intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách “ngoại giao kinh tế” Nhật Bản với Đông Nam Á những năm 50-70 của thế kỷ XX và tác động của nó

Chia sẻ: Lâm Đức Duy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

122
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Chính sách “ngoại giao kinh tế” Nhật Bản với Đông Nam Á những năm 50-70 của thế kỷ XX và tác động của nó trình bày: Khái quát “chính sách ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai; cụ thể hóa chính sách này đối với Đông Nam Á trong những năm 50-70 của thế kỷ XX và nêu những tác động của nó đối với Nhật Bản và Đông Nam Á,... Mời các bạn cùng tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách “ngoại giao kinh tế” Nhật Bản với Đông Nam Á những năm 50-70 của thế kỷ XX và tác động của nó

CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN <br /> VỚI ĐÔNG NAM Á NHỮNG NĂM 50­70 CỦA THẾ KỶ XX<br />  VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ<br />                                                                       <br />  HOÀNG THỊ MINH HOA <br />                                                                               Tr ường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br /> NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br /> <br /> Tóm tắt:  Sau Chiến tranh thế  giới thứ  hai, với những nhân tố  trong và  <br /> ngoài nước có nhiều thay đổi, Nhật Bản đã đưa ra “Chính sách ngoại giao <br /> kinh tế”. Bài viết này khái quát “chính sách ngoại giao kinh tế” của Nhật  <br /> Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai; cụ thể hóa chính sách này đối với  <br /> Đông Nam Á trong những năm 50­70 của thế  kỷ  XX và nêu những tác  <br /> động của nó đối với Nhật Bản và Đông Nam Á.<br /> <br /> <br /> Sau sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản kiệt qu ệ.  <br /> Vì vậy, khôi phục kinh tế  là một yêu cầu bức thiết. Và để  làm được điều này, về <br /> mặt đối ngoại, đòi hỏi Nhật Bản phải có chính sách đối ngoại và lựa chọn những  <br /> đối tác quan hệ  kinh tế  phù hợp. Đông Nam Á là khu vực đầu tiên mà Nhật Bản  <br /> hướng đến để  thực hiện sự  điều chỉnh chính sách sau chiến tranh mà “chính sách <br /> ngoại giao kinh tế” là một điển hình.<br /> 1. KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN<br /> * Nhân tố trong nước<br /> Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945), Nhật Bản là nước bại trận, sụp đổ  về <br /> vật chất và tinh thần, chịu sự  chiếm đóng của lực lượng Đồng minh, đứng đầu là  <br /> Mỹ. Mục đích của lực lượng Đồng minh là “phi quân sự hoá” và “dân chủ hoá” Nhật  <br /> Bản nhằm thay đổi tính chất xã hội của Nhật Bản từ “quân chủ” sang “dân chủ”, từ <br /> “quân phiệt hiếu chiến” sang “hoà bình” [2, tr. 46].<br /> Sau chiến tranh, Nhật Bản bị  chiếm đóng bởi quân Đồng minh, quan hệ  của Nhật  <br /> Bản với bên ngoài hoàn toàn bị  cắt bỏ  “thuộc địa bằng 45% diện tích Nhật Bản bị <br /> mất hoàn toàn… Đội thương thuyền bị phá huỷ, mậu dịch quốc tế bị ngưng lại và bị <br /> đặt vào sự  quản thúc hết sức khó khăn của quốc tế” [4, tr. 46]. Việc buôn bán của  <br /> Nhật Bản được thực hiện thông qua các tổ chức buôn bán đa chính phủ của Mỹ.<br /> Với thực tế như vậy, Chính phủ Nhật Bản nhận thức rằng “di sản của sự thất bại  <br /> của Nhật Bản trong chiến tranh đã bó buộc đất nước này và không cho phép một con  <br /> <br /> <br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859­1612, Số 04(24)/2012: tr. 106­115<br /> 107 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> đường nào khác ngoài việc tập trung phục hồi và phát triển kinh tế. Vì vậy, Nhật  <br /> Bản đã chuyển sang đường lối đối ngoại hoà bình phát triển kinh tế”. Và chính sách  <br /> “ngoại giao kinh tế” được đưa ra để vực dậy nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh.<br /> Ngoài ra, một nhân tố  quan trọng giữ  vai trò kim chỉ  nam của chính sách ngoại giao  <br /> kinh tế của Nhật Bản là nguyên tắc “kinh tế trên hết” bởi từ kế hoạch 5 năm lần thứ <br /> nhất cho đến các kế hoạch tiếp theo của Nhật Bản đều tập trung vào nguyên tắc số <br /> một là nguyên tắc “kinh tế trên hết” để phát triển thật nhanh nền kinh tế đất nước.