intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chế định chế độ chính trị trong Hiến Pháp Việt Nam – Phần 2

Chia sẻ: Thiuyen3 Thiuyen3 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

365
lượt xem
100
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quan hệ của chế định chính trị với các chế định khác 3.1. Quan hệ chính trị/chế định chính trị - Bộ máy nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước Như đã trình bày ở các phần trên, chế định chế độ chính trị liên quan trực tiếp và mật thiết đến việc tổ chức bộ máy nhà nước và quyền lực nhà nước. Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, “các quy định và nguyên tắc trong chương chế độ chính trị là cơ sở, nền tảng chính trị của các chương...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chế định chế độ chính trị trong Hiến Pháp Việt Nam – Phần 2

  1. Chế định chế độ chính trị trong Hiến Pháp Việt Nam – Phần 2 3. Quan hệ của chế định chính trị với các chế định khác 3.1. Quan hệ chính trị/chế định chính trị - Bộ máy nhà nước, tổ chức bộ máy nh à nước Như đã trình bày ở các phần trên, chế định chế độ chính trị liên quan trực tiếp và mật thiết đến việc tổ chức bộ máy nhà nước và quyền lực nhà nước. Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, “các quy định và nguyên tắc trong chương chế độ chính trị là cơ sở, nền tảng chính trị của các chương về Quốc hội, Chủ tịch n ước, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân, To à án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.”
  2. Có thể nói cả 14 điều trong chương Chế độ chính trị của Hiến pháp 1992 đều có ảnh hưởng, dù ít hay nhiều, đến các các chương về bộ máy nhà nước (Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân, To à án Nhân dân và Viện Kiểm sát Nhân dân). Các quy định và nguyên tắc của chương Chế độ chính trị nêu ra định hướng, nguyên tắc về cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều 4 của Hiến pháp 1992 nêu ra nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Dù nguyên tắc này chỉ được quy định tại điều 4 của Hiến pháp, và không thể thấy rõ ràng sự phát triển của nguyên tắc này trong các chương về bộ máy nhà nước cũng như chưa có luật về Đảng, nhưng trên thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là rất lớn và không thể phủ nhận. Phần này của bài thuyết trình chủ yếu đề cập đến điều 2 và điều 6 trong mối liên hệ của nội dung của hai điều này đối với các chương liên quan đến bộ máy nhà nước vì chúng nêu lên 2 nguyên tắc lớn trong việc tổ chức bộ máy nhà nước và bản chất của Nhà nước Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 3.1.1 Nguyên tắc tập quyền XHCN: Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...” Điều này thể hiện ở việc tập trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội,cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nắm cả 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 83, chương Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
  3. quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam..." Theo điều 83, Quốc hội có cả 3 quyền: lập pháp (quyền lập hiến, lập pháp), hành pháp (quyết định các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng,…), tư pháp và giám sát (toàn bộ các hoạt động của Nhà nước). Ngoài ra, cách thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội c òn được quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10 được Quốc Hội thông qua ngày 25/12/2001. 3.1.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ: Điều 6 , Hiến pháp 1992 “Nhân dân sử dụng quyền lực nh à nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Như vậy để thực hiện quyền lực nhà nước, nhân dân thông qua đại diện là Quốc hội, và HĐND các cấp. Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc này được cụ thể hoá qua các điều trong chương về Quốc hội và Hội đồng Nhân dân như điều 97, 98, 121, 122. Các điều này quy định cụ thể hơn về công việc đại diện cho các cử tri của đại biểu hội đồng nhân dân và đại biểu quốc hội. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được quy định tại Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân. 3.1.3 Nhà nước pháp quyền XHCN
  4. Điều 2, Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.” Như vậy, Nhà nước pháp quyền là một nguyên tắc hiến định. Ngoài ra, theo điều 2 của Hiến pháp 1992, sự tồn tại của ba loại quyền lực nh à nước, hành pháp, lập pháp và tư pháp, được ghi nhận. Dựa trên nguyên tắc hiến định về nhà nước pháp quyền và việc thừa nhận sự tồn tại của ba quyền hành pháp – lập pháp – tư pháp, một số điều của các chương Chính phủ, Toà án nhân dân, … đã được quy định theo hướng phù hợp với tính chất riêng của các nhánh quyền lực nhà nước (hành pháp và tư pháp). Ví dụ, điều 109 “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất …”, Điều 110 “Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội …” cho phép Chính phủ (hành pháp) có một sự độc lập nhất định giữa với Quốc hội để thực hiện các công việc hành pháp liên quan. Điều 110 cũng quy định “Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, …”quy định Chính phủ phù hợp với tính chất hành pháp: chính phủ mạnh và dám chịu trách nhiệm.
