intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật, vận dụng hương ước trong quản lý xã hội ở nông thôn: thực trạng và những vấn đề đặt ra - Phạm Hữu Nghị

Chia sẻ: Ninh Khuyết | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

64
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cùng với chính sách thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, Nhà nước đã đề ra chính sách vận dụng hương ước, tập quán trong quản lý xã hội nông thôn. Việc thực hiện chính sách vận dụng hương ước, tập quán có ý nghĩa như là công cụ bổ sung pháp luật trong quản lý xã hội ở nông thôn. Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật và vận dụng hương ước, tập quán trong quản lý xã hội ở nông thôn và những vấn đề đang đặt ra.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật, vận dụng hương ước trong quản lý xã hội ở nông thôn: thực trạng và những vấn đề đặt ra - Phạm Hữu Nghị

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ HƯƠNG ƯỚC<br /> Chính<br /> sách thực<br /> hiện, áp dụng pháp luật...<br /> TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI<br /> NÔNG<br /> THÔN<br /> <br /> Chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật,<br /> vận dụng hương ước trong quản lý xã hội ở nông thôn:<br /> thực trạng và những vấn đề đặt ra<br /> Phạm Hữu Nghị *<br /> Tóm tắt: Muốn quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật cần có một hệ<br /> thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, công khai, minh bạch. Hệ thống pháp luật đó phải<br /> được đưa vào cuộc sống, phải được thực hiện, áp dụng thì mới tạo ra trật tự, ổn định<br /> trong xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự phát triển bền<br /> vững của quốc gia. Cùng với chính sách thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, Nhà<br /> nước đã đề ra chính sách vận dụng hương ước, tập quán trong quản lý xã hội nông<br /> thôn. Việc thực hiện chính sách vận dụng hương ước, tập quán có ý nghĩa như là công<br /> cụ bổ sung pháp luật trong quản lý xã hội ở nông thôn. Bài viết phân tích, đánh giá<br /> thực trạng chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật và vận dụng hương ước, tập quán<br /> trong quản lý xã hội ở nông thôn và những vấn đề đang đặt ra.<br /> Từ khóa: Chính sách; pháp luật; hương ước; quản lý xã hội; nông thôn.<br /> <br /> 1. Thực trạng chính sách thực hiện, áp<br /> dụng pháp luật ở nông thôn Việt Nam<br /> hiện nay<br /> Muốn quản lý xã hội bằng pháp luật và<br /> theo pháp luật cần có một hệ thống pháp<br /> luật đầy đủ, đồng bộ, công khai, minh bạch.<br /> Trước đây, trong thời kỳ chiến tranh và cơ<br /> chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, hoạt<br /> động lập pháp của Quốc hội Việt Nam còn<br /> ở phạm vi rất hạn chế. Quốc hội các khóa<br /> chủ yếu tập trung vào việc thông qua các<br /> đạo luật về tổ chức: Luật Tổ chức Quốc hội,<br /> Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa<br /> án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát<br /> nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân<br /> và Ủy ban nhân dân.<br /> Ngày nay, Việt Nam đã có một hệ thống<br /> văn bản pháp luật khá đồ sộ. Nước ta đã<br /> ban hành các đạo luật điều chỉnh tất cả các<br /> lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh,<br /> quốc phòng, hành chính, hình sự, dân sự…<br /> <br /> Tính trung bình mỗi một kỳ họp trong thời<br /> gian gần đây của Quốc hội thảo luận và<br /> thông qua từ 12 đến 15 đạo luật, bộ luật.<br /> Đây là những con số vô cùng ấn tượng.