<br /> * Nhân tố quốc tế <br /> Hiệp  ước Postdam (7/1945) buộc Nhật Bản đầu hàng Đồng minh không điều kiện <br /> (14/8/1945), bồi thường chiến phí và chịu sự  kiểm soát của quân đội Mỹ. Sau sáu  <br /> năm kể  từ  ngày đầu hàng quân đội Đồng minh, tháng 9 năm 1951, tại nhà hát kịch <br /> San Francisco, hiệp định hòa bình Nhật Bản được kí kết (có hiệu lực vào tháng 4 <br /> năm 1952). Cũng trong thời gian này, Nhật Bản đã kí với Mỹ “Hiệp ước an ninh Mỹ ­ <br /> Nhật”. chấp nhận dưới “ô bảo vệ hạt nhân” của Mỹ. Theo hiệp ước, Nhật Bản cam  <br /> kết cho Mỹ quyền duy trì các lực lượng hải, lục, không quân của Mỹ ở Nhật và một <br /> liên minh quân sự được hình thành nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc và <br /> vùng Viễn Đông. Với hiệp  ước San Francisco, Nhật Bản  đã kí kết với 48 nước  <br /> không cộng sản [7, tr. 22], và được sự bảo trợ của Mỹ trong Hiệp  ước an ninh Mỹ­  <br /> Nhật, đã biến Nhật Bản thành một căn cứ chống cộng ở châu Á và điều này phù hợp  <br /> với chiến lược toàn cầu của Mỹ.<br /> Có thể  thấy hiệp  ước an ninh Mỹ ­ Nhật là nền tảng cho chính sách đối ngoại của <br /> Nhật Bản sau chiến tranh bởi hiệp định là sự cam kết giữ gìn an ninh của Mỹ đối với <br /> Nhật Bản nhưng có một điều kiện đổi lại là sự  phát triển của Nhật Bản bị  “trói <br /> buộc vào phe tư bản chủ nghĩa” [8, tr. 59] mà Mỹ là người đứng đầu. Nhật Bản dựa <br /> vào Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung sức phát triển kinh tế. Vì vậy, Nhật Bản <br /> và Mỹ trở thành đồng minh quan trọng  của nhau trong các mối quan hệ. Thỏa thuận  <br /> an ninh song phương Mỹ­ Nhật được giới cầm quyền Nhật cho rằng đó là “hòn đá  <br /> tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản”. Như  vậy, về  chính trị  và quân sự, <br /> Nhật Bản hoàn toàn dựa vào Mỹ.<br /> Nhật Bản đã lợi dụng liên minh quân sự­chính trị  này để  tránh những khoản chi phí  <br /> quân sự khổng lồ, có điều kiện tập trung mọi khả năng cho sự phát triển kinh tế và  <br /> bành trướng thế  lực ra bên ngoài. Với việc bãi bỏ  những ràng buộc của chính sách <br /> chiếm đóng của Mỹ  thông qua Hiệp  ước San Francisco và Hiệp  ước an ninh Mỹ­<br /> Nhật, Nhật Bản phục hồi nhanh chóng nền kinh tế đất nước. Đặc biệt , khi Mỹ tham <br /> chiến trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (6/1950),  Mỹ  thay đổi chính sách đối với <br /> Nhật Bản, thúc đẩy Nhật Bản nhanh chóng nhảy vào Đông Nam Á, hòng giảm bớt  <br /> gánh nặng viện trợ mà Mỹ đang cáng đáng. Vì vậy, hai Hiệp ước này “được coi như <br /> là cơ  sở  chính trị  đầu tiên của chính sách ngoại giao kinh tế  của Nhật Bản” [5, tr.  <br /> 124].<br /> CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 108<br /> <br /> <br /> <br /> 2. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KINH TẾ  CỦA NHẬT BẢN NHỮNG NĂM 50­70 <br /> CỦA THẾ KỶ XX<br /> 2.1. Chính sách ngoại giao kinh tế của Nhật Bản đối với Đông Nam Á<br /> * Chính sách Đông Nam Á của Nhật Bản<br /> Đối với Nhật Bản, Đông Nam Á là thị  trường gần gũi, là cái kho khổng lồ  về  tài  <br /> nguyên thiên nhiên cần thiết cho sự  phát triển kinh tế  Nhật Bản. “Đông Nam Á có <br /> thể  cung cấp cho Nhật Bản: 100% cao su, 74% quặng sắt, 18,6% dầu thô, 85% vật <br /> liệu gỗ, 49% kim loại màu, 88,5% bôxít, 77,4% than mỏ”, là nơi có nhu cần lớn về <br /> trang bị kỹ thuật công nghiệp mà Nhật Bản có thể cung cấp. <br /> Quay trở lại Đông Nam Á, Nhật Bản muốn mở rộng phần nhập khẩu nguyên liệu và  <br /> lương thực thực phẩm nhằm cải thiện cán cân thương mại thâm hụt quá lớn với Mỹ.  <br /> Đường lối ngoại giao kinh tế được thực hiện để phục hồi nền kinh tế trong nước và <br /> được xem như  là “một chính sách quốc gia”. Mục đích của chính sách này là đảm  <br /> bảo lợi ích trong các hoạt động kinh tế  của Nhật Bản  ở  Đông Nam Á. Chính sách  <br /> “ngoại giao kinh tế” đã giúp cho các công ty độc quyền Nhật Bản xâm nhập vào các  <br /> nước Đông Nam Á và khẳng định vị trí của họ ở khu vực này. Đây “được coi là thay  <br /> đổi quan trọng trong quan hệ kinh tế­xã hội của Nhật Bản  ở khu vực Đông Nam Á <br /> sau chiến tranh thế giới thứ hai” [5, tr.49].