CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN <br />
VỚI ĐÔNG NAM Á NHỮNG NĂM 5070 CỦA THẾ KỶ XX<br />
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ<br />
<br />
HOÀNG THỊ MINH HOA <br />
Tr ường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />
<br />
Tóm tắt: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với những nhân tố trong và <br />
ngoài nước có nhiều thay đổi, Nhật Bản đã đưa ra “Chính sách ngoại giao <br />
kinh tế”. Bài viết này khái quát “chính sách ngoại giao kinh tế” của Nhật <br />
Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai; cụ thể hóa chính sách này đối với <br />
Đông Nam Á trong những năm 5070 của thế kỷ XX và nêu những tác <br />
động của nó đối với Nhật Bản và Đông Nam Á.<br />
<br />
<br />
Sau sự thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản kiệt qu ệ. <br />
Vì vậy, khôi phục kinh tế là một yêu cầu bức thiết. Và để làm được điều này, về <br />
mặt đối ngoại, đòi hỏi Nhật Bản phải có chính sách đối ngoại và lựa chọn những <br />
đối tác quan hệ kinh tế phù hợp. Đông Nam Á là khu vực đầu tiên mà Nhật Bản <br />
hướng đến để thực hiện sự điều chỉnh chính sách sau chiến tranh mà “chính sách <br />
ngoại giao kinh tế” là một điển hình.<br />
1. KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN<br />
* Nhân tố trong nước<br />
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945), Nhật Bản là nước bại trận, sụp đổ về <br />
vật chất và tinh thần, chịu sự chiếm đóng của lực lượng Đồng minh, đứng đầu là <br />
Mỹ. Mục đích của lực lượng Đồng minh là “phi quân sự hoá” và “dân chủ hoá” Nhật <br />
Bản nhằm thay đổi tính chất xã hội của Nhật Bản từ “quân chủ” sang “dân chủ”, từ <br />
“quân phiệt hiếu chiến” sang “hoà bình” [2, tr. 46].<br />
Sau chiến tranh, Nhật Bản bị chiếm đóng bởi quân Đồng minh, quan hệ của Nhật <br />
Bản với bên ngoài hoàn toàn bị cắt bỏ “thuộc địa bằng 45% diện tích Nhật Bản bị <br />
mất hoàn toàn… Đội thương thuyền bị phá huỷ, mậu dịch quốc tế bị ngưng lại và bị <br />
đặt vào sự quản thúc hết sức khó khăn của quốc tế” [4, tr. 46]. Việc buôn bán của <br />
Nhật Bản được thực hiện thông qua các tổ chức buôn bán đa chính phủ của Mỹ.<br />
Với thực tế như vậy, Chính phủ Nhật Bản nhận thức rằng “di sản của sự thất bại <br />
của Nhật Bản trong chiến tranh đã bó buộc đất nước này và không cho phép một con <br />
<br />
<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 18591612, Số 04(24)/2012: tr. 106115<br />
107 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
<br />
<br />
<br />
đường nào khác ngoài việc tập trung phục hồi và phát triển kinh tế. Vì vậy, Nhật <br />
Bản đã chuyển sang đường lối đối ngoại hoà bình phát triển kinh tế”. Và chính sách <br />
“ngoại giao kinh tế” được đưa ra để vực dậy nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh.<br />
Ngoài ra, một nhân tố quan trọng giữ vai trò kim chỉ nam của chính sách ngoại giao <br />
kinh tế của Nhật Bản là nguyên tắc “kinh tế trên hết” bởi từ kế hoạch 5 năm lần thứ <br />
nhất cho đến các kế hoạch tiếp theo của Nhật Bản đều tập trung vào nguyên tắc số <br />
một là nguyên tắc “kinh tế trên hết” để phát triển thật nhanh nền kinh tế đất nước.<br />
* Nhân tố quốc tế <br />
Hiệp ước Postdam (7/1945) buộc Nhật Bản đầu hàng Đồng minh không điều kiện <br />
(14/8/1945), bồi thường chiến phí và chịu sự kiểm soát của quân đội Mỹ. Sau sáu <br />
năm kể từ ngày đầu hàng quân đội Đồng minh, tháng 9 năm 1951, tại nhà hát kịch <br />
San Francisco, hiệp định hòa bình Nhật Bản được kí kết (có hiệu lực vào tháng 4 <br />
năm 1952). Cũng trong thời gian này, Nhật Bản đã kí với Mỹ “Hiệp ước an ninh Mỹ <br />
Nhật”. chấp nhận dưới “ô bảo vệ hạt nhân” của Mỹ. Theo hiệp ước, Nhật Bản cam <br />
kết cho Mỹ quyền duy trì các lực lượng hải, lục, không quân của Mỹ ở Nhật và một <br />
liên minh quân sự được hình thành nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc và <br />