  5. Điều 130 “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật” và Điều 128 “Chế độ bổ nhiệm, …” có ý nghĩa tăng cường sự độc lập cho tư pháp. 3.1.4 Liên hệ thực tiễn: Trong các phiên chất vấn của Quốc hội, có thể thấy hoạt động chất vấn của Quốc hội, một trong những hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, diễn ra khá sôi nổi. Các đại biểu quốc hội đã thực hiện các quyền đại diện của mình đối với các thành viên của chính phủ thông qua việc đặt câu hỏi về các vấn đề lớn hiện nay như hoạt động thanh tra của Chính phủ, tình trạng thiếu điện, dự án đường sắt cao tốc, dự án bô xit Tây Nguyên. Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết khi chất vấn về vụ Vinashin, đã yêu cầu thành lập Ủy ban điều tra, yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm Thủ Tướng, và các Bộ trưởng liên quan. Việc yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm một trong những quyền mà các đại biểu Quốc hội đại diện cho người dân thực hiện quyền lực nhà nước. Theo quy định tại Hiến pháp, Quốc hội, với t ư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Tuy nhiên, ngược lại, không có cơ quan nào giám sát hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là hoạt động lập pháp. Ông Nguyễn Văn An, nguyên chủ tịch Quốc hội, phát biểu những quan ngại của ông về tình trạng vi hiến “Vi hiến mà chúng ta coi là thói quen, coi là bình thường thì rất đáng phải báo động.” Ngay cả tại các nước có trình độ kỹ thuật lập pháp cao vẫn có nhiều điều luật, văn bản pháp luật bị xem là vi hiến. Vì vậy, ở một nước mà
  6. trình độ kỹ thuật lập pháp chưa cao như nước ta, vi hiến là khó tránh khỏi và việc giám sát hoạt động lập pháp, đặc biệt là công tác bảo vệ hiến pháp là vô cùng cần thiết. 3.2. Quan hệ chính trị/chế định chính trị - công dân, quyền công dân 3.2.1 Khái niệm quyền và nghĩa vụ của công dân Quyền công dân trong khái niệm quyền con người theo quan điểm của CN Mac- Lenin: · Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nhất định. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hôi, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống nhất với quyền dân tộc cơ bản. · Quyền con người có mối liên hệ mật thiết với quyền công dân. Theo Mac, quyền con người và quyền công dân luôn nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng với nhau, quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội cụ thể, một chế độ chính trị-xã hội nhất định. Nghĩa vụ của công dân
  7. Mối quan hệ giữa công dân và nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản, thể hiện mối quan hệ pháp lý bình đẳng giữa nhà nước và cá nhân. Do đó người dân muốn được hưởng quyền làm chủ của mình và được nhà nước bảo đảm quyền đó thì người dân cũng phải có nghĩa vụ với nhà nước, nhà nước bằng quyền lực của mình buộc cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ của mình để tạo những tiền đề cho nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình với công dân, nghĩa vụ của công dân không xuất phát từ ý chí chủ quan của mỗi cá nhân mà được nhà nước quy định và cụ thể hóa bằng Hiến pháp và pháp luật. Như vậy nghĩa vụ của công dân l à những quy định pháp luật buộc công dân phải hành động hay không hành động trong những trường hợp nhất định, mang tính cưỡng chế nhà nước. 3.2.2 Mối quan hệ giữa chế định chế độ chính trị với chế định quyền v à nghĩa vụ của công dân Từ nguyên tắc “Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ”, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ mật thiết giữa chế độ chính trị với các chế định khác trong Hiến pháp nói chung và chế định quyền và nghĩa vụ của công dân nói riêng. Những nguyên tắc, những quy định của chế định chế độ chính trị giữ vai trò nền tảng, chi phối và định hướng cho các quy định trong chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Mối quan hệ này được thể hiện rõ ràng trong Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  8. Theo điều 2 – Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi bổ sung) quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.” Quy