intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các phương pháp phẫu thuật trong điều trị sỏi trong gan

Chia sẻ: Hạnh Hạnh Hanhhien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

66
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xuất phát từ mục đích nhằm lấy được sỏi trong đường mật một cách tối đa, đảm bảo lưu thông dịch mật xuống đường tiêu hóa và tránh ứ đọng dịch mật, cho đến nay đã có nhiều phương pháp khác nhau áp dụng điều trị sỏi trong gan, do vậy bài viết đưa ra các phương pháp phẫu thuật trong điều trị sỏi trong gan như mổ mở kinh điển, phương pháp mổ nội soi, mổ can thiệp qua da. Mời các bạn tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các phương pháp phẫu thuật trong điều trị sỏi trong gan

CÁC PHƢƠNG PHÁP PHẪU THUẬT TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI TRONG GAN<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Xuất phát từ mục đích nhằm lấy được sỏi trong đường mật một cách tối đa, đảm<br /> bảo lưu thông dịch mật xuống đường tiêu hóa và tránh ứ đọng dịch mật, cho đến nay đã<br /> có nhiều phương pháp khác nhau áp dụng điều trị sỏi trong gan.<br /> II. CÁC PHƢƠNG PHÁP LẤY SỎI TRONG GAN<br /> 2.1. Lấy sỏi bằng phƣơng pháp mổ mở kinh điển<br /> 2.1.1. Mở ống mật chủ lấy sỏi, dẫn lƣu Kehr:<br /> Đây là một kỹ thuật kinh điển mà những người đầu tiên mô tả về kỹ thuật này là<br /> Thorton và Able từ năm 1889[19] và sau đó chính Ludwing Courvoisier thực hiện thành<br /> công kỹ thuật này vào năm 1890. Kỹ thuật này càng được phát triển kể từ năm 1897 khi<br /> Hans Kehr sáng tạo ra ống dẫn lưu hình chữ T để dẫn lưu giảm áp sau mổ.<br /> Về kỹ thuật: sau khi mở bụng, bộc lộ ống mật chủ thì tiến hành mở một lỗ ở mặt<br /> trước của ống mật chủ (mở ngang hoặc mở dọc). Tuy nhiên với sỏi trong gan, nên mở<br /> dọc vì có thể kéo dài lên tận rốn gan giúp cho việc lấy sỏi thuận lợi hơn. Qua chỗ mở của<br /> ống mật chủ, người ta có thể dùng các dụng cụ: kìm Mirizzi hoặc kìm Randall với các độ<br /> cong khác nhau để lấy sỏi, bơm rửa để lấy sỏi ra. Sau khi lấy sỏi tối đa, bao giờ cũng<br /> kiểm tra sự lưu thông qua cơ Oddi bằng Mirizzi hoặc bằng bộ nong Béniqué. Cuối cùng<br /> đặt ống dẫn lưu Kehr và khâu kín OMC bằng chỉ tiêu.<br /> Áp dụng: Phương pháp này áp dụng cho tất cả các trường hợp có sỏi đường mật<br /> chính (trong và ngoài gan), trừ những trường hợp sỏi mật có chít hẹp, tắc ở phần thấp ống<br /> mật chủ và Oddi vì trong những tường hợp này nế chỉ lấy sỏi, dẫn lưu Kehr đơn thuần thì<br /> không đủ mà phải kết hợp thêm những kỹ thuật khác như nối mật ruột hoặc mở tạo hình<br /> cơ Oddi.<br /> Ưu nhược điểm: Đây là kỹ thuật không quá phức tạp, dễ làm và có thể áp dụng<br /> cho tất cả các trung tâm phẫu thuật có mổ sỏi mật, không những giúp cho việc lấy sỏi tức<br /> thì mà đối với những trường hợp có sỏi trong gan nhiều thì việc đặt Kehr còn là tiền đề<br /> cho những lần lấy sỏi qua đường hầm Kehr về sau. Tuy nhiên phương pháp này cũng có<br /> những khó khắn nhất định: những trường hợp bệnh nhân nặng, sốc nhiễm trùng, rối loạn<br /> <br /> đông máu do quá trình tắc mật...thì kỹ thuật này là một can thiệp nặng nhất là đối với các<br /> tuyến phẫu thuật viên ít kinh nghiệm và điều kiện gây mê hồi sức còn chưa tốt. Khi đó có<br /> lẽ chỉ cần một phương pháp giảm áp tạm thời như dẫn lưu túi mật, chọc dẫn lưu mật qua<br /> da hoặc nội soi tá tràng để đặt dẫn lưu từ đường mật xuống tá tràng.