vùng Viễn Đông. Với hiệp ước San Francisco, Nhật Bản đã kí kết với 48 nước <br />
không cộng sản [7, tr. 22], và được sự bảo trợ của Mỹ trong Hiệp ước an ninh Mỹ <br />
Nhật, đã biến Nhật Bản thành một căn cứ chống cộng ở châu Á và điều này phù hợp <br />
với chiến lược toàn cầu của Mỹ.<br />
Có thể thấy hiệp ước an ninh Mỹ Nhật là nền tảng cho chính sách đối ngoại của <br />
Nhật Bản sau chiến tranh bởi hiệp định là sự cam kết giữ gìn an ninh của Mỹ đối với <br />
Nhật Bản nhưng có một điều kiện đổi lại là sự phát triển của Nhật Bản bị “trói <br />
buộc vào phe tư bản chủ nghĩa” [8, tr. 59] mà Mỹ là người đứng đầu. Nhật Bản dựa <br />
vào Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung sức phát triển kinh tế. Vì vậy, Nhật Bản <br />
và Mỹ trở thành đồng minh quan trọng của nhau trong các mối quan hệ. Thỏa thuận <br />
an ninh song phương Mỹ Nhật được giới cầm quyền Nhật cho rằng đó là “hòn đá <br />
tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản”. Như vậy, về chính trị và quân sự, <br />
Nhật Bản hoàn toàn dựa vào Mỹ.<br />
Nhật Bản đã lợi dụng liên minh quân sựchính trị này để tránh những khoản chi phí <br />
quân sự khổng lồ, có điều kiện tập trung mọi khả năng cho sự phát triển kinh tế và <br />
bành trướng thế lực ra bên ngoài. Với việc bãi bỏ những ràng buộc của chính sách <br />
chiếm đóng của Mỹ thông qua Hiệp ước San Francisco và Hiệp ước an ninh Mỹ<br />
Nhật, Nhật Bản phục hồi nhanh chóng nền kinh tế đất nước. Đặc biệt , khi Mỹ tham <br />
chiến trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (6/1950), Mỹ thay đổi chính sách đối với <br />
Nhật Bản, thúc đẩy Nhật Bản nhanh chóng nhảy vào Đông Nam Á, hòng giảm bớt <br />
gánh nặng viện trợ mà Mỹ đang cáng đáng. Vì vậy, hai Hiệp ước này “được coi như <br />
là cơ sở chính trị đầu tiên của chính sách ngoại giao kinh tế của Nhật Bản” [5, tr. <br />
124].<br />
CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 108<br />
<br />
<br />
<br />
2. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN NHỮNG NĂM 5070 <br />
CỦA THẾ KỶ XX<br />
2.1. Chính sách ngoại giao kinh tế của Nhật Bản đối với Đông Nam Á<br />
* Chính sách Đông Nam Á của Nhật Bản<br />
Đối với Nhật Bản, Đông Nam Á là thị trường gần gũi, là cái kho khổng lồ về tài <br />
nguyên thiên nhiên cần thiết cho sự phát triển kinh tế Nhật Bản. “Đông Nam Á có <br />
thể cung cấp cho Nhật Bản: 100% cao su, 74% quặng sắt, 18,6% dầu thô, 85% vật <br />
liệu gỗ, 49% kim loại màu, 88,5% bôxít, 77,4% than mỏ”, là nơi có nhu cần lớn về <br />
trang bị kỹ thuật công nghiệp mà Nhật Bản có thể cung cấp. <br />
Quay trở lại Đông Nam Á, Nhật Bản muốn mở rộng phần nhập khẩu nguyên liệu và <br />
lương thực thực phẩm nhằm cải thiện cán cân thương mại thâm hụt quá lớn với Mỹ. <br />
Đường lối ngoại giao kinh tế được thực hiện để phục hồi nền kinh tế trong nước và <br />
được xem như là “một chính sách quốc gia”. Mục đích của chính sách này là đảm <br />
bảo lợi ích trong các hoạt động kinh tế của Nhật Bản ở Đông Nam Á. Chính sách <br />
“ngoại giao kinh tế” đã giúp cho các công ty độc quyền Nhật Bản xâm nhập vào các <br />
nước Đông Nam Á và khẳng định vị trí của họ ở khu vực này. Đây “được coi là thay <br />
đổi quan trọng trong quan hệ kinh tếxã hội của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam Á <br />
sau chiến tranh thế giới thứ hai” [5, tr.49].<br />
Vào tháng 12 năm 1952, Chính phủ Nhật Bản chính thức tuyên bố chính sách của họ <br />
đối với Đông Nam Á “một chính sách mạng đậm màu sắc kinh tế”. Thủ tướng <br />
Yoshida đã nhấn mạnh: “Nhằm thúc đẩy mậu dịch, chính phủ sẽ thực hiện chính <br />
sách ngoại giao kinh tế… tiến hành ký kết các hiệp ước thương mại, mở rộng và <br />
phát triển các cơ hội buôn bán, cũng cố các ngành công nghiệp xuất khẩu… Để làm <br />
được điều đó, chúng ta đặc biệt phát triển các mối liên kết kinh tế với các nước <br />