định này điều chỉnh mối quan hệ giữa nh à nước và nhân dân. Theo đó, nhân dân là chủ của nhà nước, quyền lực của nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân và mọi chính sách của nhà nước đều hướng đến nhân dân. Để cụ thể vai trò làm chủ của nhân dân theo điều 2 của chế định chế độ chính trị, điều 53, 54 và điều 69 của chế định quyền công dân quy định “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước có tổ chức trưng cầu ý dân.”, “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ, văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định” Và “Công dân có quyền được tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
  9. Để hiện thực hóa quyền của công dân, điều 3 – chế định chế độ chính trị quy định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”. Nhà nước đảm bảo quyền của công dân bằng các chính sách và biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Từ quy định này, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân cũng quy định các điều sau: - Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh: o Điều 57 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” o Điều 58: Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để d ành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tái sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh doanh” - Thực hiện mục tiêu mọi người có cuộc sống ấm no, có điều kiện phát triển to àn diện:
  10. o Điều 59 quy định “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân, bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.” o Điều 60 quy định “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật… Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp” o Điều 61 quy định “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe” Ngoài các quy định về quyền cơ bản của công dân tro ng nhà nước pháp quyền, trong chế định chế độ chính trị còn quy định nghĩa vụ của công dân. Đối với công dân thực hiện quyền làm chủ ở cơ sở bằng cách tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội theo điều 11 phải “có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ q uyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”. Tương ứng với quy định trên, điều 77 quy định “bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân” và điều 78 quy định “công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng” Về nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, điều 12 quy định “… công dân phải nghi êm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật… Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”, thì tại điều 79 của chế định quyền và nghĩa vụ của công dân quy định “Công
  11. dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” Từ các phân tích trên có thể thấy, chế định chế độ chính trị tác động, chi phối và ảnh hưởng trực tiếp đến chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Các quy định trong chế định chế độ chính trị là nên tảng để xây dựng các quy định trong chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. 3.2.3 Thực tế việc thực hiện quyền công dân ở nước ta hiện nay Có thể nói việc thực hiện quyền công dân ở nước ta thời gian vừa qua đã có nhiều tiến bộ, một số quyền cơ bản của công dân đã được thực hiện triệt để. Tuy nhiên, tình hình thực hiện quyền công dân nói chung ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và chưa đầy đủ. - Về kinh tế: Với việc quy định công dân có quyền tự do kinh doanh, nhà nước đã hiện thực hóa mong muốn được làm giàu, được hưởng lợi ích do chính bản thân mình tạo ra của người dân, xóa bỏ cơ chế bình quân, cào bằng của chế độ bao cấp. Tuy nhiên với việc thừa nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, mọi nguồn lực của thành phần kinh tế này đều do nhà nước cung cấp trong khi tình hình quản lý tài sản công của nước ta còn yếu kém, thì vô hình chung, nhà nước đã tạo ra thế cạnh tranh không cân bằng giữa các thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh tế tư
