intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các vấn đề có liên quan Thụ tinh trong ống nghiệm - Phần 2

Chia sẻ: Kien Kien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

142
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu dịch này sẽ giúp người đọc tìm hiểu về những nguyên nhân gây vô sinh, những khó khăn phúc tạp của việc chữa vô sinh, tìm hiểu về lĩnh vực vô sinh và điều trị vô sinh với các kỹ thuật hiện đại. Sau đây mời các bạn cùng tham khảo Tài liệu Thụ tinh trong ống nghiệm các vấn đề có liên quan đến phòng thí nghiệm (Phần 2)

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các vấn đề có liên quan Thụ tinh trong ống nghiệm - Phần 2

  1. 8 SựTHỤTINH (Thực hành) GIÚI thiệu Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đầu tiên được dùng để điều trị cho một nhóm bệnh nhân không có vòi trứng hoậc rối loạn chức năng của vòi trứng. Quá trình này nhầm muc đích tạo ra các điều kiện trong thực nghiệm giông như trong cơ thê đế noãn và tinh trùng có thể gặp nhau. Chỉ định điều trị thụ tinh trong ông nghiệm (IVF) thay đổi rất nhiều, tuy nhiên, thường được áp dụng đôi với những cặp vợ chổng mà người ta không biết được nguyẻn nhân vô sinh hoặc ờ những ngưòi đàn ông thiếu tinh dịch. Dần dần kỹ thuật thụ tinh trong Ống nghiệm IVF càng trờ nên tiến bộ, sử dụng kỹ thuật trong phòng thí nghiệm điểu chỉnh một số giai đoạn trong quá trình thụ tinh để rồi có thể gây thụ tinh cho nhóm bệnh nhân không thể có thai tự nhiên được, cụ thể là kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương của noãn (ICSI-intracytoplasmic sperm injection). Sau khi gây thụ tinh 12 đến 20 giờ xuất hiộn ít nhất 2 tiền nhân chúng tỏ hiện tượng thụ tinh đã xẩy ra vể mặt hình thái và vi thể .Tuy nhiên, có hay không có tiền nhân không phải là một bằng chúng chắc chắn. Đôi khi có thể nhẩm không bào của noãn với tiền nhăn, đặc biệt là đối với nhũng người nhìn không có kinh nghiệm. Đây chỉ là nhầm lẫn tạm thời. Nếu không nhìn thấy tiền nhân sự thụ tinh vản có thể xảy ra; tiền nhân được hình thành sau nên không nhìn thấy trong lần kiểm tra noãn hoặc sau khi đã xảy ra hiện tượng phân chia. Cũng không có thể nói sự phân chia là bằng chúng của sự thụ tinh. Nguời ta đã mô tả phôi ở giai đoạn 8 tế bào như là một sự sinh sàn đơn tính không có thụ tinh. Sự hiện diện 2 cục cáu là một bằng chúng quan trọng thứ hai chứng tỏ hiện tượng thụ tinh. Tuy nhiẽn cục cầu thứ nhất chỉ là một mảnh, vì vậy muốn xác đinh hiện tượng thụ tinh một cách chắc chín cần phải quan sát kết hợp nhiều mặt vào,các thời điếm khác nhau. Trước khi dưa tinh trùng và noãn vào đĩa hoặc ống để thụ tinh trong ống nghiệm cẩn phải xử lý tinh trùng. Tinh trùng phải được tách ra khỏi tinh dịch
  2. và xứ lý theo thủ tục thường lệ để đám báo lây được một sô lượng tinh trùng di động tót thu tinh cho noãn. Ó chương 3 " Tinh trùng/ thưc hành " đã nêu lên tấm quan trọng của quá trình xử lý tinh trùng trước khi thụ tinh. Trong chưcnig 3 này dã mỏ tả hai phương pháp xử lý đó là phương pháp "treo" và phương pháp Percoll. Trơng phần này chỉ nêu những điểm liên quan đến ván để chuẩn bị tinh trùng trước khi ủ tinh trùng và noãn, sô lượng tinh trùng cần thiết để đạt được cơ hội thụ tinh cao. Trong trường hợp tinh dịch quá tồi, chúng ta cần dùng đến phương pháp thụ tinh nhân tạo như: tiêm tinh trùng vào dưới lớp trong suốt(SUZI/Subzonal spermatozoon injection) hoặc tiêm tinh trùng vào trong bào tương của noãn (ICSI/ intracytoplasmic sperm injection). Trong những truờng hợp đặc biệt chọc hút lấy tinh trùng từ thừng tinh, sau đó sử dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiộm(IVF). Kỹ thuật này gọi là phưong pháp vi phẫu thuật hút tinh trùng từ thừng tinh (MESA/ Microsurgical epididymal sperm aspiration). Xử lý tỉnh trùng Trước khi bàn về các kỹ thuật xử lý tinh trùng ,chúng ta cần xem xét đến việc xử lý tinh dịch, những điểm cần đề phòng trong thực hành thụ tinh nhân tạo (... các chất liệu không độc được sử dụng đễ chứa...) Hai điểm cần phải nghiên cứu: đầu tiên là cần quan tâm đến thời gian kể từ khi lấy tinh dịch đến khi bắt đầu quá trình xử lý. Các nghiên cứu sử dụng thử nghiệm thâm nhập của tinh trùng đã chỉ ra rằng có sự liên hệ giữa khả năng thụ tinh của tinh trùng và thời gian chưa được xử lý này. Nếu tinh dịch không được xử lý trên một giờ thì kết quả của thử nghiệm thâm nhập của tinh trùng thấp hơn nhiều. Mặc dù nghiên cứu này không được tiến hành trong thực nghiệm thụ tinh trong ống nghiệm IVF ở người, nhưng những kết quả này vẫn có phần quan trọng. Thứ 2 là quan sát về hiện tượng hoá lỏng: các chất tiết của túi tinh góp phần J Ế Jtfai J L làm cho tinh dịch đông đặc ỉại . Người ta đã biết rằng khi phóng tinh tinh ^ A m * V • I ■^ I f • A • 1 • 1 .. . . ^ f « ** r ĩ* : 'Ẩ. i: i k . thực nghiệm đã chi fa rằng vấn đề hoá lỏng ít khi xẩy ra ở .urtĩ 1*3 >1r íÚẮ i' i u I 105