Đông Nam Á” [1, tr. 26] và “Tôi không thấy cần phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng <br />
của quan hệ chúng ta đối với Đông Nam Á, vì chúng ta không thể trông đợi nhiều ở <br />
mậu dịch Trung Quốc. Chính phủ mong muốn mở rộng mọi sự hợp tác có thể vì sự <br />
phồn vinh của các nước Đông Nam Á dưới hình thức vốn, kỹ thuật, dịch vụ hoặc các <br />
hình thức khác để nhờ đó thúc đẩy hơn nữa các quan hệ cùng có lợi và thịnh vượng <br />
chung” [3, tr. 6].<br />
Chính phủ Nhật Bản xác định một trong những trọng tâm của chính sách ngoại giao <br />
mới của Nhật Bản là bình thường hoá và thúc đẩy các quan hệ hữu nghị với các <br />
nước Đông Nam Á, cụ thế là liên kết kinh tế với các quốc gia ở khu vực này. “Quả <br />
là có lý khi nói chính sách ngoại giao kinh tế với Đông Nam Á chiếm 1/3 tầm quan <br />
trọng trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản bởi vì phương hướng đó là một <br />
trong ba phương hướng cơ bản của chính sách đối ngoại Nhật Bản thời kỳ này”.<br />
Để thực hiện và mở rộng chính sách ngoại giao kinh tế, tháng 12 năm 1966, Nhật <br />
Bản có ý định thành lập “Cộng đồng Châu ÁThái Bình Dương” không chỉ bao gồm <br />
109 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
<br />
<br />
<br />
Đông Nam Á mà cả Canada, Australia, New Zealand. Nhật Bản tuyên bố rằng “sẽ <br />
tạo lập một vùng ảnh hưởng kinh tế và chính trị” như “một vùng đất cấm của chủ <br />
nghĩa tư bản Nhật” [3, tr. 7], đó là Thái Bình Dương Đông Nam Á. <br />
Năm 1977, Nhật Bản cho ra đời học thuyết Fukuda, với nội dung chủ yếu:<br />
Nhật Bản một quốc gia tôn trọng hoà bình, không chấp nhận vai trò của một <br />
cường quốc quân sự và quyết tâm đóng góp vào hoà bình và thịnh vượng của <br />
Đông Nam Á và cộng đồng thế giới.<br />
Nhật Bản sẽ nỗ lực để củng cố mối quan hệ bè bạn và tin cậy trong nhiều lĩnh <br />
vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội với các nước trong khu vực.<br />
Nhật Bản sẽ là một bạn hàng bình đẳng, hợp tác tích cực với các nước ASEAN <br />
(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Áviết tắt là ASEAN, ra đời năm 1967) và <br />
các nước khác, tăng cường các mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau với các nước <br />
Đông Dương và sẽ góp phần vào việc xây dựng hoà bình và thịnh vượng trên <br />
toàn khu vực Đông Nam Á. <br />
Sự ra đời của học thuyết này đánh dấu bước chủ động của Nhật Bản trong việc coi <br />
trọng hàng đầu thị trường Đông Nam Á. Học thuyết này lần đầu tiên đánh dấu sự <br />
chuyển hướng rõ rệt của Nhật Bản trong quan hệ đối ngoại từ sau Chiến tranh thế <br />
giới thứ hai nhằm tăng cường vai trò chính trị của Nhật thông qua đòn bẩy kinh tế ở <br />
khu vực Đông Nam Á.<br />
2.2. Chính sách “ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản ở Đông Nam Á trong những <br />
năm 50 70 của thế kỷ XX<br />
Chính sách “ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản đối với Đông Nam Á do Chính phủ <br />
Yoshida đề xướng vào những năm 50, được thực hiện bằng các công cụ: bồi thường <br />
chiến phí, buôn bán mậu dịch, đầu tư và viện trợ.<br />
* Bồi thường chiến tranh<br />
Bước đi đầu tiên trong chính sách ngoại giao kinh tế của Nhật Bản là bồi thường <br />
chiến tranh và việc bồi thường được trả bằng hàng hoá và các loại dịch vụ khác. <br />
Việc bồi thường được Nhật Bản xúc tiến từ đầu những năm 50. Năm 1951, Nhật <br />
Bản thương lượng với Indonesia, năm 1952 thương lượng với Philipin nes. Nhưng <br />
phải đến năm 1954 trở đi, việc thương lượng bồi thường mới được kí kết giữa các <br />
bên. Nhật Bản bồi thường cho Myanmar 200 triệu đôla, được trả trong thời hạn 20 <br />
năm, được thực hiện thông qua các chương trình hàng hoá và dịch vụ. Philipin nes là <br />
nước thứ hai trong khu vực đạt được hiệp định bồi thường với Nhật Bản, và Nhật <br />