<br /> 2.1.2. Mở ống mật chủ lấy sỏi kết hợp mở nhu mô gan lấy sỏi, đặt dẫn lƣu trong gan<br /> Đây là một trong những kỹ thuật kinh điển để điều trị sỏi trong gan mà người đầu<br /> tiên thực hiện là Goetle.O vào năm 1951, sau đó là một loạt các tác giả khác như<br /> Munor.R năm 1959, Gleen và Moddy năm 1960...<br /> Chỉ định: Sỏi trong gan lan tỏa và sỏi nằm sâu, kẹt chặt trong các nhánh hạ phân<br /> thùy có khi sát bề mặt của nhu mô gan mà các dụng cụ qua đường dưới không thể thực<br /> hiện được.<br /> Về kỹ thuật: được Gleen và Moddy hoàn thiện và mô tả kỹ thuật: sau khi chụp<br /> đường mật xác định vị trí sỏi, chỗ có đường mật trong gan giãn to. Đưa dụng cụ thăm dò<br /> đường mật qua đường dưới, mở nhu mô gan trên dụng cụ thăm dò lấy sỏi, đặt dẫn lưu<br /> vào đường mật trong gan, khâu lại chỗ mở, cố định dẫn lưu ở chỗ mở nhu mô.<br /> Ưu điểm: là một kỹ thuật tốt giúp cho việc lấy sỏi tối đa, hạ thấp sót sỏi và tránh<br /> cho bệnh nhân mổ lại nhiều lần. Ống dẫn lưu trong gan có tác dụng giảm áp đường mật,<br /> nong chỗ chít hẹp, ngoài ra còn giúp bơm rửa tống sỏi xuống.<br /> Nhược điểm: Đây là một kỹ thuật khá phức tạp, thường chỉ được phẫu thuật bởi<br /> bác sỹ chuyên khoa, có kinh nghiệm. Tuy nhiên những biến chứng thường gặp là chảy<br /> máu, xì mật gây viêm phúc mạc, ápxe dưới hoành hoặc dò mật sau rút dẫn lưu, hoại tử<br /> <br /> nhu mô[3], [4].<br /> 2.1.3. Mở ống mật chủ lấy sỏi kết hợp cắt gan<br /> Ở Việt Nam năm 1960 GS Tôn Thất Tùng là người đầu tiên thực hiện cắt<br /> gan do sỏi và các bệnh lý đường mật nhiệt đới nói chung [10],[11].<br /> Chỉ định cắt gan do sỏi được Tôn Thất Tùng đặt ra khi sỏi trong gan khu trú<br /> ở một phân thùy hoặc hạ phân thùy kèm theo chít hẹp đường mật ở dưới chỗ có<br /> <br /> sỏi. Khi sỏi trong gan gây biến chứng như áp xe gan, chảy máu đường mật, ung thư<br /> đường mật.<br /> Theo GS Tôn Thất Tùng và Đỗ Kim Sơn [1] chỉ định cắt gan trong sỏi mật<br /> phải rất chặt chẽ và chỉ nên cắt gan nhỏ, tiết kiệm bởi lẽ bệnh nhân thường trong<br /> trạng thái nặng, nhiễm trùng, nhiễm độc và thường có rối loạn đông máu...Hơn<br /> nữa, sỏi trong gan có thể gặp ở nhiều vị trí và rất hay tái phát nên thường phải mổ<br /> lại nhiều lần do vậy việc cắt gan phải chặt chẽ và tiết kiệm.<br /> Kỹ thuật cắt gan trong sỏi mật: các tác giả trên thế giới đã thừa nhận hai<br /> phương pháp cắt gan kinh điển đó là: phương pháp Lortat Jacob và phương pháp<br /> Tôn Thất Tùng. Trên nguyên tắc kiểm soát các cuống mạch và đường mật trực tiếp<br /> trong nhu mô gan, cắt gan theo phương pháp Tôn Thất Tùng đã tránh được các bất<br /> thường giải phẫu đường mật và nguy cơ mất máu. Chính vì vậy phương pháp này<br /> rất có ưu điểm trong những trường hợp cắt gan nhỏ, phù hợp với các chỉ định và<br /> nguyên tắc cắt gan trong sỏi mật [10].<br /> Ưu điểm của cắt gan trong sỏi mật đã được nhiều tác giả trên thế giới<br /> khẳng định: cắt gan cho phép lấy sỏi một cách tối đa trong các trường hợp mà lấy<br /> sỏi đường dưới không thể thực hiện được, loại bỏ được các tổn thương hẹp đường<br /> mật mà đây chính là nguyên nhân hình thành sỏi mật. Cắt gan trong sỏi mật còn<br /> loại trừ được một số yếu tố nguy cơ của ung thư biểu mô đường mật [7],[16].