thấp” [12, 56].<br />
Trong truyện cổ tích, khoảng cách giữa các thế giới này rất đặc biệt. Đôi khi thế giới ở<br />
trên cao và dưới thấp không cách xa nhau. Một cái cây có thể mọc vươn cao lên thiên<br />
đường chỉ sau một đêm, và một sợi dây lại có thể đủ để có thể leo xuống dưới địa ngục.<br />
Nhân vật có thể lên trời bằng chiếc cầu được làm bằng ánh nắng bình minh hay xuống<br />
thăm thế giới ở địa ngục thông qua một cái lỗ được tạo ra bằng cách nhổ một nhúm cỏ…<br />
Giữa các thế giới này luôn tồn tại những yếu tố đóng vai trò trung gian kết nối. Thông<br />
thường, các dân tộc từ thời thượng cổ hay hình dung sự kết nối giữa ba thế giới ấy chính<br />
là một cái cây vũ trụ. Cây vũ trụ này mang trên mình nó những sinh vật khác nhau như<br />
trên ngọn cây là chim đại bàng, dưới ngọn cây là những con mãng xà. Chúng đóng vai<br />
trò là những bậc thang của vũ trụ, là những khâu trung gian nối liền ba thế giới. Nhà<br />
<br />