phải bồi thường 500 triệu đôla cộng với chương trình tín dụng dài hạn 20 năm. Đối <br />
với Indonesia, Nhật Bản phải bồi thường 230 triệu đôla và 400 triệu đôla tín dụng [1, <br />
tr. 38]. Việc thương lượng thành công với 3 nước Myanmar (12/1954), Philipinnes <br />
CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 110<br />
<br />
<br />
<br />
(4/1956) và Indonesia (11/1957) trong bồi thường chiến tranh chứng tỏ chính sách <br />
ngoại giao kinh tế của Nhật Bản do Thủ tướng Yoshida khởi xướng bước đầu được <br />
thực thi trong thực tế. Năm 1959, việc Nhật Bản kí hiệp định bồi thường chiến tranh <br />
cho miền Nam Việt Nam (Nhật Bản bồi thường cho miền Nam Việt Nam tổng số <br />
55,6 triệu đôla, được chi trả trong thời hạn 5 năm, bao gồm 39 triệu bồi thường <br />
chiến tranh, 7,5 triệu viện trợ kinh tế và 9,1 triệu tín dụng [1; tr.41]) cho thấy Nhật <br />
Bản đã hoàn thành căn bản giai đoạn bình thường hóa quan hệ với các nước Đông <br />
Nam Á. Rõ ràng, bồi thường chiến tranh được xem là một công cụ hữu hiệu của <br />
Nhật Bản trong những năm 50 để thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế.<br />
Đến năm 1965, về cơ bản Nhật Bản đã thanh toán xong những khoản bồi thường <br />
chiến tranh với các nước có liên quan ở Đông Nam Á.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
* Thương mại mậu dịch <br />
Đầu những năm 50, khi bắt đầu xác định chính sách đối với Đông Nam Á, tỷ lệ xuất <br />
khẩu của Nhật sang các nước Đông Nam Á đạt 41% trong tổng số xuất khẩu ra thế <br />
giới. Thời kỳ này, Đông Nam Á luôn bị thâm hụt trong cán cân thanh toán ngoại <br />
thương với Nhật Bản, cụ thể là năm 1951, các quốc gia Đông Nam Á thâm hụt <br />
thương mại 61,9 triệu đôla, năm 1954 thâm hụt 88,3 triệu đôla [5, tr. 46]. Nhìn chung , <br />
thời kỳ này (19501954), Đông Nam Á trở thành thị trường cho hàng xuất khẩu của <br />
Nhật.<br />
Sang những năm 60, chính sách “ngoại giao kinh tế” mang đậm tính thương mại. Ở <br />
khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản phát triển mạnh mục tiêu giữ sự phụ thuộc của các <br />
nước này trong quan hệ thương mại với Nhật ở lĩnh vực tài nguyên và năng lượng. <br />
Kết thúc năm 1969, Nhật Bản đã đạt được số dư là 850 triệu đôla trong việc buôn <br />
bán với 9 nước vùng Đông Nam Á. Máy móc, thiết bị, vật liệu là những mặt hàng <br />
xuất khẩu ngày càng tăng, 40% tổng số hàng xuất khẩu trong thập kỷ 60 là các mặt <br />
hàng chế biến công nghiệp. Cũng trong thập kỷ này, Nhật Bản thu lãi lớn: tổng giá <br />
trị xuất khẩu về hàng hóa là 926,7 triệu đôla năm 1960 đến năm 1969 tăng lên 6.164 <br />
triệu đôla.<br />
Cơ cấu mậu dịch giữa hai bên trong giai đoạn này có những đặc điểm nổi bật: hàng <br />
hóa nhập khẩu vào Nhật Bản là những mặt hàng từ tài nguyên của các nước đang <br />
phát triển ASEAN, đổi lại phần xuất khẩu từ Nhật nhằm vào các sản phẩm công <br />
nghiệp của các nước phát triển. 80% tổng số xuất khẩu từ Nhật vào các nước <br />
ASEAN là các mặt hàng công nghiệp nặng, máy móc thiết bị, kim loại, hóa chất, <br />
ngược lại các mặt hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN nhập vào Nhật là nhiên liệu <br />
khoáng sản, nguyên liệu, lương thực thực phẩm, kim loại, các mặt hàng chế biến… <br />
Năm 1975, xuất khẩu từ Nhật sang các nước ASEAN đạt tổng số là 5.980 triệu đôla <br />
111 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
<br />
<br />
<br />
và hàng nhập khẩu từ các nước này vào Nhật Bản đạt tổng số 6.860 triệu đôla. So <br />
với những năm 70 thì hoạt động này phát triển khá mạnh, tổng giá trị hàng nhập vào <br />
Nhật là 1.870 triệu đôla và đến năm 1975 là 6.860 triệu đôla, tổng giá trị hàng xuất <br />
khẩu từ Nhật là 1.810 triệu đôla năm 70 so với 5.980 triệu đôla năm 1975. Như vậy, <br />
trong những năm 7075 tổng giá trị nhập khẩu của Nhật nhiều hơn tổng giá trị xuất <br />
khẩu. Người Nhật giải thích rằng các nước ASEAN quan trọng đối với Nhật là ở <br />
