intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo - kinh nghiệm của Ấn Độ, Singapore và bài học đối với Việt Nam

Chia sẻ: Đỗ Thiên Hỷ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

40
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu khái quát về cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của Ấn Độ, Singapore và thực trạng ở Việt Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm góp phần giúp khởi nghiệp ở Việt Nam thành công hơn trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo - kinh nghiệm của Ấn Độ, Singapore và bài học đối với Việt Nam

CƠ CHẾ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP<br /> SÁNG TẠO - KINH NGHIỆM CỦA ẤN ĐỘ, SINGAPORE<br /> VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM<br /> <br /> ThS. Bùi Thị Bích Thuận<br /> Trường Đại học Công đoàn<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, các quốc gia đều ưu tiên<br /> thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đối với Việt Nam, năm 2016 được<br /> chọn là năm “Quốc gia khởi nghiệp”, điều này cho thấy vấn đề khởi nghiệp đang<br /> được nhà nước và xã hội dành sự quan tâm đặc biệt. Một trong những vấn đề cấp<br /> thiết để giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phát triển nhanh và mạnh trong<br /> bối cảnh hiện nay là xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách hỗ trợ doanh<br /> nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Mặc dù đã có một số thành công bước đầu nhưng hoạt<br /> động khởi nghiệp ở nước ta còn gặp không ít khó khăn, phát triển còn chưa có tính<br /> hệ thống. Bài viết giới thiệu khái quát về cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp<br /> sáng tạo của Ấn Độ, Singapore và thực trạng ở Việt Nam, từ đó đưa ra những<br /> khuyến nghị nhằm góp phần giúp khởi nghiệp ở Việt Nam thành công hơn trong<br /> thời gian tới.<br /> Từ khóa: Khởi nghiệp sáng tạo; doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; cơ chế<br /> hỗ trợ khởi nghiệp.<br /> <br /> Các quốc gia thường đưa ra các chương trình hỗ trợ, khuyến khích người dân<br /> tham gia khởi nghiệp thông qua các chính sách thúc đẩy thành lập doanh nghiệp, trợ<br /> giúp các doanh nghiệp khởi sáng tạo (DNKNST) và các đề án hỗ trợ cộng đồng khởi<br /> nghiệp với nhiều ưu đãi…nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá<br /> trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh<br /> dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới. Bên cạnh đó<br /> cần thiết phải xem xét một vài trường hợp cụ thể là Ấn Độ và Singapore để có cái<br /> nhìn tổng quan về diễn tiến, sự kết hợp giữa các biện pháp hỗ trợ được sử dụng và<br /> cách thức mà các chính phủ triển khai liên quan tới vấn đề này.<br /> Ấn Độ và Singapore là hai quốc gia khởi nghiệp đứng trong tốp đầu của thế<br /> giới, có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam (Singapore có vị trí địa kinh tế tương<br /> tự Việt Nam, Ấn Độ là nước có nền kinh tế ở trình độ phát triển tương tự Việt Nam).<br /> Hơn thế nữa, cả hai nước vừa có sự điều chỉnh tổng thể đối với các biện pháp hỗ trợ<br /> startup, nhằm tạo ra một làn sóng khởi nghiệp sáng tạo mới, một mục tiêu mà Việt<br /> Nam cũng đang hướng tới.<br /> <br /> 69<br /> 1. Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của Ấn Độ và Singapore<br /> 1.1. Ấn Độ<br /> Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới nhưng chỉ đứng thứ 141 thế giới về<br /> thu nhập bình quân đầu người, và đứng thứ nhất thế giới về số lượng người dân<br /> sống dưới mức nghèo khổ. Tìm động lực để phát triển cho đất nước hơn 1.2 tỷ<br /> người, với tuổi bình quân rất trẻ (27,6 tuổi) luôn là nhiệm vụ hàng đầu của Chính<br /> phủ Ấn Độ. Trong hơn hai thập kỷ, đánh dấu bằng thời điểm Ấn Độ quyết định<br /> mở cửa nền kinh tế tự do hóa thương mại với thế giới đầu những năm 1990, dưới<br /> áp lực của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1991, một mặt Ấn Độ thiết kế các biện<br /> pháp phát triển các ngành kinh tế theo chiều rộng, sử dụng nhiều lao động (đặc<br /> biệt là dệt may, nông nghiệp), mặt khác tập trung nỗ lực hỗ trợ, thúc đẩy sáng tạo<br /> và công nghệ, Ấn Độ đã không chỉ từng bước thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện<br /> thu nhập người dân mà còn tạo dựng vị trí của mình trên bản đồ kinh tế sáng tạo<br /> của thế giới. Viễn thông, công nghệ thông tin, ô tô, năng lượng tái tạo, dược phẩm<br /> và sinh hóa phẩm trở thành các ngành kinh tế trọng điểm của Ấn Độ. Tháng<br /> 2/2016, dưới áp lực phải tạo động lực mới cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng<br /> kinh tế, Chính phủ Ấn Độ đã thông qua Chương trình STARTUP INDIA –<br /> STANDUP INDIA với mục tiêu thúc đẩy một cuộc cách mạng mới cho nền kinh<br /> tế thông qua các startup– nhóm chủ thể mà Chính phủ Ấn Độ xác định là động lực<br /> chuyển đổi nền kinh tế Ấn Độ khi thế giới bước vào kỷ nguyên kinh tế số và cuộc<br /> cách mạng công nghiệp 4.0.