<br /> Vào tháng 12 năm 1952, Chính phủ Nhật Bản chính thức tuyên bố chính sách của họ <br /> đối với Đông Nam Á ­ “một chính sách mạng đậm màu sắc kinh tế”.   Thủ  tướng <br /> Yoshida đã nhấn mạnh: “Nhằm thúc đẩy mậu dịch, chính phủ  sẽ  thực hiện chính  <br /> sách ngoại giao kinh tế… tiến hành ký kết các hiệp  ước thương mại, mở  rộng và <br /> phát triển các cơ hội buôn bán, cũng cố  các ngành công nghiệp xuất khẩu… Để làm  <br /> được điều đó,  chúng ta đặc biệt phát triển các mối liên kết kinh tế  với các nước  <br /> Đông Nam Á” [1, tr. 26] và “Tôi không thấy cần phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng <br /> của quan hệ chúng ta đối với Đông Nam Á, vì chúng ta không thể  trông đợi nhiều ở <br /> mậu dịch Trung Quốc. Chính phủ mong muốn mở rộng mọi sự hợp tác có thể  vì sự <br /> phồn vinh của các nước Đông Nam Á dưới hình thức vốn, kỹ thuật, dịch vụ hoặc các  <br /> hình thức khác để nhờ  đó thúc đẩy hơn nữa các quan hệ cùng có lợi và thịnh vượng <br /> chung” [3, tr. 6].<br /> Chính phủ Nhật Bản xác định một trong những trọng tâm của chính sách ngoại giao  <br /> mới của Nhật Bản là bình thường hoá và thúc đẩy các quan hệ  hữu nghị  với các <br /> nước Đông Nam Á, cụ thế là liên kết kinh tế với các quốc gia ở khu vực này. “Quả <br /> là có lý khi nói chính sách ngoại giao kinh tế  với Đông Nam Á chiếm 1/3 tầm quan  <br /> trọng trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản bởi vì phương hướng đó là một  <br /> trong ba phương hướng cơ bản của chính sách đối ngoại Nhật Bản thời kỳ này”.<br /> Để  thực hiện và mở  rộng chính sách ngoại giao kinh tế, tháng 12 năm 1966, Nhật <br /> Bản có ý định thành lập “Cộng đồng Châu Á­Thái Bình Dương” không chỉ  bao gồm <br /> 109 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> Đông Nam Á mà cả  Canada,  Australia, New  Zealand. Nhật Bản tuyên bố  rằng “sẽ <br /> tạo lập một vùng  ảnh hưởng kinh tế  và chính trị” như  “một vùng đất cấm của chủ <br /> nghĩa tư bản Nhật” [3,  tr. 7], đó là Thái Bình Dương ­ Đông Nam Á. <br /> Năm 1977, Nhật Bản cho ra đời học thuyết Fukuda, với nội dung chủ yếu:<br /> ­ Nhật Bản ­ một quốc gia tôn trọng hoà bình, không chấp nhận vai trò của một <br /> cường quốc quân sự  và quyết tâm đóng góp vào hoà bình và thịnh vượng của  <br /> Đông Nam Á và cộng đồng thế giới.<br /> ­ Nhật Bản sẽ nỗ lực để củng cố mối quan hệ bè bạn và tin cậy trong nhiều lĩnh  <br /> vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội với các nước trong khu vực.<br /> ­ Nhật Bản sẽ là một bạn hàng bình đẳng, hợp tác tích cực với các nước ASEAN <br /> (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á­viết tắt là ASEAN, ra đời năm 1967) và  <br /> các nước khác, tăng cường các mối quan hệ  hiểu biết lẫn nhau với các nước <br /> Đông Dương và sẽ  góp phần vào việc xây dựng hoà bình và thịnh vượng trên <br /> toàn khu vực Đông Nam Á. <br /> Sự ra đời của học thuyết này đánh dấu bước chủ động của Nhật Bản  trong việc coi <br /> trọng hàng đầu thị  trường Đông Nam Á. Học thuyết này lần đầu tiên đánh dấu sự <br /> chuyển hướng rõ rệt của Nhật Bản trong quan hệ đối ngoại từ  sau Chiến tranh thế <br /> giới thứ hai nhằm tăng cường vai trò chính trị của Nhật thông qua đòn bẩy kinh tế ở <br /> khu vực Đông Nam Á.<br /> 2.2. Chính sách “ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản  ở Đông Nam Á trong những  <br /> năm 50 ­ 70 của thế kỷ XX<br /> Chính sách “ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản đối với Đông Nam Á do Chính phủ <br /> Yoshida đề xướng vào những năm 50, được thực hiện bằng các công cụ: bồi thường  <br /> chiến phí, buôn bán mậu dịch, đầu tư và viện trợ.