“tư cách một nguồn hàng nhập khẩu hơn là tư cách một địa bàn tiêu thụ các hàng <br />
xuất khẩu” [5, tr. 109] của họ. Điều này là phù hợp với tình hình thực tế đầu những <br />
năm 70 với cuộc khủng hoảng dầu mỏ, các nước ASEAN là nguồn đáp ứng nhu cầu <br />
năng lượng của Nhật Bản.<br />
* Viện trợ ODA<br />
Kế hoạch Kisi ra đời năm 1957 đã đẩy mạnh việc phát triển kinh tế xuống khu vực <br />
Đông Nam Á, thành lập “Quỹ phát triển Đông Nam Á” nhằm cung cấp tài chính cho <br />
việc khai thác tài nguyên ở các nước Đông Nam Á. Năm 1958, Nhật Bản đã trích 5 tỷ <br />
yên đưa vào quỹ dưới danh nghĩa viện trợ các nước đang phát triển ở Đông Nam Á. <br />
Trong những năm 50 và 60, viện trợ của Nhật Bản không chỉ là tiền mà được thực <br />
hiện dưới các chương trình viện trợ thiết bị giúp đỡ kỹ thuật. Các hình thức này đã <br />
giúp Nhật Bản thâm nhập vào thị trường các nước Đông Nam Á.<br />
Viện trợ của Nhật Bản cho các nước Đông Nam Á bao gồm cho vay chính thức và <br />
viện trợ không hoàn lại. Từ năm 1960 đến năm 1976, tổng số viện trợ và chi viện <br />
cho việc hợp tác với các nước ASEAN của Nhật Bản đã đạt hơn 28 tỉ đôla, chiếm <br />
27,4% trong tổng số viện trợ phát triển chính thức ở nước ngoài (viết tắt là ODA) <br />
của Nhật Bản. Năm 1977, viện trợ cho các nước ASEAN chiếm 29,9% tổng viện trợ <br />
phát triển chính thức ở nước ngoài.<br />
ODA 1977 Viện trợ <br />
Tổng cộng <br />
chính thức <br />
Nước Phần viện trợ Cho vay chính Tổng cộng chung từ <br />
và tư nhân <br />
không hoàn lại thức 19601975<br />
khác<br />
Indonesia 2.420 12.415 14.835 20.017 444.018<br />
Malaisia 534 2.411 2.945 1.656 68.033<br />
Philipinnes 1.378 1.683 3.061 9.150 166.571<br />
Singapore 209 674 883 8.939 51.858<br />
Thái Lan 1.533 3.630 5.183 2.020 55.764<br />
ASEAN 6.075 20.833 26.907 41.782 786.244<br />
(25,7%) (31,4%) (29,9%) (11,5%) (27,4%)<br />
Tổng ODA 28.668 66.257 89.925 363.640 2.871.983<br />
cho các nước (100%) (100%) (100%) (100%) (100%)<br />
Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản. “Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản” [5, tr. 101]<br />
* Đầu tư kinh tế<br />
CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 112<br />
<br />
<br />
<br />
Những năm đầu trở lại thị trường Đông Nam Á, việc đầu tư tư bản của Nhật chưa <br />
đáng kể, từ 5 triệu đôla năm 1951 lên 9,5 triệu đôla năm 1954 nhưng đến cuối năm <br />
1956 vốn đầu tư của Nhật ở Đông Nam Á đã lên 18 triệu đôla. Tư bản tư nhân Nhật <br />
đầu tư vào các nước Đông Nam Á dưới các hình thức: mua chứng khoán hoặc cổ <br />
phẩn để thành lập những công ty hỗn hợp tại Đông Nam Á có sự tham gia của tư <br />
bản Nhật. Hoặc giúp đỡ kỹ thuật dưới hình thức đầu tư ngoại hối, gửi chuyên gia <br />
kỹ thuật Nhật Bản đến giúp đỡ, đào tạo sinh viên hay bán bằng phát minh sáng chế <br />
của Nhật. <br />
Một nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nhận xét: “Kiểu đầu tư của Nhật Bản được coi là <br />
một cách tiếp cận các khoáng sản và nông sản cần cho Nhật Bản với giá rẻ”.<br />
Đầu tư của Nhật Bản cho các nước Đông Nam Á đạt tới 1,3 tỉ đôla tính đến cuối <br />
năm 1964, đầu năm 1965. Vốn đầu tư của Nhật Bản được thực hiện thông qua các <br />
hình thức như: “Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế”, “Tổ chức sản xuất châu <br />
Á”. Việc đẩy mạnh chính sách ngoại giao kinh tế thông qua các chương trình như: <br />
“Hợp tác quốc tế và giúp đỡ kỹ thuật”, “Quỹ phát triển Đông Nam Á” cộng với cho <br />
vay vốn chính phủ Nhật đã nhanh chóng đầu tư tư bản Nhà nước vào các nước Đông <br />
Nam Á đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản tư nhân trong việc chuyển vốn <br />
vào các ngành khai thác tài nguyên ở khu vực này.<br />
Để thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế ở Đông Nam Á, Nhật Bản đã từng bước <br />