  3. Phuơng pháp chỉ sử dụng khả năng di chuyên của chính tỉnh trùng Chúng ta có thể lấy được tinh trùng tự do từ tinh dich mà không cần ly tâm bằng cách sử dụng phương pháp "bơi lên" hoặc "bơi xuống". Phương pháp bơi lên hoặc bơi xuống có lợi là tinh trùng không bị tổn thương do ly tâm. Bằng cách sử dụng khả nâng di chuyển của chính tinh trùng, chúng ta có thể tạo được điểu kiện giống tư nhiên. Tinh trùng chưa xừ lý được chia ra và đổ vào một số lọ, sau dó đổ lên trên tinh dịch một lớp mỏi trường nuôi cấy một cách cẩn thận. Sau một thời gian, người ta hút lớp phía trên chứa nhiếu tinh trùng có khả năng hoạt động nhất. Không hút lớp chứa hỗn hợp với tính dịch. Một cách khác là sử dụng ống TEA (hình 8.1 xem phụ bàn 4). Tinh trùng chưa xử lý được đặt ở phần bên trong (A) và môi trường nuỏi cấy ờ bén ngoài (B), lớp môi trường nuôi cấy đủ đầv để thông nối giữa hai phán A và B ở phía trên. Tinh trùng có khả năng di chuyên có thể đi qua lớp trên để tới phần (B) (bơi lên), Bằng cách này, ta thu được nhiều tinh trùng có khả năng di chuyển hơn. Người ta đã mô tả các dạng "bơi lên" hoặc "bơi xuống'' khác nhau. Điều bất lợi nhất cùa tất cả các phương pháp này là chi có thể lấy được hoàn toàn sạch sẽ một lượng nhỏ tinh trùng trong tổng số tinh trùng có khả năng hoạt động. Tất nhiên với các mẫu tinh trùng chất lượng kém thì thu được rất ít tinh trùng để sử dụng cho thử nghiệm thụ tinh trong ống nghiộm (IVF thành công. Các phương pháp ly tâm Trong những năm đầu tiên áp dụng thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), người ta pha tinh dịch với môi trường nuôi cấy rồi ly tâm. Sau khi loại bỏ phần nổi trên mặt bằng cách ly tâm và để ngưng tụ lại sau đó rửa khối tinh trùng còn lại nhiều lần. Một diéu bất lợi là cả tinh trùng khoẻ và yếu, các tế bào sinh tinh và bạch cầu đọng lại trong khối này dược pha loãng để cho vào noãn . Sau lần rửa cuối cùng nếu khối này không được để ngưng tụ lại mà dược phù một lóp môi truờng nuôi cấy, thì các tinh trùng khoẻ nhất có Ihể bơi lừ các khối này lên dung dịch ở phía trên. Bằng cách này, các linh tràng yếu và bạch cầu cũng có thể bị loại ra nhiều hay ít. Vào nẫm 1981 trong một bài . báo Aiken và Clarkson đã mô tả tác dụng bảo vệ của Percoll. Tác giả dã công bố là các tinh trùng có hình thái và chuyển dộng bình thường thì khả năng taọ ra gốc oxy kém hơn so với các tinh trùng bất thường, các bạch cẩu và các loại tế bào khác Ưong tinh dịch chua xử lý. Thông thường khi ly lAm 106
  4. thì tất cả các loại tế bào này được kết lại thành một khôi làm cho khoảng cách tế bào gẩn lại nên các gốc oxy có thể tác động đến màng của các tinh trùng sống. Tỷ lệ giữa tinh trùng sống với tế bào bất thường càng nhỏ thì khả nãng phá huỷ tinh trùng lớn hơn. Nếu sử dụng phương pháp Percoll sẽ không hình thành khối hỗn hợp này và các tinh trùng sống được phân tách một cách nhanh chóng với các tế bào bất thường. Các tinh trùng sống có mặt trội hơn trong khối Percoll, trong khi các tế bào không bình thường đọng lại ở phần dưới thấp hơn. Phương pháp này tạo ra hiện tượng phân tách tốt chọn được nhiều tinh trùng. Người ta tiến hành một số các thử nghiệm có kiểm tra so sánh tác dụng của các kỹ thuật xử lý lên kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiộm (IVF). Berger đã mô tả khả năng thâm nhập của tinh trùng sau khi đã xử lý bằng phương pháp Percoll tốt hơn so với các tinh trùng được xử lý bằng ly tâm hoặc phương pháp "bơi lên". Tuy nhiên trong thực nghiệm này, sau khi thực hiện phương pháp bơi lên lại ly tâm tinh trùng vì vậy người ta không so sánh được chức năng của tinh trùng có ly tâm hay không ly tâm. Gần đây Alvarez và cộng sự đã mô tả một số tổn thương của tinh trùng do ly tâm. Người ta đã chứng minh các tinh trùng không bị ly tầm duy trì khả năng chuyển động khoẻ trong một thời gian dài, trong khi khả năng chuyển động của các tinh trùng được ly tâm giảm hẩn xuống sau 48 giờ. Bằng phương pháp "bơi lên" những tinh trùng thu nhận được ở giai đoạn đầu có khả năng khác biệt rõ ràng sau 24 giờ. Người ta chưa biết đến ảnh hưởng của sự ly tâm lên chức năng của tinh trùng trong thực nghiệm thụ tinh trong ống nghiệm ( IVF). Trong các thực hành hàng ngày thường cần sự ly tâm. Nói cách khác việc sử dụng các mẫu tinh trùng có ít tinh trùng hoặc các tinh trùng có khả năng di chuyển kém thì không có lợi. r • xử lỷ hỗn hợp gò mỉm GÒ mầm xung quanh noãn là một hàng rào đối với tinh trùng. Chất nhầy của tử cung có đặc tính giống với chất nhầy cổ tử cung. Trong một số truờng hợp, xuất hiện các tế bào hạt trong tử cung và có thể thực bào tinh trùng. Đối với tinh trùng cổ khả năng thụ tinh yếu thì nên loại bỏ gò mầm trước khi thụ tinh. Các nghiên cứu của Mahadevan và Trounson đã chỉ ra rằng sử dụng hyaluronidase để loại bỏ gò mầm không có hại cho noãn hoặc phôi. 107