<br /> Pháp luật cần phải được tôn trọng và<br /> thực hiện trong cuộc sống thì mục đích của<br /> việc ban hành pháp luật mới đạt được. Ở<br /> nước ta pháp luật được thực hiện thông qua<br /> các hình thức chủ yếu là tuân thủ pháp luật,<br /> sử dụng pháp luật, chấp hành pháp luật<br /> (thực thi pháp luật) và áp dụng pháp luật,<br /> trong đó:(*)<br /> - Tuân thủ pháp luật là hình thức thực<br /> hiện pháp luật mà chủ thể quan hệ pháp luật<br /> Phó giáo sư, tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội.<br /> ĐT: 0982323511. Email: phnghi53@yahoo.com.vn.<br /> Bài viết trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu, đề xuất<br /> giải pháp áp dụng luật pháp và hương ước làng<br /> trong quản lý xã hội nông thôn mới” do Chương<br /> trình Khoa học và Công nghệ phục vụ xây dựng<br /> nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015 tài trợ.<br /> (*)<br /> <br /> 79<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(91) - 2015<br /> <br /> kiềm chế, giữ mình không làm những gì mà<br /> pháp luật cấm.<br /> - Sử dụng pháp luật là hình thức mà chủ<br /> thể thực hiện pháp luật thực hiện quyền<br /> được pháp luật quy định. Đương nhiên, các<br /> quyền là cách xử sự mà pháp luật cho phép,<br /> pháp luật thừa nhận. Bởi vậy, chủ thể có thể<br /> thực hiện hoặc không thực hiện các quyền,<br /> tự do đó tùy theo ý chí của mình, chứ pháp<br /> luật không bắt buộc chủ thể phải thực hiện.<br /> - Chấp hành pháp luật (thực thi pháp<br /> luật) là hình thức thực hiện pháp luật mà<br /> chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo quy<br /> định của pháp luật.<br /> - Áp dụng pháp luật là hình thức mà chủ<br /> thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,<br /> các cá nhân được Nhà nước trao quyền áp<br /> dụng các quy phạm pháp luật vào trường<br /> hợp cụ thể đối với cá nhân, tổ chức để giải<br /> quyết quyền, nghĩa vụ cho họ hoặc xác định<br /> trách nhiệm pháp lý đối với họ(1).<br /> Việt Nam đã đề ra chính sách thực hiện<br /> pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật<br /> ở nông thôn nói riêng. Hiến pháp Việt Nam<br /> và hàng loạt các văn bản pháp luật, trong đó<br /> có Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật ngày<br /> 26 tháng 12 năm 2012 và Nghị định số<br /> 59/2012/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2012<br /> của Chính phủ về theo dõi tình hình thi<br /> hành pháp luật .<br /> Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm<br /> 2012 này quy định quyền được thông tin về<br /> pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập<br /> pháp luật của công dân; nội dung, hình thức<br /> phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm<br /> của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm<br /> quyền và các điều kiện bảo đảm cho công<br /> tác phổ biến, giáo dục pháp luật.<br /> Công dân có quyền được thông tin về<br /> pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm<br /> hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước bảo đảm,<br /> tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền<br /> được thông tin về pháp luật.<br /> 80<br /> <br /> Đối với người dân ở vùng dân tộc thiểu<br /> số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới,<br /> ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế<br /> - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân, việc<br /> phổ biến, giáo dục pháp luật căn cứ vào đặc<br /> điểm của từng đối tượng mà tập trung vào<br /> các quy định pháp luật về dân tộc, tôn giáo,<br /> trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an<br /> ninh, quốc phòng, biên giới, chủ quyền<br /> quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, khoáng sản<br /> và các lĩnh vực pháp luật khác gắn liền với<br /> đời sống, sản xuất của người dân.