tham gia vào các tổ chức của khu vực như “Ngân hàng phát triển châu Á” được thành <br />
lập và khai trương vào tháng 12 năm 1966 tại Manila, trong đó đóng góp đầu tiên của <br />
Nhật Bản ngang bằng với Mỹ tức là 200 triệu đôla trên tổng số vốn 1.100 triệu đôla <br />
của ngân hàng, rồi “quỹ phát triển nông nghiệp Đông Nam Á” được thành lập năm <br />
1966, đầu tư của Nhật Bản chiếm 1/3 (tức 100 triệu đôla), mục đích của Nhật Bản <br />
là đảm bảo ổn định về lương thực và mở rộng xuất khẩu.<br />
Mặc dù gặp khó khăn trong tình hình kinh tế, chính trị do “cú sốc Ni xon” (1971) và <br />
“cơn khoáng dầu mỏ” (1973) nhưng Nhật Bản vẫn tăng cường quan hệ với các nước <br />
ASEAN, càng đẩy mạnh đầu tư hơn bởi vì một vài nước trong ASEAN sẽ là những <br />
nguồn đáp ứng nhu cầu năng lượng cần thiết cho Nhật Bản. Vào đầu những năm 70 <br />
các nước ASEAN bước đầu thực hiện “Chiến lược phát triển công nghiệp hướng về <br />
xuất khẩu” trong đó nhu cầu về thu hút vốn đầu tư của tư bản nước ngoài rất lớn, <br />
cộng thêm nhu cầu về đa dạng hóa quan hệ kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu. <br />
Do đó, Nhật Bản đã tận dụng được cơ hội khi các nước ASEAN thi hành chính sách <br />
rộng rãi, ưu đãi vốn đầu tư và nguồn viện trợ của tư bản tư nhân. Trong khoảng từ <br />
năm 1971 đến 1975, số vốn đầu tư của Nhật Bản cho việc khai thác nguồn tài <br />
nguyên ở nước ngoài tăng đều đặn. Năm 1970, số đầu tư đạt 1.092 triệu đôla, chiếm <br />
40,7% tổng vốn đầu tư tư nhân ở nước ngoài, đến năm 1975, con số này đã lên tới <br />
4.075 triệu đôla, chiếm 32%. Theo số liệu do Bộ ngoại giao Nhật Bản công bố, các <br />
113 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
<br />
<br />
<br />
nguồn đầu tư tư nhân của Nhật Bản vào các nước ASEAN từ năm 70 đến năm 76 <br />
như sau.<br />
Đầu tư của Nhật Bản ở ASEAN (nghìn đôla)<br />
Nước 1970 1972 1974 1976 Tổng cộng<br />
Indonesia 44.750 124.800 231.270 784.770 2.113.464<br />
Malaisia 12.690 21.050 68.720 45.160 303.092<br />
Philipinnes 28.770 12.920 71.640 56.290 323.445<br />
Singapore 59.120 55.570 312.966<br />
Thái Lan 13.790 25.060 40.550 7.710 190.499<br />
Nguồn: Bộ Ngoại giao Nhật Bản 1975 [5, tr. 103]<br />
Nguồn vốn đầu tư của Nhật tập trung vào các ngành khai thác mỏ quặng, nguồn khí <br />
đốt tự nhiên, các ngành khai thác hải sản và lâm sản nhiệt đới và các khu công <br />
nghiệp xuất khẩu. Với việc đầu tư này, Nhật Bản nhằm chiếm độc quyền thị <br />
trường nguồn hàng nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á.<br />
Ngoài ra, Nhật Bản còn hùn vốn vào các công ty hỗn hợp với tư bản các nước sở tại <br />
và đầu tư vào dự án cùng với các nước tư bản công nghiệp khác. Mục đích đầu tư <br />
của Nhật là đầu tư vào thế mạnh của từng nước Đông Nam Á để có thể nhập về <br />
Nhật đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước nhưng đồng thời từng nước trong khu vực <br />
lại là một thị trường tiêu thụ các mặt hàng thích hợp của Nhật.<br />
Như vậy, có thể thấy rằng, chính sách ngoại giao của Nhật Bản sau chiến tranh thế <br />
giới hai chỉ nhằm vào mục đích kinh tế trên hết mà chính sách “ngoại giao kinh tế” là <br />
một minh chứng cụ thể, nó chỉ thay đổi hình thức cho phù hợp với tình hình thực tiễn <br />
của Nhật Bản và các nước Đông Nam Á trong từng giai đoạn.<br />
CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 114<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
3. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN VỚI <br />
ĐÔNG NAM Á<br />
* Đối với Nhật Bản <br />
Chính sách ngoại giao kinh tế đã giúp Nhật Bản phục hồi nền kinh tế trong nước, <br />
đặc biệt trong những năm 60, 70, Nhật Bản đã vươn lên vị trí thứ hai trong thế giới <br />
tư bản, sau Mỹ. Năm 1950, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản mới đạt 24 tỉ <br />
đôla nhưng sang những năm 60, Nhật Bản đã vượt qua Canada, Anh, Pháp và Tây <br />