  5. Sự thụ tỉnh • ■ Môi trường nuôi cấy Vé mặt lâm sàng, người ta sử dung cùng một loai môi trường nuôi cây trong giai đoạn thu tinh và cả ờ giai đoạn hình thành và phát triển phôi vẻ sau. Trước đây nồng độ huyết thanh dùng trong Ihụ tinh thường bằng một nửa so với nồng độ huyết thanh dùng cho phôi phát triển nhưng hiệu quả tác dụng cũng không chắc chắn. Trong các môi truờng nuôi cấy khác nhau sử dụng cho thụ tinh trong ông nghiệm bao gồm các chất quan trọng đôi với tinh trùng: ion Ca++, gluco, lactat, bicarbonat, tỉ lệ Na+/ K* gần giống với dịch trong ống dẫn trúng và chất protein phụ thêm. Ion Ca** cần thiết cho phản ứng cực đầu, đổng thòi thúc đẩv cơ chế tiến triển. Glucose và lactat là nguổn nàng lượng dự phòng cho tinh trùng. Lượng ATP cùa tinh trùng nguời tàng nếu cho thêm gluco hoặc lactat; Khi cho thêm các chất kích thích sự chuyển động của tinh trùng thì lượng gluco sử dụng phải tăng lên. Protein, đặc biệt là albumin thúc đẩy khả năng di chuyển và cần thiết cho sự hoạt hoá tinh trùng của hầu hết các sinh vật. Nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm sử dụng huyết thanh của người phụ nữ nhận phôi làm nguồn protein. Điều thuận lợi nhất là huyết thanh của họ rất an toàn vé măt vi sinh học. Điều không thuận lợi là một sô phụ nữ tạo ra kháng thể độc đối với tế bào (VD: kháng thể kháng tinh trùng). Tuy nhiên có thể xét nghiêm trước tát cả các mẫu huyết thanh để tìm kháng thể nhưng mất rất nhiều thời gian. Cán lựa chọn phương pháp chuẩn bị protein ví dụ: sử dụng phương pháp tiệt Ịiùng phương pháp Pasteur hoặc Albuminar. Các nghiên cứu khác nhau đã nêu lên rằng sự chuẩn bị các protein này cũng kích thích sự thụ tinh như huyết thanh. Tuy nhiên ở chuột, người ta đã thấy rằng albumin hấp thụ một lượng lớn acid béo có tác dụng ức chế sự thụ tinh. Do đó không nên lấv huyết thanh làm môi trường nuôi cấy ngay sau khi ãn. 1 ul Độ tập trung và dung tích lò ấp tinh trùng Như đã nói trong cuôn sách này, ưong tự nhiên chỉ có một sổ tinh trùng có mặt trong bóng vòi trứng ờ thời điểm thụ tinh. Tuy nhiên ưong quá trình thụ tinh thực nghiệm cố hàng chục nghìn tinh trùng có mặt xung quanh trúng phụ thuộc vào thể tích lò ấp dược sử dụng. Độ tập trung dưới 50 000 tinb trùng/mỉ không phải là tốt nhất. Độ tập trung tinh trùng quá cao có thể là 108
  6. một điêu kiên không thuận lợi vì tăng khả năng đa bội .Hơn nữa trong quá trình th u tinh với độ tập trung của tinh trùng cao có thể ảnh hưởng tới khá năng sông của phổi. Cuối cùng các men trong cực đầu tinh trùng là các men phân huỷ có thế có hại cho trứng và phôi. Trong các mẫu tinh trùng đã chuẩn bị cũng thường có những tinh trùng khỏ hoặc chết có thế gáy tổn thương cho noãn do các gốc oxy. Người ta cũng cho rằng tỷ lệ thụ tinh có thê giảm nếu sử dụng nhiéu tinh trùng. Mặc dù vấn đề này vẫn đang được bàn cãi nhưng cũng có những ý kiến cho rằng việc sử dụng nhiều tinh trùng cũng thu được kết quả thụ tinh trong ống nghiệm tốt. Hammitt đã ủ tinh trùng có khả nãng chuyển động trong một thê tích nhỏ với nồng độ tinh trùng cao ( một lượng nhỏ chất bảo quản đông lạnh) và đã nhận thấy rằng các phôi tạo ra có cơ hội làm tổ tốt hơn. Tất nhiên chúng ta nên điều chỉnh nồng độ tinh trùng đúng theo yêu cầu cần thiết để kết quả không tăng nguy cơ đa bội ( lớn hơn hoặc bằng 3 tiền nhân) và cũng không tăng sô thụ tinh thất bại. Bổng 8.1: Tóm tắt kết quả của Hammitt, 1993 Độ tập trung của tinh Túi phôi/vận chuyển Khả năng có thai/ vận trùng chuyển động (* 106) phôi chuyên phôi 1,0 20/94 (21%) 11/28 (39%) Đối với nhiều bệnh nhân có tinh trùng yếu chỉ có thể làm giảm thể tích ủ mới đạt được độ tập trung cao, vì số lượng tinh trùng có trong đó thường rất ít. Người ta đã mô tả viộc ủ trong các giọt nhỏ có dầu, trong các ống thuỷ tinh rất nhỏ hoặc trong một lượng rất nhỏ chất bảo quản đông lạnh. Khi số lượng tinh trùng có khả năng di chuyển ít hơn vài trăm nghìn thì cơ hội thụ tinh có thể giảm rất nhiều mặc dù sử dụng thể tích ủ nhỏ . Khi xử lý tinh trùng đã phải tính đến xem sử dụng kỹ thuật thụ tinh nào. Cần nhớ rằng tinh trùng sẽ mất dần qua các bước xử lý.