  12. nhân. Như vậy quyền tự do kinh doanh của công dân và quyền bình đẳng trong kinh doanh của công dân có vẻ như bị xâm phạm (ví dụ trong lĩnh vực điện, nước, nông nghiệp, viễn thông…) Mặt khác, việc quản lý tài sản của các công ty nhà nước ở nước ta theo tiền lệ “cha chung không ai khóc”, thái độ vô trách nhiệm của cán bộ quản lý đã gây lãng phí, thất thoát tài sản của nhân dân ảnh hưởng đến chính sách xã hội của nhà nước đối với công dân (gia đình chính sách và các đối tượng khác cần được hưởng trợ cấp từ xã hội) cũng như nghĩa vụ thuế của công dân đối với nhà nước (thâm hụt ngân sách nhà nước sẽ tiến hành thu thuế để bù đắp) Các thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh tế còn quá rườm rà và thái độ cửa quyền, quan liêu của nhân viên hành chính c ũng xâm phạm đến quyền của công dân. - Về chính trị: Hiến pháp quy định “công dân có quyền tham gia quản lý nh à nước và xã hội, biểu quyết khi nhà nước có trưng cầu ý dân”, việc tr ưng cầu ý dân là một biện pháp thể hiện quyền dân chủ cao nhất, mặc d ù Hiến pháp có quy định nhưng nước ta lại chưa có luật nào quy định về quyền trưng cầu ý dân của công dân để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc quản lý nhà nước, quyết định các vấn đề liên quan đến kinh tế, chính trị, văn hóa x ã hội và các vấn đề quan trọng của quốc gia. Trên thực tế, công dân của nước Việt Nam không thực hiện quyền trưng cầu ý dân, mọi vấn đề quan trọng của đất nước, người dân chỉ có thể thông qua đại
  13. diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân, nhưng đôi khi vì một mục đích chính trị nào đó, các quyết định quan trọng vẫn được thông qua dù không có sự đồng tình của người dân. Một quy định nữa về việc đ ược quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đây là quy định rất tiến bộ về mặt lý thuyết nhưng thực tiễn quy định này không khả thi vì các “vị” được ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đã được chỉ định và sắp đặt trước nên việc tự ứng cử của công dân (nếu có) cũng không có kết quả. - Về văn hóa - xã hội: theo quy định của Hiến pháp “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”, trên thực tế quyền này được thực hiện không triệt để. Về tự do báo chí, tự do ngôn luận, các cơ quan báo chí, truyền thông đều do nhà nước quản lý nên các thông tin được cung cấp sẽ phụ thuộc vào ý chí của nhà nước, như vậy có thể nói quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở n ước ta bị hạn chế. Đối với việc biểu tình (hình như chỉ cho phép người lao động biếu tình đối với tổ chức kinh tế, tiền lệ nước ta chưa có biểu tình chính trị) Theo quy định của Hiến pháp “các cơ quan nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” nhưng thực tế các cơ quan nhà nước và
  14. cán bộ nhà nước thực sự là “nỗi khiếp sợ” của người dân khi cần liên hệ công tác vì thái độ hách dịch, cửa quyền, quan liêu (không phải tất cả nhưng tới 90% đặc biệt là ở các địa phương có trình độ dân trí thấp và trung bình, các cán bộ nhà nước có thể chỉ là COCC)….. - Về hình sự, hành chính: theo điều 72 “người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thưởng thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” nhưng thực tế do trình độ dân trí thấp nên khi cơ quan nhà nước làm trái pháp luật nhưng người dân không biết thì nhà nước chỉ “cười mỉm chi” cho qua chuyện chứ không chủ động xin lỗi công dân, điển hình là vụ “bắt quả tang vụ mua bán dâm” ở Quảng Ninh, mặc dù báo chí đã đưa tin nhưng chưa có 1 cơ quan nào đứng ra xin lỗi người trong cuộc cũng như chịu trách nhiệm dù đó là nghề bị pháp luật cấm…… 3.3. Quan hệ chính trị/chế định chính trị - kinh tế/chế định kinh tế Cơ sở Hiến định: Điều 3 và Chương II Chế độ kinh tế của Hiến pháp 1992 Theo Marx, cơ sở hạ tầng (quan hệ kinh tế) quyết định kiến trúc th ượng tầng, ngược lại những kiến trúc thượng tầng có thể tác động ngược lại cơ sở hạ tầng. Có thể nói, chương Chế độ kinh tế trong Hiến pháp có vị trí khá độc lập với các quy định trong chương Chế độ chính trị nhưng chế độ chính trị cũng có sự ảnh hưởng nhất định đối với chế độ kinh tế.