Đức. Năm 1973, tổng sản phẩm quốc dân Nhật Bản đạt khoảng 360 tỉ [6, tr. 177].<br />
Sự phát triển của nền kinh tế giúp Nhật giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ và tăng <br />
cường vai trò, vị trí trên thế giới cũng như ở khu vực Đông Nam Á. Nhật Bản tham <br />
gia các “Đại hội vì sự phát triển vùng Đông Nam Á”, “Hội đồng châu Á và Thái Bình <br />
Dương” (ASPAC) và tham gia vào việc thành lập “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam <br />
Á (1967)” (ASEAN). Hay nói cách khác, chính sách “ngoại giao kinh tế” giúp Nhật <br />
Bản độc lập hơn với Mỹ trong các quan hệ kinh tế.<br />
Chính sách ngoại giao kinh tế là một phương cách để Nhật Bản mở rộng thị trường, <br />
làm cho các nước Đông Nam Á quen dần với các loại hàng hóa của mình thông qua <br />
các hình thức viện trợ, đầu tư, mậu dịch hay bồi thường cả tiền lẫn hàng hóa Nhật <br />
Bản; là cơ sở để Nhật Bản vươn lên từ cường quốc kinh tế trở thành cường quốc <br />
chính trị ở khu vực và thế giới. <br />
Tác động quan trọng về chính trị là thông qua việc bồi thường chiến tranh đã cải <br />
thiện được hình ảnh của Nhật Bản trong con mắt của cộng đồng Đông Nam Á vốn <br />
đã từng bị Nhật Bản xâm lược và nô dịch trong chiến tranh. <br />
Một tác động quan trọng là giúp Nhật Bản trở về với cộng đồng thế giới và khu vực <br />
khi Nhật Bản đã vươn lên sau đống đổ nát của chiến tranh, trở thành nước có nền <br />
kinh tế lớn thứ hai sau Mỹ, có quan hệ buôn bán, viện trợ, đầu tư với các nước trong <br />
khu vực. Chính việc thực hiện khéo léo chính sách “ngoại giao kinh tế” mà Nhật Bản <br />
đã giữ được vị trí là “người cung cấp những mặt hàng nhập khẩu quan trọng của các <br />
nước ASEAN”. <br />
* Đối với các nước Đông Nam Á<br />
Chính sách “ngoại giao kinh tế” của Nhật Bản ngoài tác động tích cực cho Nhật Bản <br />
còn giúp các nước Đông Nam Á có bước phát triển mới trong nền kinh tế. Nhờ <br />
nguồn vốn từ việc bồi thường, viện trợ, đầu tư và mở rộng quan hệ buôn bán mà <br />
trong những năm 60, 70, các nước Đông Nam Á đã phát triển nền kinh tế của mình. <br />
Đây là điều không thể phủ nhận (ví dụ: Indonesia trong những năm 60, đạt mức phát <br />
triển bình thường. Sang thập niên 70, tốc độ phát triển kinh tế tăng nhanh, từ 2,5% <br />
những năm 60 lên 77,5%).<br />
115 HOÀNG THỊ MINH HOA – NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
<br />
<br />
<br />
Không những phát triển về kinh tế mà các nước ASEAN còn học tập được những <br />
tiến bộ khoa học kỹ thuật, những kinh nghiệm trong đầu tư 1 của Nhật Bản. Việc <br />
Nhật Bản đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN trong những năm 70 cộng với <br />
“chiến lược phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu” đã đem lại kết quả khả <br />
quan cho các nước ở khu vực này, đưa một số kỹ thuật mới vào nền sản xuất, bước <br />
đầu đi vào công nghiệp hóa, tạo một sức bật mới cho nền kinh tế.<br />
Để đối trọng với các nước bên ngoài trong hợp tác, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam <br />
Á thành lập năm 1967 chứng minh cho sự phát triển và đoàn kết các quốc gia trong <br />
khu vực.<br />
Bên cạnh những kết quả đạt được nhờ chính sách ngoại giao kinh tế thì Đông Nam <br />
Á vẫn bị thâm hụt trong cán cân thanh toán ngoại thương với Nhật Bản, bởi Đông <br />
Nam Á là thị trường tiêu thụ hàng hóa của Nhật… Đông Nam Á là nơi giải quyết <br />
những khó khăn trong nền kinh tế của Nhật Bản như “cú sốc Nixon”, “cơn choáng <br />
dầu mỏ”. Vì vậy, xét trên quan hệ kinh tế thì mối quan hệ này không cân xứng, bởi <br />
Nhật là người thu được nhiều lợi nhuận, người đóng vai trò chủ đạo còn các nước <br />
Đông Nam Á thì phải chịu thâm hụt. Nhưng nhìn một cách tổng thể thì các nước <br />
Đông Nam Á cũng thu được những thành quả không nhỏ đó là bước đầu thực hiện <br />