  7. nhận thấy rằng sau khi thụ tinh muộn thì noãn thường có cực cáu to và phổi phát triển không tốt trong ông nghiệm, ở lợn người ta dã tháy các phổi không bình thường, đôi với người cũng vậy, khi cho tinh trùng vào thụ tinh muộn quá thì khả năng phôi bất thường tăng lên. Tái thụ tinh Việc thụ tinh lại giữa noãn có, tiền nhân và tinh trùng không phải là không có khả năng sinh sản. Câu hỏi đặt ra là liệu đây có phải là phương pháp thận trọng không. Tuy nhiên người ta đã mô tả trong 150 noãn chín, 41 (27%) noãn được thụ tinh sau khi tái thụ tinh. Tuy nhiên người ta đã xác định cẩn mức độ nhiều tinh trùng hơn (29%). Tuy nhiên không có hiệu quả mang thai. Trounson và Webb cũng đưa kết luận tương tự như vậy. Ờ những bệnh nhân có tinh trùng yếu, các tiền nhân được tạo ra muộn thì thường là thụ tinh được sau tái thụ tinh.Tái thụ tinh với tinh trùng của người cho sẽ tạo ra nhiẻu phôi. Người ta chỉ quan sát thấy một truờng hợp mang thai từ các phôi được tạo ra sau khi tái thụ tinh và sau đó bị sảy thai tự nhiên. Vì vậy sự tái thụ tinh không được coi là một phương pháp có hiệu quả thành cồng. Sự thụ tinh bẳng phương pháp vl thụ tinh Mặc dù tất cả các cố gắng để tạo điều kiện càng thích hợp càng tốt ưong quá trình ủ trứng cùng với tinh trùng nhưng thường là không đạt được thụ tinh hoàn toàn. Điều này xảy ra đặc biệt thường xuyên ở những bệnh nhân bị thiếu tinh dịch nạng. Trên thực tế mặc dù cho thêm một số lượng tinh trùng bình thường có khả năng chuyển động hoặc thậm chí thêm số lượng nhiéu tinh trùng thì vẫn xảy ra tình trạng không một tinh trừng nào có thể thâm nhập vào lớp trong suốt và hoà vào màng noãn hoàng. Các xél nghiệm duới kính hiển vi thấy rằng rất ít hoặc không có tinh trùng gắn vào vùng trong suốt.Mặc dù các thử nghiệm đều nhằm mục đích giúp cho tinh trừng vuạ qua hàng rào vùng này. Tạo lỗ ở vùng trong suốt. Phẫu tích từng phẩn ràng trong suốt Kỹ thuật này nhằm cố gắng tạo ra một lỗ mở ở vùng trong suốt, qua đó tinh trùng có thể bơi vào. Sử dụng ống hút cầm giữ để cố định trứng và tạo ra mội lỗ mở ở vừng trong suốt bằng dung dịch đệm acid. Dùng một ống hút nhò di 110
  8. bơm chát đệm acid vào vung trong suốt. Chất đệm acid này hoà tan glycoprotein cứa vùng trong suốt. Ngay sau khi nhìn thấy lỗ mở trên vùng trong suốt thì rứa trứng vài lán trong môi trường nuôi cấy mới để đạt được pH như bình thường. Sau đó tiến hành thụ tinh như cách thõng thường. Bằng cách này có thế đạt dược tỷ lệ thụ tinh cao ớ chuột với độ tập trung tinh trùng thấp. Điều này chứng tó việc tạo ra một lỗ mở ở vùng trong suốt làm tăng cơ hội thụ tinh. Tuy nhiên khi sứ dụng kv thuât nàv ớ người kết quả không được khá quan. Sự thụ tinh thực sự có xảy ra nhung phôi có chất lượng kém nên không phát triển thành thai. Lớp trong cùng cúa vùng trong suốt ớ người kháng lại hệ đệm acid vì vậy tình trạng pH thấp vẫn duy trì trong một thời gian lâu hơn ở chuột. Tinh trạng pH thấp cũng gây hại nhanh chóng cho noãn. Malter và Cohen đã tạo ra phương pháp phẫu tích từng phần vùng trong suốt (PZD/ partial zona dissection) đê tránh sử dụng hệ đệm acid. Dùng một ống hút nhỏ đầu nhọn đâm qua vùng trong suốt, đầu đâm vào ở vị trí 1 giờ và đầu đâm ra ở vị trí 11 giờ (hình 8.2 xem phụ bản 4). Dùng ống hút cầm giữ để lấy đi các phần của vùng trong suốt nằm ở phía trên của ông hút đầu nhọn. Dùng Sucrose cho vào noãn sẽ co lại một ít vì vậy trứng không có nguy cơ khi tạo lỗ Các noãn được xử lý theo cách này có thê phát triển bình thường sau khi thụ tinh, và phôi cũng phát triển thành thai bình thường. Tất nhiên câu hỏi đặt ra là trên thực tê liệu phương pháp phẫu tích này có được sử dụng nhiều hơn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm thông thường được tiến hành với độ tập trung tinh trùng cao. Cohen đã nêu lên điều không thuận lợi khi tạo ra các lỗ tương đối lớn ở vùng trong suốt là: phôi được tạo ra sau phương pháp phẫu tích và sự thụ tinh với tinh trùng có chất lượng kém sẽ không làm tổ được tốt. Có thể là quá trình này làm giảm khả năng bảo vệ của vùng trong suốt đối với các chất thải và gốc oxy do các tinh trùng yếu không có khả năng di chuyển và tinh trùng bA't thường luôn có mặt trong các mẫu tinh dịch đã tạo ra. Phương pháp ph iu tích này luôn luôn đòi hỏi một số lượng tinh trùng tương đối nhiều, vì vậy phưong pháp này không được coi là phương pháp tiến bộ hơn so với kỹ thuật vi thụ tinh. ubzonal sperm injection) Trong phương pháp này không mở th >ng vùng trong suốt mà dùng một ống hút nhỏ đưa thẳng tinh trùng qua ví >ig trong suốt vào khoang quanh noãn