<br /> * Bồi thường chiến tranh<br /> Bước đi đầu tiên trong chính sách ngoại giao kinh tế  của Nhật Bản là bồi thường <br /> chiến tranh và việc bồi thường được trả  bằng hàng hoá và các loại dịch vụ  khác. <br /> Việc bồi thường được Nhật Bản xúc tiến từ  đầu những năm 50. Năm 1951, Nhật <br /> Bản thương lượng với Indonesia, năm 1952 thương lượng với Philipin nes. Nhưng <br /> phải đến năm 1954 trở đi, việc thương lượng bồi thường mới được kí kết giữa các <br /> bên. Nhật Bản bồi thường cho Myanmar 200 triệu đôla, được trả  trong thời hạn 20 <br /> năm, được thực hiện thông qua các chương trình hàng hoá và dịch vụ. Philipin nes là <br /> nước thứ  hai trong khu vực đạt được hiệp định bồi thường với Nhật Bản, và Nhật  <br /> phải bồi thường 500 triệu đôla cộng với chương trình tín dụng dài hạn 20 năm. Đối  <br /> với Indonesia, Nhật Bản phải bồi thường 230 triệu đôla và 400 triệu đôla tín dụng [1,  <br /> tr. 38]. Việc thương lượng thành công với 3 nước Myanmar  (12/1954), Philipinnes <br /> CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 110<br /> <br /> <br /> <br /> (4/1956) và Indonesia  (11/1957) trong bồi thường chiến tranh chứng tỏ  chính sách  <br /> ngoại giao kinh tế của Nhật Bản do Thủ tướng Yoshida khởi xướng bước đầu được <br /> thực thi trong thực tế. Năm 1959, việc Nhật Bản kí hiệp định bồi thường chiến tranh  <br /> cho miền Nam Việt Nam (Nhật Bản bồi thường cho miền Nam Việt Nam tổng số <br /> 55,6 triệu đôla, được chi trả  trong thời hạn 5 năm, bao gồm 39 triệu bồi thường  <br /> chiến tranh, 7,5 triệu viện trợ kinh tế và 9,1 triệu tín dụng [1; tr.41]) cho thấy Nhật  <br /> Bản đã hoàn thành căn bản giai đoạn bình thường hóa quan hệ  với các nước Đông  <br /> Nam Á. Rõ ràng, bồi thường chiến tranh được xem là một công cụ  hữu hiệu của  <br /> Nhật Bản trong những năm 50 để thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế.<br /> Đến năm 1965, về  cơ  bản Nhật Bản đã thanh toán xong những khoản bồi thường  <br /> chiến tranh với các nước có liên quan ở Đông Nam Á.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> * Thương mại mậu dịch <br /> Đầu những năm 50, khi bắt đầu xác định chính sách đối với Đông Nam Á, tỷ lệ xuất  <br /> khẩu của Nhật sang các nước Đông Nam Á đạt 41% trong tổng số xuất khẩu ra thế <br /> giới. Thời kỳ  này, Đông Nam Á luôn bị  thâm hụt trong cán cân thanh toán ngoại  <br /> thương với Nhật Bản, cụ  thể  là năm 1951, các quốc gia Đông Nam Á thâm hụt <br /> thương mại 61,9 triệu đôla, năm 1954 thâm hụt 88,3 triệu đôla [5, tr. 46]. Nhìn chung , <br /> thời kỳ  này (1950­1954), Đông Nam Á trở  thành thị  trường cho hàng xuất khẩu của <br /> Nhật.<br /> Sang những năm 60, chính sách “ngoại giao kinh tế” mang đậm tính thương mại.  Ở <br /> khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản phát triển mạnh mục tiêu giữ sự phụ thuộc của các <br /> nước này trong quan hệ thương mại với Nhật  ở lĩnh vực tài nguyên và năng lượng. <br /> Kết thúc năm 1969, Nhật Bản đã đạt được số  dư  là 850 triệu đôla trong việc buôn <br /> bán với 9 nước vùng Đông Nam Á. Máy móc, thiết bị, vật liệu là những mặt hàng <br /> xuất khẩu ngày càng tăng, 40% tổng số hàng xuất khẩu trong thập kỷ 60 là các mặt  <br /> hàng chế biến công nghiệp. Cũng trong thập kỷ này, Nhật Bản thu lãi lớn: tổng giá <br /> trị xuất khẩu về hàng hóa là 926,7 triệu đôla năm 1960 đến năm 1969 tăng lên 6.164  <br /> triệu đôla.<br /> Cơ cấu mậu dịch giữa hai bên trong giai đoạn này có những đặc điểm nổi bật: hàng  <br /> hóa nhập khẩu vào Nhật Bản là những mặt hàng từ  tài nguyên của các nước đang <br /> phát triển ASEAN, đổi lại phần xuất khẩu từ  Nhật nhằm vào các sản phẩm công  <br /> nghiệp của  các   nước  phát  triển.  