tốt “chiến lược phát triển công nghiệp hướng vào xuất khẩu”.<br />
4. KẾT LUẬN<br />
Chính sách “ngoại giao kinh tế” ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Nhật Bản bước <br />
vào giai đoạn phục hồi sau sự tàn phá của chiến tranh. Khu vực được hướng đến là <br />
Đông Nam Á, Nhật Bản nhằm vào một thị trường rộng lớn, nguyên liệu phong phú <br />
giá nhân công thấp. Với các hình thức: bồi thường chiến tranh, viện trợ, đầu tư, quan <br />
hệ mậu dịch Nhật Bản vừa có thể củng cố uy tín cũng như phát triển kinh tế ở khu <br />
vực đầy tiềm năng này.<br />
Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản trong những năm 60 và đầu những <br />
năm 70 chứng tỏ chính sách ngoại giao kinh tế là một sự điều chỉnh đúng đắn, mà vị <br />
trí thứ hai của Nhật Bản trong thế giới tư bản là một bằng chứng. Sự phát triển về <br />
kinh tế kéo theo địa vị chính trị của Nhật Bản cũng được nâng cao (Chính phủ Nhật <br />
Bản thăm các nước Đông Nam Á để mở rộng quan hệ trong những năm 60, 70).<br />
Chính sách ngoại giao kinh tế đã giúp các nước Đông Nam Á khôi phục đất nước, cải <br />
thiện nền kinh tế, góp phần thay đổi cơ cấu công nông nghiệp theo hướng hiện <br />
đại. Bên cạnh “cái được” là “cái mất”, đó là sự cạn kiệt dần nguồn nguyên nhiên <br />
liệu, sự thâm hụt trong cán cân thương mại. Nhật Bản thu được nguồn lợi lớn từ <br />
mối quan hệ này. Đây là giai đoạn tiền đề, mở đầu cho sự hợp tác lâu dài giữa Nhật <br />
Bản và Đông Nam Á trong những giai đoạn tiếp sau.<br />
1<br />
Nhật Bản đầu tư vào những vùng có nguồn nhân công rẻ; đầu tư vào các ngành khai thác mỏ quặng, <br />
nguồn khí đốt tự nhiên…; hay hùn vốn vào các công ty hỗn hợp với tư bản các nước sở tại…<br />
CHÍNH SÁCH “NGOẠI GIAO KINH TẾ” NHẬT BẢN VỚI ĐÔNG NAM Á… 116<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Ngô Xuân Bình (cb) (1999). Quan hệ Nhật Bản – ASEAN chính sách và tài trợ <br />
ODA. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.<br />
[2] Hoàng Thị Minh Hoa (1999). Cải cách dân chủ Nhật Bản trong những năm 1945<br />
1951. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
[3] Hoàng Thị Minh Hoa (1998). Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với các nước <br />
Đông Nam Á giai đoạn 1975 đến nay. Tóm tắt đề tài nghiên cứu khoa học cấp <br />
trường, Huế.<br />
[4] Hoàng Thị Minh Hoa (2003). Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai dưới góc <br />
độ đặc thù dân tộc. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3, trang 41<br />
49.<br />
[5] Dương Lan Hải (1992). Quan hệ của Nhật Bản với các nước ĐNÁ sau chiến tranh <br />
thế giới thứ 2 (19451975). Viện Châu Á và Thái Bình Dương, Hà Nội.<br />
[6] Phan Ngọc Liên (cb) (1997). Lịch sử Nhật Bản. NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.<br />
[7] Masaya Shiraishi (1994). Quan hệ Nhật Bản Việt Nam 19511987 . NXB Khoa học <br />
Xã hội, Hà Nội.<br />
[8] Trần Anh Phương (2005). Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau <br />
chiến tranh thế giới thứ 2. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1, <br />
trang 5968. <br />
<br />
<br />
<br />
Title: JAPAN’S ECONOMIC FOREIGN POLICY TO THE SOUTHEAST ASIA IN THE 50<br />
70s OF THE 20TH CENTURY AND ITS IMPACTS<br />
<br />
Abstract: After the Second World War, with the changed domestic and international factors, <br />
Japan brought out the “Economic Foreign Policy”. This article generalises the “economic <br />
diplomacy” of Japan after the Second World War; concretises this policy for the Southeast Asia <br />
in the 5070s of the twentieth century and its effects onto Japan and Southeast Asia.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
PGS. TS. HOÀNG THỊ MINH HOA<br />
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
<br />
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG<br />
Học viên Cao học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế<br />