<br /> Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật<br /> cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số,<br /> miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven<br /> biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã<br /> hội đặc biệt khó khăn và ngư dân được chú<br /> trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở,<br /> trợ giúp pháp lý lưu động; tư vấn pháp luật,<br /> cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp<br /> luật bằng tiếng dân tộc cho đồng bào dân<br /> tộc thiểu số; lồng ghép phổ biến, giáo dục<br /> pháp luật trong các hoạt động văn hóa<br /> truyền thống.(1)<br /> Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức phổ<br /> biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở<br /> vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,<br /> vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội<br /> đặc biệt khó khăn và ngư dân; chủ trì phối<br /> hợp với bộ đội biên phòng, công an, hải<br /> quan, kiểm lâm, cảnh sát biển tổ chức phổ<br /> biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở<br /> khu vực biên giới, ven biển và hải đảo.<br /> Để bảo đảm việc thi hành pháp luật cần<br /> có nguồn nhân lực làm công tác tuyên<br /> truyền, phổ biến pháp luật cho người dân<br /> nông thôn. Các địa phương tiến hành rà<br /> soát, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho đội<br /> ngũ cán bộ thực hiện công tác tuyên truyền,<br /> Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2005),<br /> Giáo trình Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Hà<br /> Nội, tr.78 - 79.<br /> (1)<br /> <br /> Chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật...<br /> <br /> phổ biến pháp luật (TTPBPL) cho người<br /> dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số;<br /> mở các lớp tập huấn đào tạo, bồi dưỡng<br /> nghiệp vụ phổ biến pháp luật, cung cấp tài<br /> liệu và các kiến thức pháp luật có liên quan<br /> cho đội ngũ cán bộ tại trung ương và các<br /> sở, ban, ngành của các địa phương làm<br /> công tác TTPBPL cho người dân nông thôn<br /> và đồng bào dân tộc thiểu số. Trên cơ sở<br /> đó, các địa phương đã tập huấn đào tạo, bồi<br /> dưỡng nghiệp vụ phổ biến pháp luật cho đội<br /> ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên tại cơ<br /> sở. Bên cạnh đó, thông qua lồng ghép các<br /> hội nghị, hội thảo, các lớp tập huấn nghiệp<br /> vụ mà tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức<br /> pháp luật chuyên ngành và kỹ năng tuyên<br /> truyền, phổ biến pháp luật cho đội ngũ cán<br /> bộ làm công tác TTPBPL cho người dân<br /> nông thôn.<br /> Khảo sát xác định nhu cầu về nội dung<br /> và hình thức thực hiện tuyên truyền, phổ<br /> biến pháp luật cho người dân nông thôn.<br /> Đối tượng khảo sát gồm: cán bộ làm công<br /> tác TTPBPL cấp tỉnh, huyện; cán bộ làm<br /> công tác TTPBPL cấp xã; người dân nông<br /> thôn. Cán bộ xã, Chi bộ thôn bản; đồng bào<br /> dân tộc thiểu số. Cán bộ Hội Nông dân tỉnh,<br /> huyện; cán bộ Hội Nông dân cơ sở, Ban<br /> Chủ nhiệm câu lạc bộ, tuyên truyền viên cơ<br /> sở; cán bộ Trung tâm tư vấn pháp luật của<br /> Hội Nông dân; hội viên, nông dân. Cán bộ<br /> các cấp Hội Phụ nữ, cán bộ của một số sở,<br /> ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh trực tiếp làm<br /> công tác TTPBPL; hội viên, phụ nữ là nông<br /> dân, đồng bào dân tộc thiểu số.