80%  tổng  số  xuất  khẩu  từ   Nhật  vào các   nước <br /> ASEAN là các mặt hàng công nghiệp nặng, máy móc thiết bị, kim loại, hóa chất, <br /> ngược lại các mặt hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN nhập vào Nhật là nhiên liệu  <br /> khoáng sản, nguyên liệu, lương thực thực phẩm, kim loại, các mặt hàng chế  biến…  <br /> Năm 1975, xuất khẩu từ Nhật sang các nước ASEAN đạt tổng số là 5.980 triệu đôla <br /> 111 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> và hàng nhập khẩu từ  các nước này vào Nhật Bản đạt tổng số  6.860 triệu đôla. So <br /> với những năm 70 thì hoạt động này phát triển khá mạnh, tổng giá trị hàng nhập vào  <br /> Nhật là 1.870 triệu đôla và đến năm 1975 là 6.860 triệu đôla, tổng giá trị  hàng xuất  <br /> khẩu từ Nhật là 1.810 triệu đôla năm 70 so với 5.980 triệu đôla năm 1975. Như vậy,  <br /> trong những năm 70­75 tổng giá trị  nhập khẩu của Nhật nhiều hơn tổng giá trị  xuất <br /> khẩu. Người Nhật giải thích rằng các nước ASEAN quan trọng đối với Nhật là  ở <br /> “tư  cách một nguồn hàng nhập khẩu hơn là tư  cách một địa bàn tiêu thụ  các hàng  <br /> xuất khẩu” [5, tr. 109] của họ. Điều này là phù hợp với tình hình thực tế đầu những  <br /> năm 70 với cuộc khủng hoảng dầu mỏ, các nước ASEAN là nguồn đáp ứng nhu cầu  <br /> năng lượng của Nhật Bản.<br /> * Viện trợ ODA<br /> Kế hoạch Ki­si ra đời năm 1957 đã đẩy mạnh việc phát triển kinh tế xuống khu vực  <br /> Đông Nam Á, thành lập “Quỹ phát triển Đông Nam Á” nhằm cung cấp tài chính cho <br /> việc khai thác tài nguyên ở các nước Đông Nam Á. Năm 1958, Nhật Bản đã trích 5 tỷ <br /> yên đưa vào quỹ dưới danh nghĩa viện trợ các nước đang phát triển ở Đông Nam Á.  <br /> Trong những năm 50 và 60, viện trợ  của Nhật Bản không chỉ  là tiền mà được thực <br /> hiện dưới các chương trình viện trợ thiết bị giúp đỡ  kỹ  thuật. Các hình thức này đã  <br /> giúp Nhật Bản thâm nhập vào thị trường các nước Đông Nam Á.<br /> Viện trợ  của Nhật Bản cho các nước Đông Nam Á bao gồm cho vay chính thức và  <br /> viện trợ  không hoàn lại. Từ  năm 1960 đến năm 1976, tổng số  viện trợ  và chi viện <br /> cho việc hợp tác với các nước ASEAN của Nhật Bản đã đạt hơn 28 tỉ  đôla, chiếm  <br /> 27,4% trong tổng số  viện trợ  phát triển chính thức  ở  nước ngoài (viết tắt là ODA)  <br /> của Nhật Bản. Năm 1977, viện trợ cho các nước ASEAN chiếm 29,9% tổng viện trợ <br /> phát triển chính thức ở nước ngoài.<br /> ODA 1977 Viện trợ <br /> Tổng cộng <br /> chính thức <br /> Nước Phần viện trợ  Cho vay chính  Tổng cộng chung từ <br /> và tư nhân <br /> không hoàn lại thức 1960­1975<br /> khác<br /> Indonesia 2.420 12.415 14.835 20.017 444.018<br /> Malaisia 534 2.411 2.945 1.656 68.033<br /> Philipinnes 1.378 1.683 3.061 9.150 166.571<br /> Singapore 209 674 883 8.939 51.858<br /> Thái Lan 1.533 3.630 5.183 2.020 55.764<br /> ASEAN 6.075  20.833  26.907  41.782 786.244<br /> (25,7%) (31,4%) (29,9%) (11,5%) (27,4%)<br /> Tổng ODA  28.668 66.257 89.925 363.640 2.871.983<br /> cho các nước (100%) (100%) (100%) (100%) (100%)<br /> Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản. “Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản” [5, tr. 101]<br /> * Đầu tư kinh tế<br /> CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 112<br /> <br /> <br /> <br /> Những năm đầu trở lại thị trường Đông Nam Á, việc đầu tư tư  bản của Nhật chưa  <br /> đáng kể, từ  5 triệu đôla năm 1951 lên 9,5 triệu đôla năm 1954 nhưng đến cuối năm <br /> 1956 vốn đầu tư của Nhật ở Đông Nam Á đã lên 18 triệu đôla. Tư bản tư nhân Nhật  <br /> đầu tư  vào các nước Đông Nam Á dưới các hình thức: mua chứng khoán hoặc cổ <br /> phẩn để  thành lập những công ty hỗn hợp tại Đông Nam Á có sự  tham gia của tư <br /> bản Nhật. Hoặc giúp đỡ  kỹ  thuật dưới hình thức đầu tư  ngoại hối, gửi chuyên gia  <br /> kỹ thuật Nhật Bản đến giúp đỡ, đào tạo sinh viên hay bán bằng phát minh sáng chế <br /> của Nhật.  <br /> Một nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nhận xét: “Kiểu đầu tư của Nhật Bản được coi là <br /> một cách tiếp cận các khoáng sản và nông sản cần cho Nhật Bản với giá rẻ”.<br /> Đầu tư  của Nhật Bản cho các nước Đông Nam Á đạt tới 1,3 tỉ  đôla tính đến cuối  <br /> năm 1964, đầu năm 1965. Vốn đầu tư  của Nhật Bản được thực hiện thông qua các  <br /> hình thức như: “Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế”, “Tổ  chức sản xuất châu  <br /> Á”. Việc đẩy mạnh chính sách ngoại giao kinh tế  thông qua các chương trình như: <br /> “Hợp tác quốc tế và giúp đỡ kỹ thuật”, “Quỹ phát triển Đông Nam Á” cộng với cho  <br /> vay vốn chính phủ Nhật đã nhanh chóng đầu tư tư bản Nhà nước vào các nước Đông <br /> Nam Á đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản tư nhân trong việc chuyển vốn <br /> vào các ngành khai thác tài nguyên ở khu vực này.