  9. hoàng (hình 8.2). Trong loạt thư nghiệm sư dụng phương phap nay đảu tiẻn thường đãt một tinh trùng giữa vùne trong suòt và noãn. LX> két quà thu tinh không được khà Ijuan, người ta đã thav đổi tiêm lừ 2 thậm chí tiêm lư 2 dẽn 10 tinh trùng giũa vùng trong suốt và noãn, những nguy cơ da thu tinh tăng. Từ đó lai nẩy ra kỹ thuãt loại bỏ tiển nhân thừa. Tuy nhiên phương pháp này nói chung không được châp nhận.Cáu hòi được dát ra là liẻu đày có ihực su là một phương pháp thuận lợi khóng ? phương pháp thu tinh trong òng nghiệm truyền thống không mang lại kêt quả tốt hoặc hoàn toàn tốt? Gán đày người ta đã nêu lèn vi thụ tinh không dem lại tiến bộ nào hoặc háu nhu khòng tiến bộ hơn so với thu tinh trong òng nghiệm bình thường trẽn những bệnh nhân trước đây điéu trị thụ tinh trong ông nghiệm không thành còng, (không xảy ra sự thụ tinh). Việc lựa chọn bệnh nhân cũng đóng vai ưò quan trọng. Tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt có một vài ưu điềm dậc biệt đôi với bệnh nhân có tinh trùng rất yếu: nếu dùng phương pháp thụ tinh ưong ỏng nghiệm thông thường chắc chấn sẽ không thành cổng. Tuy nhiên kết quà phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt (SUZI )cũng khỏng đáp lại lòng mong đợi. Nhóm nghiên cứu cùa Fishel đã mô tả 225 bệnh nhân sử dụng phương pháp này và đã nhận xét là 16% noãn được thụ tinh, có 82 truờng hợp được chuyển cho bệnh nhân (39% bệnh nhân) và 12 trường hợp có thai lảm sàng, kết quả không khả quan 5%. Cohen mô tả 103 chu kỳ với phương pháp vi thụ tinh (thường là sự kết hợp giữa phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt, phương pháp phẫu tích và có một sô theo phương pháp thụ tinh trong ông nghiệm thông thường với noãn khác nhau lấy từ mội bènh nhân,cho kết quả 26 trường hợp mang thai (21%) nhưng không thế kiểm tra được hiệu quả khác nhau giữa các kỹ thuật vi thụ tinh khác nhau. Tiêm tinh trùng vào trong bào tương: ỈICSI/ ỉntracytoplasmic sperm ioiecdM) Vào đầu nãm 1976, Ưehara và Yanagimachi đã tiêm tinh trừng thẳng vio trong bào tương. Họ tiêm tinh trùng người và chuột túi vào thẳng trong bèo tương noãn của chuột túi. Trong một số trường hợp đã dẫn đến sự hỉnh thinh tiền nhân nhưng noãn cũng thường bị thoái hóa. Áp dụng phương phỊp này trên thỏ người ta cố thể tạo được phôi phát triển đến lúc dẻ. Gần đ&y nguòi ta dã báo cáo các con bê được sinh ra sau sử dụng phương pháp t iín tinh trÌMg r Mị*,ỆHỂỊ& ĩtíitỉ gi.»34 *>'■
  10. vào trong hào iưc/ng (ICS1) và cấy phôi bò ngay sau khi làm tan (làm ấm) tinh trung bò đã đỏng lạnh. Nãm 1988 Lanzendorf và cộng sự đã thấy tinh trùng người thiếu cực đầu có khá năng chống lại hiện tượng đông đặc trong bào tương cùa noãn. Một sô cuốn sách gần đây ở Brussels đã nêu lên việc sử dụng phưcmg pháp tiêm tinh trùng vào trong hào tương (ICSI) trên lâm sàng. Đối với phương pháp tiêm tháng tinh trùng vào trong bào tương bằng ông hút có đường kính < 6fj.m với đầu nhọn ngắn. Tinh trùng được nằm lơ lửng trong dung dịch polyvinylpyrrolidon (PVP). Dung dịch keo này có chất nhày và làm giảm khả năng chuyển động của tinh trùng. Người ta cố gắng hút tinh trùng có hình thái bình thường vào trong kim, đầu tiên kéo phần đuôi sau đó hút phần đầu tinh trùng vào trong kim. Nếu cần thiết dùng kim tiêm châm dính vào đuôi tinh trùng để làm bất động tinh trùng. Người ta dùng kim chọc qua vùng trong suốt và màng noãn hoàng vào sâu trong bào tương chất ở vị trí đã được loại bỏ hoàn toàn cực cầu thứ nhất. Người ta đưa tinh trùng vào trong bào tương với một ít dịch càng ít càng tốt, rồi rút từ từ ông hút ra để lại tinh trùng ớ vị trí đó. Vansteirteghem đã công bô áp dụng phương pháp này có so sánh với 11 bệnh nhân được áp dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt (SUZI). Người ta chia noãn của mỗi bệnh nhân thành hai nhóm, một nhóm sử dụng phương pháp ICSI và một nhóm sử dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt (SUZI). Trong 71 noãn sử dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt (SUZI) chỉ 4% được thụ tinh, trong 73 trường hợp thụ tinh sử dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương (ICSI), 48 trường hợp (73%) có 2 nhân. Phôi được tạo ra sau tiêm tinh trùng vào bào tương, có ít nhất 3 trường hợp mang thai và trường hợp mang thai thứ 4 trong nhóm này được tạo ra sau khi chuyên phôi của cả hai phương pt^áp tiêm trùng vào bào tương và phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt. Vansteirteghem đã công bố trong bài báo của ông là ở Brussels hiện nay phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương đã thay thế phương pháp tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt. Kết qủa công bố trên 150 cặp vợ chổng áp dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào r í ỉ •' V V ' * í ĩ Ytii i ì . tương thành công , 150 cặp vợ chổng chồng này đều đã được thụ tinh không thành f •' 1 CHS3 J ' i -j J. . *«., * : ì • công có các thông sô vẽ tinh dịch nghèo nàn đến nổi họ không được chấp (ãW. U. a y ụ t f e j f f . r . a V _ . • I > • nhận dê tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm binh thương. Trong tổng số 1409 noãn 'ầiíồt 'tiftnC cM B V ầoãn bị tổn thương và 830 noãn (64%) cổ 2 V • - * « # T8 - TTTÔN M3