<br /> Qua đó, đã xác định được thực trạng và<br /> nhu cầu tìm hiểu các nội dung pháp luật,<br /> các hình thức thích hợp để phổ biến các nội<br /> dung pháp luật theo nhu cầu của người dân<br /> nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số;<br /> thực trạng và nhu cầu đào tạo của cán bộ<br /> làm công tác TTPBPL cho đối tượng trên;<br /> các địa điểm có đủ điều kiện xây dựng mô<br /> <br /> hình thí điểm để phổ biến pháp luật về nông<br /> nghiệp phát triển nông thôn (NNPTNT).<br /> Xây dựng mô hình thí điểm thực hiện<br /> TTPBPL cho người dân nông thôn<br /> Nội dung hoạt động của mô hình gồm:<br /> TTPBPL cho người dân nông thôn tại mô<br /> hình; đào tạo, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ<br /> TTPBPL cho đội ngũ cán bộ của mô hình;<br /> cung cấp tài liệu pháp luật; hỗ trợ trang<br /> thiết bị phục vụ cho hoạt động TTPBPL tại<br /> mô hình; đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm<br /> và triển khai nhân rộng mô hình.<br /> Ủy ban Dân tộc xây dựng mô hình<br /> TTPBPL tại các xã miền núi thông qua việc<br /> mở câu lạc bộ pháp luật với việc cung cấp<br /> đầu sách văn bản pháp luật, tổ sinh hoạt,<br /> tuyên truyền phổ biến pháp luật tập trung<br /> theo chuyên đề và được thực hiện thường<br /> xuyên hàng tháng; bồi dưỡng kiến thức,<br /> cung cấp kịp thời các quy định mới của<br /> pháp luật cho cán bộ tuyên truyền viên, hòa<br /> giải viên ở cơ sở để tuyên truyền cho nhân<br /> dân và phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở.<br /> Người dân có nhu cầu tìm hiểu pháp luật<br /> đều có quyền tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ<br /> và tiếp cận các văn bản pháp luật một cách<br /> nhanh chóng, thuận lợi.<br /> Trung ương Hội Nông dân Việt Nam<br /> (TƯHNDVN) xây dựng các mô hình điểm<br /> “Vận động nông dân chấp hành pháp luật<br /> về bảo vệ nguồn lợi thủy sản”, xây dựng<br /> mô hình điểm “Vận động nông dân chấp<br /> hành pháp luật về sản xuất các sản phẩm<br /> nông nghiệp sạch”... Tại các mô hình này,<br /> người dân được cung cấp các thông tin<br /> pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau<br /> như tổ chức các buổi TTPBPL, phối hợp tổ<br /> chức tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, các<br /> lớp tập huấn, hội nghị đầu bờ, tuyên truyền<br /> trên hệ thống loa truyền thanh, tuyên truyền<br /> bằng pa nô, áp phích, tờ rơi, tờ gấp pháp<br /> luật, các cuốn sổ tay hỏi - đáp, xây dựng và<br /> duy trì hoạt động của các Câu lạc bộ pháp<br /> 81<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(91) - 2015<br /> <br /> luật, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật. Nội<br /> dung tuyên truyền, phổ biến được tập trung<br /> vào các quy định của pháp luật về tiêu<br /> chuẩn, quy chuẩn an toàn thực phẩm; các<br /> quy định về khai thác, đánh bắt, nuôi trồng<br /> thuỷ, hải sản đồng thời bảo vệ nguồn lợi về<br /> thủy sản, về môi trường; những kiến thức<br /> khoa học kỹ thuật trong sản xuất và chế<br /> biến nông sản. Từ các hoạt động tuyên<br /> truyền, phổ biến góp phần nâng cao nhận<br /> thức, ý thức chấp hành pháp luật của nông<br /> dân, ngư dân qua đó các hộ đã hưởng ứng,<br /> đồng thuận ký cam kết “sản xuất sản phẩm<br /> nông nghiệp sạch” và cam kết “bảo vệ<br /> nguồn lợi thủy, hải sản trong khai thác,<br /> đánh bắt, nuôi trồng”. Đây cũng là cách<br /> thức để người dân tự giác tham gia và thấy<br /> được ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân,<br /> mỗi hộ gia đình trong thực thi các quy định<br /> pháp luật về sản xuất lương thực, thực<br /> phẩm hay khai thác, đánh bắt thủy, hải sản<br /> qua đó thúc đẩy phát triển sản xuất theo<br /> hướng bền vững, đời sống của nông dân,<br /> ngư dân ngày càng được cải thiện.