<br /> Để thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế ở Đông Nam Á, Nhật Bản đã từng bước  <br /> tham gia vào các tổ chức của khu vực như “Ngân hàng phát triển châu Á” được thành <br /> lập và khai trương vào tháng 12 năm 1966 tại Manila, trong đó đóng góp đầu tiên của <br /> Nhật Bản ngang bằng với Mỹ tức là 200 triệu đôla trên tổng số vốn 1.100 triệu đôla  <br /> của ngân hàng, rồi “quỹ  phát triển nông nghiệp Đông Nam Á” được thành lập năm  <br /> 1966, đầu tư  của Nhật Bản chiếm 1/3 (tức 100 triệu đôla), mục đích của Nhật Bản <br /> là đảm bảo ổn định về lương thực và mở rộng xuất khẩu.<br /> Mặc dù gặp khó khăn trong tình hình kinh tế, chính trị  do “cú sốc Ni xon” (1971) và <br /> “cơn khoáng dầu mỏ” (1973) nhưng Nhật Bản vẫn tăng cường quan hệ với các nước  <br /> ASEAN, càng đẩy mạnh đầu tư hơn bởi vì một vài nước trong ASEAN sẽ là những  <br /> nguồn đáp ứng nhu cầu năng lượng cần thiết cho Nhật Bản. Vào đầu những năm 70  <br /> các nước ASEAN bước đầu thực hiện “Chiến lược phát triển công nghiệp hướng về <br /> xuất khẩu” trong đó nhu cầu về  thu hút vốn đầu tư  của tư  bản nước ngoài rất lớn,  <br /> cộng thêm nhu cầu về đa dạng hóa quan hệ kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu.  <br /> Do đó, Nhật Bản đã tận dụng được cơ hội khi các nước ASEAN thi hành chính sách <br /> rộng rãi, ưu đãi vốn đầu tư  và nguồn viện trợ của tư bản tư nhân. Trong khoảng từ <br /> năm 1971 đến 1975, số  vốn  đầu tư  của Nhật Bản cho việc khai thác nguồn tài <br /> nguyên ở nước ngoài tăng đều đặn. Năm 1970, số đầu tư đạt 1.092 triệu đôla, chiếm <br /> 40,7% tổng vốn đầu tư  tư  nhân ở  nước ngoài, đến năm 1975, con số  này đã lên tới  <br /> 4.075 triệu đôla, chiếm 32%. Theo số liệu do Bộ ngoại giao Nhật Bản công bố, các <br /> 113 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> nguồn đầu tư  tư  nhân của Nhật Bản vào các nước ASEAN từ  năm 70 đến năm 76 <br /> như sau.<br /> Đầu tư của Nhật Bản ở ASEAN (nghìn đôla)<br /> Nước 1970 1972 1974 1976 Tổng cộng<br /> Indonesia 44.750 124.800 231.270 784.770 2.113.464<br /> Malaisia 12.690 21.050 68.720 45.160 303.092<br /> Philipinnes 28.770 12.920 71.640 56.290 323.445<br /> Singapore 59.120 55.570 312.966<br /> Thái Lan 13.790 25.060 40.550 7.710 190.499<br /> Nguồn: Bộ Ngoại giao Nhật Bản ­ 1975 [5, tr. 103]<br /> Nguồn vốn đầu tư của Nhật tập trung vào các ngành khai thác mỏ quặng, nguồn khí  <br /> đốt tự  nhiên, các ngành khai thác hải sản và lâm sản nhiệt đới và các khu công <br /> nghiệp  xuất   khẩu.   Với   việc   đầu   tư   này,  Nhật   Bản  nhằm   chiếm   độc   quyền  thị <br /> trường nguồn hàng nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á.<br /> Ngoài ra, Nhật Bản còn hùn vốn vào các công ty hỗn hợp với tư bản các nước sở tại  <br /> và đầu tư  vào dự  án cùng với các nước tư  bản công nghiệp khác. Mục đích đầu tư <br /> của Nhật là đầu tư  vào thế  mạnh của từng nước Đông Nam Á để  có thể  nhập về <br /> Nhật đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước nhưng đồng thời từng nước trong khu vực <br /> lại là một thị trường tiêu thụ các mặt hàng thích hợp của Nhật.<br /> Như vậy, có thể thấy rằng, chính sách ngoại giao của Nhật Bản sau chiến tranh thế <br /> giới hai chỉ nhằm vào mục đích kinh tế trên hết mà chính sách “ngoại giao kinh tế” là  <br /> một minh chứng cụ thể, nó chỉ thay đổi hình thức cho phù hợp với tình hình thực tiễn  <br /> của Nhật Bản và các nước Đông Nam Á trong từng giai đoạn.