<br /> Nhược điểm: đòi hỏi phẫu thuật viên có kinh nghiệm, nắm chắc giải phẫu<br /> cũng như kỹ thuật cắt gan. Tuy nhiên vẫn có tỷ lệ tử vong trong cắt gan và một số<br /> biến chứng có thể gặp như chảy máu mỏm cắt, xì mật gây viêm phúc mạc, áp xe<br /> dưới hoành, dò mật...<br /> 2.1.4. Mở ống mật chủ lấy sỏi và nối mật - ruột<br /> Phẫu thuật nối đường mật với đường tiêu hóa đã được thực hiện lần đầu tiên<br /> vào năm 1882 tại Đức bởi A.V. Winiwater, sau đó kỹ thuật này được áp dụng<br /> nhiều cho điều trị bệnh nhân sỏi mật vào những năm 1889 tại Pháp từ thông báo<br /> <br /> của Louis Félix Terrier[8]. Kể từ đó đã có rất nhiều tác giả khác nhau đã cải tiến<br /> cà đưa ra những kỹ thuật khác nhau trong nối mật ruột như: nối túi mật – tá tràng,<br /> nối ống mật chủ - tá tràng ( trực tiếp hoặc gián tiếp), nối ống mật chủ - hỗng tràng<br /> trên quai Y hoặc Omega, trên quai Y chống trào ngược hoặc trên quai Y có đầu<br /> ruột dưới da [2], [8]...<br /> Chỉ định: Phẫu thuật nối mật - ruột được chỉ định đối với sỏi trong gan khi:<br /> sỏi mật có kèm theo chít hẹp phần thấp ống mật chủ, chít hẹp Oddi, nang ống mật<br /> chủ phối hợp mà không có điều kiện cắt bỏ và khi sỏi trong gan nhiều không thể<br /> lấy hết được. Các tác giả chủ trương nối mật - ruột nhằm tạo ra đường lưu thông<br /> nhân tạo rộng rãi để sỏi có thể được đào thải qua miệng nối, góp phần điều trị sỏi<br /> sót, giúp dịch mật lưu thông dễ dàng tránh ứ đọng dịch mật nên hạn chế được tái<br /> phát sỏi và mổ lại nhiều lần.<br /> <br /> H1: Nối OMC-Tá tràng<br /> <br /> H2: Nối mật ruột Omega<br /> <br /> H3: Nối mật ruột Roux-en-y, dẫn lưu<br /> <br /> H4: Nối mật ruột với đầu ruột dưới da<br /> <br /> H5: Nối mật ruột với đường mật rốn gan (sau cắt gan)<br /> <br /> 2.2. Lấy sỏi bằng phƣơng pháp mổ nội soi<br /> Năm 1987 tại Pháp – Mouret.P là người đầu tiên thực hiện thành công cắt túi<br /> mật nội soi, mở ra một bước ngoặt trong phẫu thuật gan mật. Kể từ đó phẫu thuật<br /> này phát triển mạnh mẽ trên nhiều nước khắp thế giới. Trong bệnh lý đường mật,<br /> thời gian đầu người ta chủ yếu mổ nội soi đối với bệnh lý túi mật. Những trường<br /> hợp có kèm theo sỏi ống mật chủ (chụp CPRE hoặc chụp đường mật trong mổ)<br /> thường được lấy qua ống cổ túi mật hoặc bằng phẫu thuật cắt cơ thắt qua nội soi tá<br /> tràng.<br /> Về sau này các phẫu thuật viên có kinh nghiệm hơn, nhất là khi khâu trong<br /> mổ nội soi tốt hơn, việc lấy sỏi đường mật ít phải lệ thuộc vào kỹ thuật cắt cơ thắt<br /> qua nội soi mà có thể lấy sỏi bằng việc mở trực tiếp vào ống mật chủ khi đường<br /> kính ống mật chủ lớn hơn 8 mm.<br /> Các tác giả chủ trương mở ống mật chủ, sau đó luồn ống soi mềm để soi<br /> đường mật. Sỏi sẽ được lấy bằng các dụng cụ như Dormia, bóng Forgaty hoặc<br /> được tán sỏi điện thủy lực hoặc tán sỏi Laser. Kỹ thuật này cho phép lấy sỏi ống<br /> mật chủ rất tốt. Với các trường hợp sỏi trong gan hoặc sỏi ở ngã ba thì việc lấy sỏi<br /> khó khăn hơn nên các tác giả chủ trương lấy sỏi tối đa, bơm rửa đường mật rồi đặt<br /> Kehr vào ống mật chủ, khâu kín ống mật chủ bằng nội soi. Sỏi mật sót (không lấy<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2