<br /> TƯHLHPNVN xây dựng mô hình Câu<br /> lạc bộ “Phụ nữ nông thôn với pháp luật”,<br /> “Phụ nữ dân tộc với pháp luật” để phổ biến<br /> pháp luật cho người dân nông thôn và đồng<br /> bào dân tộc. Các hoạt động chủ yếu là tổ<br /> chức tập huấn cho ban chủ nhiệm Câu lạc<br /> bộ, phổ biến pháp luật cho thành viên Câu<br /> lạc bộ và người dân địa phương, hỗ trợ các<br /> trang bị thiết bị phục vụ hoạt động phổ biến<br /> pháp luật của Câu lạc bộ. Mô hình này có<br /> hiệu quả tốt, có sức lan tỏa trong đời sống<br /> của cộng đồng dân cư vì câu lạc bộ là nơi<br /> quy tụ, tập hợp đông đảo thành viên tham<br /> gia nhằm giao lưu, học hỏi, tạo diễn đàn,<br /> trao đổi, phổ biến kiến thức pháp luật và vận<br /> dụng pháp luật, tư vấn pháp luật và trợ giúp<br /> pháp lý cho phụ nữ, góp phần tuyên truyền<br /> vận động hội viên, phụ nữ và người thân<br /> không phá rừng làm nương rẫy, không tham<br /> 82<br /> <br /> gia truyền đạo trái phép, không nghe theo lời<br /> xúi giục của kẻ xấu, hạn chế tham gia khiếu<br /> kiện đông người...<br /> Tổ chức phổ biến pháp luật thông qua<br /> các hình thức phù hợp:<br /> - Thông qua hội nghị, cuộc họp, tập<br /> huấn, giới thiệu văn bản.<br /> - Biên soạn và phát hành tài liệu pháp luật.<br /> - Tuyên truyền, phổ biến trên báo chí,<br /> trên phương tiện thông tin đại chúng.<br /> Bên cạnh các hình thức trên, nhiều hình<br /> thức khác TTPBPL đã được sử dụng đối<br /> với người dân nông thôn và đồng bào dân<br /> tộc thiểu số như: tư vấn pháp luật, trợ giúp<br /> pháp lý, tư vấn, trợ giúp lưu động cho<br /> người dân nông thôn và đồng bào dân tộc<br /> thiểu số, thi tìm hiểu pháp luật qua mạng.<br /> 2. Thực trạng chính sách vận dụng<br /> hương ước, tập quán trong quản lý xã<br /> hội ở nông thôn<br /> Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,<br /> nhất là sau năm 1954, cơ cấu tổ chức làng<br /> xã phong kiến bị bãi bỏ, hương ước không<br /> còn cơ sở để tồn tại trong các làng đang<br /> được cải tạo theo mô hình chính quyền địa<br /> phương kiểu mới trong đó cấp cơ sở là xã<br /> bao gồm nhiều làng chứ không phổ biến<br /> một làng như trước. Từ cuối những năm 80<br /> đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi nông<br /> thôn Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới<br /> với việc giao khoán ruộng đất cho các hộ<br /> gia đình sử dụng ổn định và lâu dài theo<br /> Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, thì việc<br /> quản lý kinh tế - xã hội ở các thôn làng<br /> cũng bắt đầu chuyển đổi. Hộ gia đình không<br /> còn phụ thuộc nhiều vào hợp tác xã nông<br /> nghiệp như trước mà được trở lại là đơn vị<br /> kinh tế tự chủ, trở thành tác nhân quan<br /> trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở<br /> nông thôn. Cùng với sự thay đổi vị trí của<br /> hộ gia đình, vị trí và vai trò quản lý kinh tế<br /> xã hội của làng thôn cũ - với tính cách là<br /> cộng đồng dân cư gắn kết truyền thống có<br /> <br /> Chính sách thực hiện, áp dụng pháp luật...<br /> <br /> thiết chế tổ chức riêng, phong tục tập quán,<br /> tín ngưỡng, tâm lý, tính cách riêng của xã<br /> hội - đã dần dần được khẳng định trở lại.<br /> Các mặt tích cực trong hoạt động thôn làng<br /> như các thiết chế dân chủ hóa và văn hóa<br /> truyền thống, tín ngưỡng được đẩy mạnh,<br /> nhưng đồng thời các yếu tố tiêu cực như<br /> tranh chấp đất đai, thói gia trưởng dòng họ,<br /> các loại tệ nạn... cũng được dịp trỗi dậy.<br /> Trong bối cảnh đó, hương ước - một hình<br /> thức bổ sung cho pháp luật, đáp ứng nhu<br /> cầu và cách thức quản lý mới ở thôn, bản đến lúc này bắt đầu có điều kiện phục hồi<br /> trở lại và phát huy tác dụng.