intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuỗi cung ứng nông sản: Bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

204
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, tên tiếng Anh: “Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement”, viết tắt: TTP, là một hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ thứ 2. Trong khuôn khổ bài báo này, tác giá phân tích lợi điểm và đưa ra một số mô hình ứng dụng cho nông nghiệp Việt Nam khi tham gia TPP.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuỗi cung ứng nông sản: Bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> CHUỖI CUNG ỨNG NÔNG SẢN: BƯỚC ĐI CẦN THIẾT ĐỂ<br /> VIỆT NAM THAM GIA TPP<br /> Từ Minh Thiện*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> <br /> Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, tên tiếng Anh: “Trans-Pacific<br /> Strategic Economic Partnership Agreement”, viết tắt: TTP, là một hiệp định thương mại tự do nhiều<br /> bên, được coi như một hiệp định thương mại tự do thế hệ thứ 2 với mục tiêu thiết lập một mặt bằng<br /> tự do chung cho các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với sự tham gia của các nền kinh tế<br /> lớn trên thế giới (như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia...), TPP trở thành khu vực kinh tế hơn  790 triệu <br /> dân,  đóng góp 40%  GDP và chiếm 1/3  thương mại toàn cầu.<br /> Chuỗi cung ứng nông sản, bước đi cần thiết để Việt Nam tham gia TPP. Trong khuôn khổ<br /> bài báo này, tác giá phân tích lợi điểm và đưa ra một số mô hình ứng dụng cho nông nghiệp Việt<br /> Nam khi tham gia TPP.<br /> Từ khóa: TPP, chuỗi cung ứng nông sản, lợi điểm, mô hình ứng dụng<br /> <br /> AGRICULTURAL SUPPLY CHAIN: THE NECESSARY STEPS  FOR<br /> VIETNAM TO JOIN TPP<br /> ABSTRACT<br /> Trans-Pacific Partnership, the English name “Trans-Pacific Strategic Economic<br /> Partnership Agreement”, abbreviated: TTP, is a free trade agreement more parties, regarded as<br /> a trade agreement free trade 2nd generation with an aim to establish common ground for liberal<br /> countries in Asia - Pacific. With the participation of the largest economies in the world (such as the<br /> US, Japan, Australia ...), TPP become more economical region 790 million, contributing 40% of<br /> GDP and accounts for 1/3 of injuries global trade.<br /> Agricultural supply chain, a necessary step for Vietnam to join the TPP. In the framework of<br /> this paper, the authors analyze the advantages and give some models for agricultural applications<br /> Vietnam joining the TPP.<br /> Keywords: TPP, Agricultural supply chain, advantages, application model.<br /> * ThS. Ban quản lý Khu Nông Nghiệp Công Nghệ Cao TPHCM (AHTP). ĐT: 0913 914400. Email: thientuminh@yahoo.com<br /> <br /> 80<br /> <br /> Chuỗi cung ứng . . .<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Lần đầu tiên, TPP có 4 nước: Singapore,<br /> Chile, Newzealand, Brunei ký Hiệp định<br /> này vào ngày 3/6/2005 và có hiệu lực ngày<br /> 28/5/2006.