<br /> CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 114<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN VỚI  <br /> ĐÔNG NAM Á<br /> * Đối với Nhật Bản <br /> Chính sách ngoại giao kinh tế  đã giúp Nhật Bản phục hồi nền kinh tế  trong nước,  <br /> đặc biệt trong những năm 60, 70, Nhật Bản đã vươn lên vị trí thứ  hai trong thế  giới  <br /> tư  bản, sau Mỹ. Năm 1950, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản mới đạt 24 tỉ <br /> đôla nhưng sang những năm 60, Nhật Bản đã vượt qua Canada, Anh, Pháp và Tây  <br /> Đức. Năm 1973, tổng sản phẩm quốc dân Nhật Bản đạt khoảng 360 tỉ [6, tr. 177].<br /> Sự  phát triển của nền kinh tế  giúp Nhật giảm bớt sự  phụ  thuộc vào Mỹ  và tăng  <br /> cường vai trò, vị trí trên thế  giới cũng như  ở  khu vực Đông Nam Á. Nhật Bản tham  <br /> gia các “Đại hội vì sự phát triển vùng Đông Nam Á”, “Hội đồng châu Á và Thái Bình  <br /> Dương” (ASPAC) và tham gia vào việc thành lập “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam  <br /> Á (1967)” (ASEAN). Hay nói cách khác, chính sách “ngoại giao kinh tế” giúp Nhật <br /> Bản độc lập hơn với Mỹ trong các quan hệ kinh tế.<br /> Chính sách ngoại giao kinh tế là một phương cách để Nhật Bản mở rộng thị trường,  <br /> làm cho các nước Đông Nam Á quen dần với các loại hàng hóa của mình thông qua <br /> các hình thức viện trợ, đầu tư, mậu dịch hay bồi thường cả tiền lẫn hàng hóa Nhật <br /> Bản; là cơ  sở để  Nhật Bản vươn lên từ  cường quốc kinh tế  trở  thành cường quốc <br /> chính trị ở khu vực và thế giới. <br /> Tác động quan trọng về  chính trị  là thông qua việc bồi thường chiến tranh đã cải <br /> thiện được hình ảnh của Nhật Bản trong con mắt của cộng đồng Đông Nam Á vốn  <br /> đã từng bị Nhật Bản xâm lược và nô dịch trong chiến tranh. <br /> Một tác động quan trọng là giúp Nhật Bản trở về với cộng đồng thế giới và khu vực  <br /> khi Nhật Bản đã vươn lên sau đống đổ  nát của chiến tranh, trở  thành nước có nền <br /> kinh tế lớn thứ hai sau Mỹ, có quan hệ buôn bán, viện trợ, đầu tư với các nước trong <br /> khu vực. Chính việc thực hiện khéo léo chính sách “ngoại giao kinh tế” mà Nhật Bản <br /> đã giữ được vị trí là “người cung cấp những mặt hàng nhập khẩu quan trọng của các <br /> nước ASEAN”.  <br /> * Đối với các nước Đông Nam Á<br /> Chính sách “ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản ngoài tác động tích cực cho Nhật Bản <br /> còn giúp các nước Đông Nam Á có bước phát triển mới trong nền kinh tế. Nhờ <br /> nguồn vốn từ  việc bồi thường, viện trợ, đầu tư  và mở  rộng quan hệ  buôn bán mà  <br /> trong những năm 60, 70, các nước Đông Nam Á đã phát triển nền kinh tế của mình.  <br /> Đây là điều không thể phủ nhận (ví dụ: Indonesia trong những năm 60, đạt mức phát <br /> triển bình thường. Sang thập niên 70, tốc độ  phát triển kinh tế  tăng nhanh, từ  2,5% <br /> những năm 60 lên 7­7,5%).<br /> 115 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> <br /> <br /> <br /> Không những phát triển về  kinh tế  mà các nước ASEAN còn học tập được những <br /> tiến bộ  khoa học kỹ  thuật, những kinh nghiệm trong đầu tư  1 của Nhật Bản. Việc <br /> Nhật Bản đẩy mạnh quan hệ  với các nước ASEAN trong những năm 70 cộng với <br /> “chiến lược phát triển công nghiệp hướng về  xuất khẩu” đã đem lại kết quả  khả <br /> quan cho các nước ở khu vực này, đưa một số kỹ thuật mới vào nền sản xuất, bước  <br /> đầu đi vào công nghiệp hóa, tạo một sức bật mới cho nền kinh tế.<br /> Để đối trọng với các nước bên ngoài trong hợp tác, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam  <br /> Á thành lập năm 1967 chứng minh cho sự  phát triển và đoàn kết các quốc gia trong  <br /> khu vực.<br /> Bên cạnh những kết quả đạt được nhờ  chính sách ngoại giao kinh tế  thì Đông Nam <br /> Á vẫn bị  thâm hụt trong cán cân thanh toán ngoại thương với Nhật Bản, bởi Đông  <br /> Nam Á là thị  trường tiêu thụ  hàng hóa của Nhật… Đông Nam Á là nơi giải quyết  <br /> những khó khăn trong nền kinh tế  của Nhật Bản như “cú sốc Nixon”, “cơn choáng <br /> dầu mỏ”. Vì vậy, xét trên quan hệ kinh tế thì mối quan hệ này không cân xứng, bởi <br /> Nhật là người thu được nhiều lợi nhuận, người đóng vai trò chủ  đạo còn các nước  <br /> Đông Nam Á thì phải chịu thâm hụt. Nhưng nhìn một cách tổng thể  thì các nước  <br /> Đông Nam Á cũng thu được những thành quả  không nhỏ  đó là bước đầu thực hiện <br /> tốt “chiến lược phát triển công nghiệp hướng vào xuất khẩu”.