  11. tiền nhàn. Chi có 15 bệnh nhân không được chuyến phôi. 53 trường hơpcó thai trẽn lám sàng, ti lệ thành công 35(7(I trên tổng sò chu kỳ kinh đâu và gẩn 40% trên tổng sô phôi đươc chuyến.. Người ta tìm ra mòt diếxi quan trọng là đặc tính cùa tinh trùng không ảnh hường tới cơ hội thụ tinh: người đàn ông có tinh dịch rất nghèo nàn (tất nhiên có vài tinh trùng) có cơ hội thụ tinh nhu nguời đàn ỏng có rất nhiều tinh trùng chuyên dộng. So sánh các kỹ thuật vỉ thụ tỉnh Với kỹ thuật phẫu tích từng vùng trong suốt (PZD) tinh trùng phải bơi qua lỗ mở tự tạo sẽ xẩy ra sự tác động qua lại với vùng trong suốt vì tinh trùng ờ rất gần noãn. Sự tương tác này dẫn đến phản ứng cực đầu, để hoà nhâp giữa tinh trùng và noãn. Vì vậy sẽ xảy ra sự lựa chọn tinh trùng vì không phải tất cà các tinh trùng có khả năng di động hoàn toàn và có thể trải qua phản ứng cực đáu. Với kỹ thuật tiêm tinh trùng vào dưới vùng trong suốt (SUZI) thì một số tinh trùng được lựa chọn hút vào trong ống hút do các nhà nghiên cứu. Một khi đã tiêm vào trong khoang quanh noãn hoàng, các tinh trùng này sẽ phải trải qua phản ứng cực đầu, bằng sự tác động của mặt trong của vùng trong suốt (để có được phản ứng cực đầu phải có mặt các thụ cảm thích hợp) hoặc bằng cách khác. Tinh trùng mà không trải qua phản ứng cực đầu sẽ không có khả nâng hoà nhập với noãn. Đánh giá phương pháp này cần chú ý hai mặt: một mặt là phải sự lựa chọn được tinh trùng, có khả năng trải qua phản ứng cực đầu và một mặt là chú ý đến sự hạn chế của phương pháp. Trên thực tế là muốn cơ hội thụ tinh tâng phải tiêm từ hai tinh trùng trở lên. Đồng thời có một hạn chế nữa là: các tinh trùng có khả năng dễ thụ tinh sẽ gây ra tình trạng đa thụ tinh. Kị thuật vl phẫu thuật ỉhùmg tinh đỂ hút tinh trùng (MESA/ Microsurgical epỉdỉdymal sperm aspiration) Tình ưạng không có tinh trùng chiếm khoảng từ 10-20% trường hợp vô sinh nam. Tình trạng sinh tinh bị tổn thương hay có sự trở ngại ưong dường sinh
  12. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cũng tạo nên sự thay đổi trong từng trường hợp. Với kỹ thuật vi phẫu thuật thừng tinh đê lấy tinh trùng (MESA) được tiến hành dưới kính hiển vi. Mớ một hay nhiều điểm trên thừng tinh đê cố gắng hút dịch cùng với tinh trùng. Tiến hành cẩn thận thì sau 2 đến 3 lần ta có thể hút được tinh trùng. Lượng tinh trùng thu đuợc có thể thay đổi, đôi khi có thể tiến hành kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm thông thường (IVF), nhưng tất nhiên có thể áp dụng kỹ thuật vi thụ tinh, v ề mặt lý thuyết tinh trùng không có đủ thời gian trong thừng tinh thì chưa truớng thành đầy đủ nhưng trên thực tế ngưòi ta nhận thấy chúng có thể thụ tinh được. Sô lượng tinh trùng chuyển cho một nang chọc hút cũng thấp. Tuy nhiên kết quả của phương pháp vi phẫu thuật thừng tinh để lấy tinh trùng (MESA) kết hợp với phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương (ICSI) cũng rất hứa hẹn (bảng 2 Toumaye 1993) sỏ nang % Thu tinh Số lượng Tỷ lệ có thai choc hút vận chuyển • • MESA-IVF 16,3% 61 34% 134 MESA-ICSI 55% 12 25% 13 •% * ị. ì ■ -• f *. * t V V s. i■ ..) ‘U/Ui »'* ' • t l ìuAì' ỳịi\i m VMịi **tmềÊkỊỊỊứym%&Ì ;«l ' * m 4 ĩ* i Ầ * > ■•, * I ♦HOỈÍMi.i -> ? ịề :JW I • *• *
  13. Tàỉ liệu tham khảo m Aitken J, Clarkson JS. S ignificance o f reactive oxygen species and antioxydants in d e fin in g the efficacy o f sperm separation techniques. Journal o f Androlflgy 1988; 9: 367 - 376. Alvarez JG, lasso JL, Blasco L, Nunez RC. Heyner s. Caballero pp. Storey BT. C e n trifu g a tio n o f hum an sperm atozoa induces sublethal damage. Human Reproduction 1993: 8: 1087-1092. Berger T. M ans RP, Moyer DL. Comparison of techniques for selection of motile spermatozoa. Fertility and Sterility 1985; 43: 2Ó8-273. Cohen J. A review of clinical microsurgical fertilization. In: Micromanipulation o f human gametesand embryos. Roven Press, New York 1992: 163 - 190. Gorus FK, Pipelleers DG. A rapid method of the fractionation of human spermatozoa according to their progressive motility. Fertility and Sterility 1981; 35: 662-665. Hammitt DG, Walker DL, Graig HS, Miller TM, Bennet M. Treatment of severe male factor with high concentrations of motile sperm by microinsemination in embryo cryopreservation straws. Journal o f In Vitro Fertilization and Embryo Transfer 1991; 8: 101 -109. Malter HE, Cohen J. Partial Zona Dissection of the human oocyte: a nontraumatic method using micromanipulation to assist zona pelludda penetration. Fertility and Sterility 1989; 51:139-148. Toumaye H, Van Steirteghem, Horis H, Liu J, Nagy z, Liebaars I, Devroey p. Microchirurgische epidid vmaire sperma aspiratie en geassisteerde fertilisatie. Tijdschrift voor Fertiliteisonerzoek 1993; 2:29-33. Van Steirthegem A, Liu J, Jons H, Nagy z , Janssenswillen c , Toumaye H, Dade MP, Van Assche E, Devroey p. Higher success rate by intracytoplasmic sperm inJcctkM Una by subzonal insemination. Human Reproduction 1993; 8:1055 —1060. 116