  15. Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối Đổi mới với ba trụ cột: (i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; (ii) phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng; (iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Như vậy, trên thực tế, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện kinh tế thị trường từ năm 1986, nhưng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ được thể chế hoá sau đó thông qua Hiến pháp năm 1992. 3.3.1 Khái niệm kinh tế thị trường và kinh tế thị trường theo định hướng XHCN Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các quan hệ kinh tế đều được lượng hóa bằng tiền tệ, các đối tượng của sản xuất đều là đối tượng mua và bán, các doanh nghiệp đều có mục đích tự nhiên là tìm kiếm lợi ích cho chính mình theo sự dẫn dắt của những tín hiệu thị trường. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức tổ chức kinh tế vừa dựa trên các quy luật của thị trường vừa dựa trên các nguyên tắc và bản chất của CNXH. 3.3.2 Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
  16. Mục đích: Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Về sở hữu: tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Về phân phối: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Về cơ chế vận hành: cơ chế thị trường có sự quản vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 3.3.2 Liên hệ thực tiễn Sau hơn hai mươi năm thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt là về kinh tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế. GDP bình quân theo đầu người của Việt Nam đã tăng trung bình gần 6% mỗi năm, và hàng triệu người đã thoát nghèo.
  17. Tuy nhiên, một số vấn đề liên quan đến cơ cấu kinh tế cần phải được xem xét như vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và việc sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất như đất đai. Vụ Vinashin nổi lên như một điển hình về sự thất bại của mô hình kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước có ý nghĩa tạo rường cột cho nền kinh tế Việt Nam, giúp nâng cao tính cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới và đóng vai trò một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước để ổn định về kinh tế và chính trị. Về phía mình, để đảm nhận trọng trách này, các doanh nghiệp nhà nước được hưởng các chính sách ưu đãi, được tiếp cận về vốn, đất đai và các nguồn lực khác thuộc sở hữu nhà nước. Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp nhà nước không hoàn thành vai trò chủ đạo của mình. Các doanh nghiệp này kinh doanh không hiệu quả, không đóng góp được vào nền kinh tế. Đặc biệt, như Vinashin, doanh nghiệp nhà nước này còn tạo thêm gánh nặng quá lớn về ngân sách khi thua lỗ. Về vĩ mô, Vinashin chẳng những không thể gánh vác trách nhiệm tạo nên một nền công nghiệp đóng tàu cho Việt Nam, ngược lại, nợ xấu của Vinashin còn ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế Việt Nam nói chung khi các nhà đầu tư nước ngoài hạ thấp bậc tín nhiệm đối với trái phiếu Việt Nam. Ngoài ra, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, như đã nêu ở trên, cũng tạo ra một sự bất bình đẳng đối với nền kinh tế tư nhân trong nước, vốn được đánh giá là còn non trẻ.