<br /> 4. KẾT LUẬN<br /> Chính sách “ngoại giao kinh tế” ra đời trong bối cảnh nền kinh tế  Nhật Bản bước  <br /> vào giai đoạn phục hồi sau sự tàn phá của chiến tranh. Khu vực được hướng đến là  <br /> Đông Nam Á, Nhật Bản nhằm vào một thị trường rộng lớn, nguyên liệu phong phú  <br /> giá nhân công thấp. Với các hình thức: bồi thường chiến tranh, viện trợ, đầu tư, quan  <br /> hệ mậu dịch Nhật Bản vừa có thể  củng cố  uy tín cũng như  phát triển kinh tế ở khu <br /> vực đầy tiềm năng này.<br />  Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 60 và đầu những <br /> năm 70 chứng tỏ chính sách ngoại giao kinh tế là một sự điều chỉnh đúng đắn, mà vị <br /> trí thứ  hai của Nhật Bản trong thế giới tư bản là một bằng chứng. Sự phát triển về <br /> kinh tế kéo theo địa vị chính trị của Nhật Bản cũng được nâng cao (Chính phủ Nhật  <br /> Bản thăm các nước Đông Nam Á để mở rộng quan hệ trong những năm 60, 70).<br /> Chính sách ngoại giao kinh tế đã giúp các nước Đông Nam Á khôi phục đất nước, cải  <br /> thiện  nền kinh tế, góp phần thay đổi cơ  cấu công ­ nông nghiệp theo hướng hiện <br /> đại. Bên cạnh “cái được” là “cái mất”,  đó là sự  cạn kiệt dần nguồn nguyên nhiên <br /> liệu, sự  thâm hụt trong cán cân thương mại. Nhật Bản thu được nguồn lợi lớn từ <br /> mối quan hệ này. Đây là giai đoạn tiền đề, mở đầu cho sự hợp tác lâu dài giữa Nhật <br /> Bản và Đông Nam Á trong những giai đoạn tiếp sau.<br /> 1<br />  Nhật Bản đầu tư vào những vùng có nguồn nhân công rẻ; đầu tư vào các ngành khai thác mỏ quặng, <br /> nguồn khí đốt tự nhiên…; hay hùn vốn vào các công ty hỗn hợp với tư bản các nước sở tại…<br /> CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 116<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />                                                           <br /> [1] Ngô Xuân Bình (cb) (1999).  Quan hệ  Nhật Bản – ASEAN ­ chính sách và tài trợ  <br /> ODA. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.<br /> [2] Hoàng Thị Minh Hoa (1999). Cải cách dân chủ Nhật Bản trong những năm 1945­<br /> 1951. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> [3] Hoàng Thị Minh Hoa (1998). Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với các nước  <br /> Đông Nam Á giai đoạn 1975 đến nay. Tóm tắt đề  tài nghiên cứu khoa học cấp  <br /> trường, Huế.<br /> [4] Hoàng Thị Minh Hoa (2003). Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai dưới góc <br /> độ  đặc thù dân tộc. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3, trang 41­<br /> 49.<br /> [5] Dương Lan Hải (1992). Quan hệ của Nhật Bản với các nước ĐNÁ sau chiến tranh  <br /> thế giới thứ 2 (1945­1975). Viện Châu Á và Thái Bình Dương, Hà Nội.<br /> [6] Phan Ngọc Liên (cb) (1997). Lịch sử Nhật Bản. NXB Văn hoá ­ Thông tin, Hà Nội.<br /> [7] Masaya Shiraishi (1994). Quan hệ Nhật Bản ­ Việt Nam 1951­1987 . NXB Khoa học <br /> Xã hội, Hà Nội.<br /> [8] Trần Anh Phương (2005). Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ  sau <br /> chiến tranh thế  giới thứ  2.  Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số  1, <br /> trang 59­68. <br /> <br /> <br /> <br /> Title: JAPAN’S ECONOMIC FOREIGN POLICY TO THE SOUTHEAST ASIA IN THE 50­<br /> 70s OF THE 20TH CENTURY AND ITS IMPACTS<br /> <br /> Abstract:  After the Second World War, with the changed  domestic and international factors, <br /> Japan   brought   out   the   “Economic   Foreign   Policy”.   This   article   generalises   the   “economic <br /> diplomacy” of Japan after the Second World War; concretises this policy for the Southeast Asia <br /> in the 50­70s of the twentieth century and its effects onto Japan and Southeast Asia.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PGS. TS. HOÀNG THỊ MINH HOA<br /> Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br /> <br /> NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br /> Học viên Cao học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2