<br /> Tháng  9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý định muốn<br /> tham gia  đàm phán TPP,  sau đó tháng 11/2008<br /> các  nước Australia, Peru cũng  tuyên bố tham<br /> gia, tiếp đến là Canada tham gia vào tháng<br /> 10/2012 và mới đây nhất, Nhật Bản tham gia<br /> đàm phán vào tháng 3/2013.<br /> Việt Nam đã tuyên bố tham gia TPP với tư<br /> cách là thành viên đầy đủ từ ngày 13/11/2010.<br /> Như vậy, đến thời điểm này, TPP gồm<br /> 12 nước thành viên: Australia, Brunei,<br /> Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,<br /> Newzealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và<br /> Việt Nam.<br /> Phạm vi điều chỉnh của TPP rất rộng, một<br /> thoả thuận toàn diện bao quát tất cả các khía<br /> cạnh chính của một hiệp định thương mại tự<br /> do bao gồm trao đổi hàng hoá, các quy định<br /> về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, trao đổi dịch<br /> vụ, vấn đề sở hữu trí tuệ, các chính sách của<br /> chính quyền về vấn đề môi trường, lao động,<br /> chống tham nhũng... TPP nhắm đến việc cắt<br /> giảm thuế quan tại các nước và đặt tiêu chuẩn<br /> chung cho các vấn đề khác. Hiện nay, thỏa<br /> thuận thuế quan đối với các hàng hóa nhạy<br /> cảm là thách thức lớn nhất cho việc đạt được<br /> thỏa thuận chung giữa 12 nước tham gia đàm<br /> phán TPP. Nếu như Hiệp định WTO  mang<br /> tính đàm phán một chiều, Việt Nam phải mở<br /> cửa thị trường cho các nước thành viên WTO <br /> và  không  có quyền  đòi hỏi họ mở cửa cho<br /> mình  thì  Hiệp định TPP là  một hiệp định<br /> “có đi có lại”, các nước muốn Việt Nam mở<br /> thị trường cho họ và họ cũng mở  thị trường<br /> cho Việt Nam.<br /> Tác động của TPP đến những nước có<br /> <br /> mức phát triển thấp hơn sẽ có cơ hội phát triển<br /> mạnh mẽ hơn. Trong nhiều nghiên cứu định<br /> lượng của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam<br /> là một trong những nước hưởng lợi lớn từ TPP<br /> (phần lớn các nước có lợi khoảng 1-2 điểm %<br /> từ TPP, riêng Việt Nam khoảng 5%). Bên cạnh<br /> đó, trong số 11 đối tác đang đàm phán với Việt<br /> Nam, hiện có 7 đối tác có quan hệ thương mại<br /> tự do với  nước ta; 4 đối tác còn lại (Hoa Kỳ,<br /> Canada, Mexico, Peru), chưa thiết lập quan hệ<br /> thương mại tự do nên cơ hội chủ yếu  của Việt<br /> Nam sẽ mở  rộng ở 4 thị trường này. Việt Nam<br /> sẽ là một trong những nước có nhiều lợi ích<br /> khi gia nhập TPP vì mục tiêu chính của TPP<br /> là giảm thuế và những rào cản hàng hoá cho<br /> dịch vụ. Khi các dòng thuế giảm xuống, Việt<br /> Nam có thể gia tăng xuất khẩu quần áo, giày<br /> dép  và nhiều mặt hàng khác vốn là thế mạnh<br /> của mình vào các thị trường lớn, đặc biệt là thị<br /> trường Hoa Kỳ mà không phải cạnh tranh với<br /> sản phẩm của một số nước khác. TPP sẽ tạo ra<br /> một cơ hội rất lớn cho các quốc gia thành viên<br /> hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu<br /> vực cũng như thế giới và tăng cường năng lực<br /> cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước;<br /> gia tăng hàng hóa xuất khẩu cũng như gia<br /> tăng GDP của quốc gia.