  14. PHU HẤN 4 KHOANG VUNG NOÀN TRONG HOANG SUỒT MANG TƯƠNG HAT VO TIỀP TUC PHAN ƯNG ĐOAN TRUNG TINH GIAN TRUNG i BI LOAI / / CÓ THÁM NHÁP c ự c ĐÀU NHẢN --------- MÀNG CHAT c h ư a ờ c ự c đ Au HỒA ĐÔNG QIỬA s ự HỈNH t h à n h T,NH ™ UNG MANG CỰC ĐÀU TRONG MANG TƯONG VA N ir ir c ô c ư c ĐÀU MÀNG CỰC ĐẦU NGOÀI MANG CỤC ĐẦU NGOÀI B0NG NƯOC OÀ HOAT HOA Hình 7.1. Các bưổc trong quá trinh thụ tinh (của chuột) Phía trẽn: Tinh trùng bám vào và thâm nhập. Các mũi tên biểu thị quá trình tiếp theo; tinh trùng bám vào vùng trong suốt, bắt đẩu phản ứng cực dầu và tinh trùng xâm nhập vào vùng trong suốt. Tinh trùng đầu tiên xâm nhập và hoà đổng (hoà nhập với màng tương (plasma membrane) của noãn phản ứng vỏ (cortical reaction) tạo nên một vùng trong suổt mà tinh trùng không chỉ xâm nhập đưọc (vùng màu vàng) Phía dưới: Phản ứng cực đẩu Sơ đồ đưa theo Wassaman (1988)
  15. B B A ABC •c Cumulus cell B B B Cumulus ABC cell Zona pellucida Oocyte B B Cumulus ABC cell 1 B B B Hình 7.2. Hiệu quả của 3 thành phần khi có phản ứng cực đẩu - Tế bào gò mầm tổng hơp glycoprotein (A) - Protein kết hợp với progesteron (B) - Noán bào tổng hợp loại peptid hoạt tính (C) (như là thànhphần của vùng trong suốt) - A B C hỉnh thành một phức hơp trong lớp ngoài của vùngtrong suót -Phức hợp này có khả năng đặc hiệu gây nèn phản ứng cực đấu Hình 7.5. Não bào người đã dược thụ tinh (sau thụ tinh khoảng 16 giò... Thấy rỗ 2 nhản ở trung tâm. I
  16. Í •-’tf-: *•** • * * -- 3i'.; V *» •• t -• v + « « • ^ «'■'• ** I I I • • Ĩ • . t . 1 1 ^ * w m* *• •‘ ♦ - M - id fr ’ 'j*w * I t - '% - - ■SSK a , ÍT * P ĩv - 22 23 24 25 26 27 28 29 30 giờ sau khi thu tinh Hình 7.6. Biểu đồ biểu thị quá trình thụ tinh. - Thời điểm thụ tinh ỏ mốc o - Tinh trùng tiếp cận vùng trong suốt và xẩy ra phản ứng cực đầu (A)Tinh trùng xâm nhập vào vùng trong suốt (B) - Chẳng bao lâu 1 tinh trùng hoà nhập với noãn tương, lớp vỏ hạt bị đẩy ra (C) - Hiện tượng trên tạo cho noãn tương không tiếp nhận một tinh trùng nào khác và tinh trùng được trứng tiếp nhận (D) - Đầu của tinh trùng phân ly ra. Quá trình nói trên được hoàn thiện khoảng chừng 8 giờ sau khi thụ tinh - Cực cầu 2 bị đẩy ra. Tiền nhân bắt đầu hình thành và hoàn thiện sau 12 giờ kể từ khi thụ tinh - Tổng hợp DNA sau giờ thứ 9, và tối đa vào giờ thứ 9 đến giờ thứ 13, sau đó lại giảm nhanh - Các tiền nhân di chuyển dần vào vùng trung tâm và tiến sát gần nhau vào thời diểm 20 giờ sau thụ tinh và sau 22 giờ thì hoà nhập hoàn toàn. Sau 23 giờ bắt đầu sự hợp giao (sinh sản hữu tính), sau đó các nhiễm sắc thể phân ly để chuẩn bị phân bào
  17. # Hình 8.1. Òng Tea Phản tích 1 phần vùng trong suót (PZD/partial Zona dissetion) Tiêm tinh trùng vào dưới vung Ưong suốt (SUZI/subzonal sperm injection Tiêm tinh trùng vào trong vùng trong suốt (ICSI/intracytoplasmic sperm injection) Hình 8.2. Sd đổ kỹ thuật PZD, SUZI, ICSI 0 o
  18. 9 PHÔI (Lý thuyết) Giới thiệu Sau kill thu tinh dưới tác đóng của lông biêu mô vòi trứng phôi vận chuyển đến buồng tử cung trong khoảng thời gian 4 ngày. Tại thời điếm này một phôi hình thường có hơn 30 tế bào. Quá trình phân chia tế bào được điều chính rất tốt trong quá trình vận chuyến qua vòi trứng, đổng thời sự chuyên hoá của các tê bào phôi cũng trải qua sự thay đối lớn. Sự điều hoà quá trình hình thành gen và quá trình tổng hợp protein cũng phần nào thay đổi. Tóm lại quá trình mang tính điến hình cho giai đoạn thể dâu bất đầu sau sự phân chia lần thứ 3 thứ 4. Sau đó phôi bắt đầu hình thành một túi phôi rồi chuyển sang giai đoạn túi mầm. Hình thái đầu tiên về sự biệt hoá lớp tế bào trong và lớp tê bào ngoài sẽ xác định quá trình hình thành thể dâu và túi mầm, do vậy không thể nói là phôi người phát triển theo hướng phát triển của phôi ếch. Phôi của động vật có vú,bao gồm cả phôi người sẽ phản úmg với các dấu hiệu đặc trưng và không đặc trưng của môi trường xung quanh. Khi thụ tinh nhân tạo được tiến hành rộng rãi cần giữ phôi trong môi trường nuôi cấy vài ngày thì điều kiện nuôi cấy sẽ không hạn chế được quá trình phản ứng của phôi như đã nói ở trên. Sự phát triển của phôi trước khỉ làm tô Sự phân chia đầu tiên của phôi là sự phân chia kiểu phân tách. Trong giai đoạn này phôi không phát triển, nên thể tích tê bào phôi (nguyên bào phôi) còn như tế bào cơ thể. Chu kỳ tế bào đầu tiên đã được bàn tới trong quá trình thụ tinh, kéo dài khoảng 24 giờ, dài hơn các chu kỳ sau (dài 18 giờ). Mặc dù chủ yếu dựa vào các số liệu thu dược trong thực nghiệm, người ta nhận thấy rằng 3 chu kỳ phân chia kiểu phân tách đầu tiên của tế bào trên động vật có vú tạo nên tế bào m ới^ó kích thước khác nhau nhưng đều mất một khoảng thời gian giống nhau là 60 giờ (bảng 9.1). Các nguyên bào phôi đếu hình tròn, đầu tiên có tính đồng nhất về mặt hình thái, sinh hoá và tiềm năng phát 117