  18. Đất đai chiếm trên nửa tổng tài sản của xã hội và là một trong những tư liệu sản xuất quan trọng nhất, đặc biệt là đối với ngành kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, người nông dân hay không có quyền sở hữu loại tài sản này và việc quản lý đất đai theo Luật Đất đai vẫn còn nhiều bất cập. Tình trạng này làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế. Một trong những hậu quả của t ình trạng này là một số người nông dân nghèo bị đẩy ra bên lề khi đất canh tác nông nghiệp của họ bị thu hồi để thực hiện các dự án khu dân c ư hay khu công nghiệp, nhưng cuối cùng những dự án này lại trở thành dự án treo. 3.4. Quan hệ chính trị với các lĩnh vực khác: văn hóa, khoa học, giáo dục, an ninh quốc phòng, dân tộc, đối ngoại 3.4 3.4.1. Mối quan hệ đối với Văn hóa 3.4.1.1 Chính trị định hướng cho văn hóa phát triển · Cơ sở hiến định: Điều 3 HP 1992: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” Điều 30 HP 1992 : “
  19. · Chính trị định hướng cho văn hóa phát triển, đưa văn hóa đi theo đúng quỹ đạo của nền chính trị xã hội chủ nghĩa hướng tới một xã hội nhân văn, nhân đạo, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và nhân dân.Chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ phải hướng tới mục đích cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hoà. Để hoạt động văn hóa thực sự có hiệu quả, phát triển đúng theo định hướng XHCN rất cần có bàn tay nhà nước nhất là trong tình hình hội nhập thế giới như hiện nay khi mà những luồng tư tưởng mới mới xâm nhập ngày càng nhiều mà thời gian thẩm định thẩm định thì chưa có. · Chính trị tạo điều kiện ổn định cho văn hóa phát triển. Nh à nước đảm bảo cho công dân có các quyền văn hóa thiết thực ( Đ30-34 HP 1992). 3.4.1.2 Tác động của văn hóa đến chính trị Văn hóa là yếu tố nội sinh của xã hội, nó không chỉ là mục tiêu và kết quả mà còn là động lực của phát triển đất nước. Văn hóa Việt Nam mang bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, phản ánh tâm hồn, lối sống, tình cảm, hành động của người Việt Nam. Đối với chính tri, văn hóa Việt cũng thấm nhuần vào chủ trương, chính sách, đường lối phát triển của hệ thống chính trị và trở thành văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị có những đặc điểm sau: · Một là, về lịch sử, văn hoá chính trị Việt Nam đ ược hình thành và phát triển trong quá trình hình thành ý thức dân tộc, quốc gia, kết tinh thành truyền thống
  20. dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam. Ý thức độc lập dân tộc, tự lực tự cường, tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng đã trở thành nội dung bền vững mang tính truyền thống của văn hoá chính trị Việt Nam.( Đ1, HP1992) · Hai là, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nền văn hiến quốc gia, tinh thần y êu nước, đoàn kết, phát huy nội lực, sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, gắn liền với việc coi trọng, tôn vinh hiền tài đã tạo nênsức sống của văn hoá chính trị, và, khả năng phát huy những truyền thống, giá trị tốt đẹp đó của dân tộc đã tạo nên “độ cao” của văn hoá chính trị. (Đ3, HP1992) · Ba là, tôn trọng đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý, quật cường dân tộc, nhưng nhân ái, khoan dung, độ lượng, vị tha. Những nét đẹp đó đã tác động, ảnh hưởng, làm cho văn hóa chính trị Việt Nam mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. do đặc điểm của địa chính trị nước ta, nên văn hoá chính trị Việt Nam có nột nét nổi bật là phải sáng tạo. Nhờ khả năng sáng tạo mà bản sắc văn hoá dân tộc d ã được giữ vững và phát triển qua các thời kỳ. Bên cạnh những nét đẹp đó, cũng cần nhận thấy rằng, do nước ta xuất phát là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua quá nhiều các cuộc chiến tranh giữ nước, vì thế những yếu tố như tâm lý tiểu nông khá đậm, kinh nghiệm chủ nghĩa, triết lý chung chung, thiếu tính khách quan và cơ sở khoa học vững chắc, dễ hài lòng với mình, tâm lý chạy theo thành tích, “bệnh” hình thức..., nếu như không được hạn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2