<br /> Dưới con mắt các chuyên gia kinh tế kỳ<br /> cựu tham gia các cuộc đàm phán, hoặc quan<br /> sát các hiệp định, TPP mang lại những kỳ<br /> vọng lớn cho nền kinh tế nước nhà, bởi có<br /> phạm vi rộng hơn nhiều so với WTO. Theo<br /> nghiên cứu của VCCI (Phòng Thương mại và<br /> Công nghiệp VN), VN có thể có thêm 64 tỷ<br /> USD, có tốc độ tăng trưởng 13% nhờ quy mô<br /> xuất khẩu sẽ tăng 37% trong TPP. TPP có thể<br /> giúp VN đảo ngược tình thế nhập siêu quá lớn<br /> từ Trung Quốc. Đặc biệt, liên quan đến thể<br /> chế, TPP tạo áp lực cho khu vực DNNN, vốn<br /> bị coi là trì trệ, nhiều yếu kém phải thay đổi và<br /> 81<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> chính thức được thông qua, cần có sự đồng bộ<br /> trong đề xuất và thực hiện các giải pháp cũng<br /> như sự quyết tâm và cộng lực của cả bộ máy<br /> quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp<br /> trong nước. Trong đó, tôi đặc biệt quan tâm<br /> giải pháp phát triển chuỗi cung ứng nông<br /> sản, một trong những điểm yếu của chúng ta<br /> khi hội nhập kinh tế thế giới và cũng là điểm<br /> mấu chốt quan trọng để nâng cao khả năng<br /> hội nhập kinh tế thế giới và nâng cao năng<br /> lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp<br /> Việt Nam, Chuỗi là một loạt các hoạt động<br /> kinh doanh (hay chức năng) có quan hệ với<br /> nhau, từ việc cung cấp các đầu vào cụ thể cho<br /> một sản phẩm nào đó, đến sơ chế, chuyển đổi,<br /> marketing đến bán sản phẩm đó cho người<br /> tiêu dùng. Chuỗi là yếu tố làm phẳng thế giới<br /> (Thomas Friedman trong “thế giới phẳng”).<br /> Xây dựng các chuỗi cung ứng nội địa và tham<br /> gia vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn<br /> cầu là giải pháp hữu hiệu để tái cấu trúc nền<br /> kinh tế nước ta thành công. Tham gia chuỗi<br /> là hàng loạt các doanh nghiệp (nhà vận hành)<br /> thực hiện các chức năng, nghĩa là nhà sản<br /> xuất, nhà chế biến, nhà buôn bán và nhà phân<br /> phối một sản phẩm cụ thể nào đó. Các doanh<br /> nghiệp kết nối nhau bằng một loạt các giao<br /> dịch kinh doanh trong đó, sản phẩm được<br /> chuyển từ tay nhà sản xuất đến tay người tiêu<br /> dùng cuối cùng.<br /> Chuỗi cung ứng với việc xây dựng chuỗi<br /> giá trị, sự phân khúc chuỗi giá trị, các rủi ro<br /> trong chuỗi cung ứng không còn là vấn đề<br /> mới mẻ trên thế giới nhưng vẫn chưa được<br /> áp dụng nhiều ở nước ta và trong thời gian<br /> qua, vẫn là vấn đề cần phải được phân tích,<br /> nhìn nhận và ứng dụng trong điều kiện nước<br /> ta dưới góc nhìn của những nhà điều hành<br /> doanh nghiệp lẫn các nhà hoạch định chính<br /> sách. Đối với Việt Nam chúng ta, tiềm năng<br /> <br /> phải cạnh tranh bình đẳng với các thành phần<br /> kinh tế khác. Mọi sự hỗ trợ trực tiếp, gián tiếp<br /> đối với DNNN đều phải theo quy định trong<br /> TPP (VietNamNet, ngày 6/10).<br /> Tuy nhiên, TPP cũng đặt ra không ít thách<br /> thức. Việc giảm thuế chắc chắn sẽ dẫn đến sự<br /> gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu<br /> từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cả<br /> cạnh tranh. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là<br /> doanh nghiệp đối mặt với sự cạnh tranh gay<br /> gắt cả trong thị trường nội địa lẫn thị trường<br /> xuất khẩu, thị phần hàng hóa của Việt Nam sẽ<br /> bị thu hẹp, thậm chí là nguy cơ sụt giảm mạnh<br /> hoặc mất luôn cả thị phần trong nước. Nguy<br /> cơ này đặc biệt nghiêm trọng đối với nhóm<br /> hàng nông sản, vốn gắn liền với đối tượng dễ<br /> bị tổn thương trong hội nhập, đó là nông dân.<br /> Theo số liệu thống kê của Tổ chức Nông<br /> lương Liên Hiệp Quốc (FAO), nếu như trong<br /> năm 2001 chúng ta mới phải nhập khẩu 0,5<br /> triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi này thì<br /> năm 2011 lên tới 2,7-2,8 triệu tấn. Năm 2013,<br /> theo số liệu của Bộ NN&PTNT, nếu tính cả<br /> lượng nhập khẩu bắp, đậu nành và lúa mì Việt<br /> Nam đã chi ra trên 4 tỉ USD nhập thức ăn<br /> chăn nuôi và các loại nguyên liệu. Nhiều loại<br /> cây trồng nội địa như đậu nành, ca cao, mía...<br /> sẽ có nguy cơ biến mất khi Việt Nam tham gia<br /> các hiệp định thương mại.<br /> Đánh giá mang tính định tính cho thấy<br /> ngành hàng trong nước có thể gặp khó khăn<br /> là ngành nông nghiệp với các mặt hàng  thịt<br /> gà , heo, bò là ngành lợi thế của Hoa Kỳ hoặc<br /> mặt hàng đường là thế mạnh của Australia thì<br /> các ngành hàng tương ứng của ta cũng có thể<br /> gặp khó khăn.<br /> Để nâng cao khả năng cạnh tranh của<br /> nông sản Việt Nam cũng như nâng cao năng<br /> lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam<br /> trong lĩnh vực nông nghiệp khi hiệp định TPP<br /> 82<br /> <br /> Chuỗi cung ứng . . .<br /> <br /> sản xuất trong nước còn lớn, thị trường tiêu<br /> thụ với hơn 86 triệu dân với sức mua cao hết<br /> sức hấp dẫn, nguồn nhân lực dồi dào. Chúng<br /> ta nên suy nghĩ sâu hơn về chuỗi cung ứng để<br /> tìm được lợi thế và vị trí của mình trong bàn<br /> cờ của thế giới.<br /> 2. LỢI ĐIỂM CHUỖI CUNG ỨNG<br /> NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM<br /> yy Kết hợp được ưu thế và sở trường của<br /> các nhân tố tham gia trong chuỗi<br /> yy Chia sẻ được trách nhiệm, rủi ro và<br /> quyền lợi.<br /> yy Nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu<br /> quả trong việc giới thiệu sản phẩm và năng<br /> lực cung ứng.<br /> yy Tạo sự an tâm cho các nhà phân phối<br /> cũng như người tiêu dùng<br /> Và để nước ta có thể chen chân vào chuỗi<br /> cung ứng toàn cầu, có thể phát triển chiều<br /> rộng và chiều sâu cluster (cụm liên hoán).<br /> Trong chế biến nông sản do bên mua nắm thế<br /> <br /> chủ động, ngày càng có khả năng bên mua<br /> quy định tiêu chuẩn cho cả chuỗi. Ví dụ: CT<br /> group của Thái Lan, họ chuyển từ sản xuất<br /> sang bán lẻ, do bị chuỗi bán lẻ đặt ra các quy<br /> định và họ đang thử nghiệm để nâng cao chất<br /> lượng và giá trị của chuỗi cung ứng. Còn<br /> trong công nghệ chế biến thực phẩm và nông<br /> sản, Việt Nam chúng ta đã đạt tiến bộ trong<br /> ngành chế biến nông sản, tuy nhiên, cần đạt<br /> đến mức độ phát triển chiều sâu trong