  19. triển giống nhau. Tất cả các tế bào đều có thể tham gia hình thành tổ chúc cùa phôi. Các nguvên bào phôi đểu có đặc tính toàn năng. Các nghiên cứu về thực nghiệm trên chuột chứng tò nguyên bào phôi ờ giai đoạn 8 tế bào mang tính toàn năng nhưng đến giai đoạn sau thi khả nảng phát triển lại bị hạn chế. Trên gia súc như: lợn, bò cừu. tiềm năng phát triển của nguyên bào nuôi không bị giới hạn ờ thời diêm tối thiểu nhât là giai đoan 4 tế bào tất nhiên chưa biết số liệu thực nghiệm trẽn người. Tiếp theo là giai đoạn thể dâu biểu hiện sự phân chia kiểu phân tách hình thành đặc điểm của giai đoạn là sự kết đặc tế bào. Dưới kính hiển vi thấy rõ các tế bào tiếp xúc khãng khít với nhau, làm giảm khoang gian bào và đường viển quanh tế bào cũng mờ đi. Hiện tượng kết đạc tế bào này phụ thuộc theo từng loại động vật và điều kiện hoàn cảnh. Hiện tượng này trên chuột rát rõ rệt đến nỗi phôi trong giai đoạn thể dâu đôi khi rất khó phân biệt với phôi ờ giai đoạn 1 tê bào. Nói chung, hiện tượng kết đặc tế bào ờ phôi gia cầm khi nuôi cấy thì không rõ ràng. Quá trình kết đặc tê bào này phụ thuộc vào calci và đòi hỏi sự tham gia của khung tế bào và phân tử uvomorulin kết dính tế bào (còn gọi là yếu tố kết dính cadherin). Kháng thể đơn dòng kháng uvomorulin hạn chế quá trình kết đặc tế bào này. Bảng 9.1: Thời gian (các ngày sau khi thụ tinh) và sô' tế bào trong quá trình phát triển trước khi làm tổ của một số chủng động vật. Sự phản Sự liên kết của Túi mẩm Sự làm tổ tách các tế bào Chủng loại 2c 8c Ngày Số tế bào Ngáy SỐtế Ngáy Gia đoạn (ngày) (ngayl báo Thú có túi Không Liên két 3 32-80 9 Khúcthânphủi 1 Chuôt 1 2 2,5 8-16 3 32 4,5 Tiimám 1 Chuột cống 1,5 3,5 m - 4,5 5,5 Tumám 1 Thỏ 0.5 1,5 2 16-32 3 128 6,5 Túi mâm 1 Lơn A 0,5-1 2-3 3,5 8-16 3,5-5 16 14-15 Khúc thân phôi 1 Cừu 1 2 3 • 4,5 64 15-16 Khúc thân phù 1 Ngựa 1 3 4-5 >15 7-8 • 34 Dài 16mm I -- Bò 1 2-4 4-5 16 5-6 117-19 KhúcMnphOi I KhỉRhesus 1 . !.>.? 0»%• 8-9 Tủi mâm I 2-3 >4 >26 7 Khỉ đáu chó - - 5 • p lfiF fiS "^8-9 Túimám ị Nguởỉ 1,5-2,5 2,5-3 3-5 16 ’ 4,5-5 I ! 6-7 - Túimám I khổng biết ' Of* fc! - ‘ I ' mò lầm ề» IMỊb íló
  20. Thời gian cúa quá trình này thay đối theo từng chủng động vật nhưng thường xáy ra giữa giai đoạn 8 tế bào và giai đoạn 16 tê bào (bảng 9.1).Trong quá trình phân chia tế bào tiếp tục, lớp ngoài cùng của tế bào thu được các đặc tính cùa biểu mô và hình thành các cầu nôi gian bào tao nên môi liên kết rất khó phân chia. Do cấu trúc này nên các tế bào ở phía trong sẽ không tiếp xúc trực tiếp với môi trường bén ngoài, Tại một thời điểm nào đó lớp ngoài của tế bào bắt đầu tiết mạnh chất muối và nước vào khoang gian bào thành khoang gọi là túi mầm. Trên phôi người khoang này thường được tạo thành giữa giai đoạn phân chia thứ tư và năm (16 tới 32 tế bào), giỏng như trên phôi cùa chuột. Ngay thời điểm quan sát thấy khoang này là bắt đầu giai đoạn túi mầm. Các tế bào phía bên trong tiếp tục phân chia tạo thành một khối ở vị trí lệch tâm, gọi là khối tế bào bên trong (ICM/ inner cell mass). Cuối cùng khối tế bào này sẽ tạo nên toàn bộ phôi cùng với 1 phần của tổ chức ngoài phôi (màng đệm). Lớp tế bào phía ngoài dạng biểu bì gọi là lá nuôi phôi (TE/trophotodemn) có nhiệm vụ đối với sự làm tổ của phôi. Hiện tượng kết đặc tế bào là cần thiết cho sự biệt hoá khối tế bào trong (ICM) và tế bào lá nuôi phôi (TE). Nếu có các kháng thể chống uvomorulin thì sẽ hạn chế hiện tượng kết đạc tế bào, túi mầm cũng được hình thành nhưng chỉ bao gồm một túi tế bào lá nuôi mà không có khối tế bào trong, vì vậy không bao giờ hình thành phôi sống. Phân biệt các tế bào của khối trong và lá nuôi không chỉ bằng cách quan sát các đặc điểm phát triển sinh học mà còn được thấy rõ bằng sự hiện diện các kháng nguyên bể mặt tế bào đặc trưng và các men đặc trưng. Sự phân chia tế bào Không giống với các tế bào cơ thể khoẻ mạnh bình thường,nguyên bào phôi không cần các phân tử tín hiệu đặc trưng để khởi động quá trình phân chia. Đối với viộc điều hoà phân chia tế bào, phôi tự điều hoà quá trình phân chia tế bào theo "đồng hồ" nội bào. Điều hoà chu kỳ tế bào dinh dưỡng (Somatic) và tế bào phôi đều giống nhau: qua các thời kỳ như sau đây: (xem hình 9.1 phụ bản) Thời kỳ G,: Thời kỳ này bao gồm quá trình tổng hợp RNA (sao chép mã) và tổng hợp protein. Trong suốt quá trình này các tế bào không phân chia, ở
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2