<br /> Từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX<br /> trở đi, thấy rõ ý nghĩa tích cực của hương<br /> ước mới trong việc quản lý xã hội và thực<br /> hiện dân chủ ở nông thôn, Đảng và Nhà<br /> nước đã dành một sự quan tâm, đầu tư thích<br /> đáng. Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp<br /> hành Trung ương Đảng khóa VII tháng 6<br /> năm 1993, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhấn<br /> mạnh: “Nhà nước cần sớm nghiên cứu đề ra<br /> quy chế thích hợp với chức năng, vai trò<br /> của xã, thôn, xóm, làng bản trong tình hình<br /> mới. Trong khuôn khổ của pháp luật và dựa<br /> vào những quy định này có thể xây dựng<br /> hương ước làm cơ sở để tổ chức quản lý<br /> hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh quốc<br /> phòng...”. Văn kiện Hội nghị này đã ghi:<br /> “Khuyến khích xây dựng và thực hiện các<br /> hương ước, quy chế về nếp sống văn minh<br /> ở các thôn xã”(2). Ngày 18 tháng 2 năm<br /> 1998 Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CTTW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân<br /> chủ ở cơ sở, tăng cường công tác quản lý<br /> Nhà nước đối với việc xây dựng và thực<br /> hiện hương ước, quy ước. Tiếp sau đó,<br /> dưới góc độ toàn quốc, Nhà nước đã ban<br /> hành một loạt văn bản chỉ đạo, hướng dẫn<br /> việc ban hành và thực hiện hương ước, quy<br /> ước như: Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 11<br /> tháng 5 năm 1998 của Chính phủ ban<br /> <br /> hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Chỉ<br /> thị số 24/CT-TTg ngày 19 tháng 6 năm<br /> 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc<br /> xây dựng và thực hiện hương ước, quy<br /> ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư,<br /> Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTPBVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31 tháng<br /> 3 năm 2000 của Liên bộ Tư pháp, Văn hóa<br /> - Thông tin, Ban thường trực Ủy ban trung<br /> ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng<br /> dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước,<br /> quy ước của làng, bản, thôn, cụm dân cư.<br /> Với nền tảng pháp luật này, hương ước mới<br /> đã được chính thức hóa và được triển khai<br /> mạnh mẽ trên toàn quốc.<br /> - Về tên gọi: thống nhất gọi chung là<br /> Hương ước hoặc Quy ước (làng, thôn, ấp,<br /> bản, cụm dân cư).<br /> - Về cơ cấu: có Lời nói đầu ghi nhận<br /> truyền thống văn hóa của địa phương, nêu<br /> mục đích của việc xây dựng hương ước. Tiếp<br /> đến là các chương, mục, điều, khoản, điểm.<br /> - Về nội dung, hương ước là văn bản quy<br /> phạm xã hội trong đó quy định các quy tắc<br /> xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa<br /> thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã<br /> hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm<br /> giữ gìn và phát huy những phong tục, tập<br /> quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa trên<br /> địa bàn làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, góp<br /> phần hỗ trợ tích cực cho việc quản lý nhà<br /> nước bằng pháp luật.(2)<br /> Cho đến nay ở phạm vi chung toàn quốc,<br /> pháp luật điều chỉnh việc ban hành và thực<br /> hiện hương ước, quy ước đã khá đầy đủ và<br /> chi tiết. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc<br /> trung ương cũng quan tâm chỉ đạo, ra<br /> những văn bản hướng dẫn chi tiết hơn vấn<br /> đề này phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của<br /> Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội<br /> nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII,<br /> Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.73.<br /> (2)<br /> <br /> 83<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2