ngành<br /> chế biến và liên kết chặt chẽ để sản xuất ra<br /> sản phẩm, không chỉ về giá mà còn đáp ứng<br /> kịp thời, đều đặn về số lượng và đáng tin cậy<br /> về chất lượng, an toản vệ sinh thực phẩm. Việt<br /> Nam có thể trở thành nhà cung ứng nông sản<br /> đã chế biến quan trọng cho thế giới. Các tỉnh<br /> Việt Nam nằm nhiều ở biển, chúng ta có lợi<br /> thế rất lớn dễ xuất khẩu bằng đường biển. Ở<br /> Trung Quốc, các tỉnh trong lục địa phát triển<br /> chậm, sau khi chi phí các tỉnh ở biển tăng lên,<br /> người ta mới phát triển sâu vào nội địa.<br /> <br /> 3. ĐỀ XUẤT CHO MÔ HÌNH ỨNG DỤNG CHO NÔNG SẢN VIỆT NAM<br /> <br /> 83<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> 3.2. Thiết lập hệ thống truy xuất nguồn<br /> gốc sản phẩm<br /> Đây là hệ thống truy xuất nguồn gốc sản<br /> phẩm được sử dụng khá rộng rãi tại các nước<br /> phát triển với mục đích:<br /> yy Tuân thủ các qui định, các luật lệ của<br /> các nước nhập khẩu, các tổ chức phân phối tại<br /> các nước phát triển<br /> yy Để tăng hình ảnh công ty theo hướng<br /> phát triển bền vững, minh bạch và hướng về<br /> khách hàng.<br /> yy Giải đáp nhanh và đạt độ tin cậy khi có<br /> bất kỳ sự cố nào có liên quan đến vấn đề vệ<br /> sinh an toàn thực phẩm trong chuỗi cung ứng<br /> yy Đáp ứng yêu cầu của các đối tác, cả<br /> thượng nguồn và hạ nguồn<br /> yy Được xem như là một công cụ có hiệu<br /> quả trong nỗ lực chống khủng bố sinh học.<br /> Hệ thống này cho biết nguồn gốc xuất xứ<br /> của sản phẩm, cách thức sản phẩm được sản<br /> xuất ra cũng như đường đi của sản phẩm từ<br /> đồng ruộng đến bàn ăn của người tiêu dùng.<br /> Hệ thống này tạo niềm tin cho người tiêu<br /> dùng khi mua sắm sản phẩm, giúp các thành<br /> viên kiểm tra các khâu trong chuỗi cung ứng,<br /> đề phòng và phát hiện các rủi ro có thể xảy ra<br /> <br /> Dựa vào mô hình ứng dụng cho nông<br /> nghiệp Việt Nam, trong phạm vi nghiên cứu<br /> của mình chúng tôi mạn phép đề xuất một số<br /> giải pháp phát triển chuỗi cung ứng nông sản<br /> Việt Nam khi tham gia TPP như sau:<br /> 3.1. Đầu tư sâu cho công nghệ sau thu<br /> hoạch<br /> Trước mắt, cần khuyến khích đầu tư các<br /> cơ sở chế biến và bảo quản nông sản tại các<br /> chợ đầu mối nông sản. Hệ thống sơ chế, chế<br /> biến và kho bảo quản này phải bảo đảm đạt<br /> các tiêu chuẩn HACCP hoặc BRC. Đây sẽ là<br /> nơi tập trung thu mua, phân loại, chế biến và<br /> phân phối nông sản phục vụ cho xuất khẩu lẫn<br /> nội tiêu. <br /> Về mặt vĩ mô, cần nhập khẩu cũng như<br /> cung cấp đầy đủ thông tin về một số công<br /> nghệ, chất bảo quản sau thu hoạch của các<br /> nước có nền nông nghiệp và công nghệ sau<br /> thu hoạch tiên tiến như: Mỹ, Úc, Canada… để<br /> chuyển giao cho các doanh nghiệp chuyên về<br /> bảo quản, chế biến sau thu hoạch nhằm khắc<br /> phục ngay điểm yếu của ngành chế biến nông<br /> sản và nâng cao khả năng xuất khẩu nông sản<br /> sang thị trường các nước TPP.<br /> <br /> trong từng khâu vận hành của chuỗi.<br /> <br /> 84<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2