<br /> STARTUP INDIA – STANDUP INDIA là một Đề án tổng lực, thống nhất toàn<br /> Ấn Độ để thúc đẩy và hỗ trợ các startup phát triển. Điểm mạnh của Chương trình này<br /> là: kết nối các tất cả các biện pháp hỗ trợ startup vào một tổng thể chung để tạo hiệu<br /> ứng lan tỏa tốt hơn; nguồn lực được tập trung nhiều hơn từ Chính phủ; minh bạch hóa<br /> các cơ chế ưu đãi, hỗ trợ thông qua việc thiết lập hệ thống thống nhất tiêu chí để công<br /> nhận startup và tiêu chí cho startup hưởng các loại ưu đãi cụ thể. Đối tượng hướng tới<br /> của Chương trình không chỉ là các DNKNST mới thành lập mà còn cả các doanh nghiệp<br /> trong bất kỳ lĩnh vực nào có triển vọng phát triển, mang lại thịnh vượng cho Ấn Độ.<br /> Chương trình STARTUP INDIA – STANDUP INDIA bao gồm 03 cấu phần<br /> chính với các nội dung cụ thể như sau:<br /> Nhóm 1: Các biện pháp đơn giản hóa thủ tục, điều kiện pháp luật đối với startup:<br /> - Cơ chế tự chứng nhận cho các startup (các startup được phép tự chứng nhận<br /> đáp ứng các điều kiện về lao động, môi trường mà không phải xin chứng nhận của<br /> các cơ quan có thẩm quyền);<br /> <br /> <br /> <br /> 70<br /> - Xây dựng đầu mối chung về hỗ trợ startup Ấn Độ tại một cổng web và App<br /> di động về startup, qua đó các startup có thể đăng ký để được công nhận, kết nối với<br /> các đơn vị hỗ trợ, tham gia các khóa đào tạo miễn phí…;<br /> - Hỗ trợ pháp lý và thủ tục rút gọn khi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với<br /> chi phí thấp;<br /> - Giảm bớt các điều kiện về kinh nghiệm, doanh thu tối thiểu cho startup khi<br /> tham gia đấu thầu mua sắm công;<br /> - Áp dụng thủ tục rút gọn cho startup khi giải thể, rút khỏi thị trường.<br /> Nhóm 2: Các biện pháp hỗ trợ về tài chính cho startup:<br /> - Cung cấp hỗ trợ tài chính thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm (Fund of funds)<br /> theo đó Chính phủ rót vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm để các quỹ này đầu tư cho<br /> startups theo các điều kiện, tiêu chí quy định;<br /> - Cung cấp bảo lãnh tín dụng cho startup thông qua việc thành lập một Công<br /> ty tín thác bảo lãnh quốc gia;<br /> - Ưu đãi thuế đối với các khoản đầu tư vào startup;<br /> - Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với startup.<br /> Nhóm 3: Các biện pháp kết nối, tạo môi trường, nhận thức khuyến khích startup:<br /> - Tổ chức các cuộc thi, festival;<br /> - Thành lập Tổ Công tác Sáng tạo;<br /> - Xây dựng các trung tâm sáng tạo tại các trường đại học lớn;<br /> - Xây dựng các công viên nghiên cứu;<br /> - Các biện pháp thúc đẩy startup theo chủ đề.<br /> Điều kiện startup của Ấn Độ Trong khuôn khổ Chương trình Startup India –<br /> Standup India, Ấn Độ sử dụng 02 bộ tiêu chí:<br /> Nhóm 1: Điều kiện để được công nhận là một startup và hưởng lợi từ các biện<br /> pháp hỗ trợ của Chương trình là (trừ hỗ trợ dưới dạng ưu đãi thuế):<br /> - Được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty<br /> hợp danh TNHH thành lập theo pháp luật Ấn Độ;<br /> - Hoạt động chưa tới 7 năm kể từ ngày thành lập (riêng trường hợp doanh<br /> nghiệp công nghệ sinh học thì là 10 năm), không chấp nhận trường hợp chia tách từ<br /> doanh nghiệp khác;<br /> - Có tổng doanh thu của bất kỳ năm tài chính nào từ ngày thành lập không<br /> vượt quá Rupees 25 crores;<br /> <br /> <br /> <br /> 71<br /> - Hoạt động hướng tới sáng tạo, phát triển, cải thiện sản phẩm, quy trình, dịch<br /> vụ hoặc có mô hình kinh doanh tiềm năng lớn trong tạo việc làm, lợi nhuận.<br /> Nhóm 2: Điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế<br /> - Đáp ứng tất cả các điều kiện nhóm 1 (tức là đã được công nhận là startup<br /> theo Chương trình Startup India – Standup India);<br /> - Là công ty TNHH hoặc công ty hợp danh TNHH thành lập trong khoảng từ<br /> 1/4/2016-31/3/2019;<br /> - Được cấp chứng nhận đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế.[1]<br /> Những kết quả ban đầu của việc triển khai Chương trình STARTUP INDIA –<br /> STANDUP INDIA cho thấy Chính phủ Ấn Độ đã đi đúng hướng, tạo ra một làn sóng<br /> startup mới ở Ấn Độ với chất lượng và hiệu quả tác động rất tích cực.<br /> 1.2. Singapore<br /> Singapore là 1 trong 3 vùng đất hứa của tinh thần khởi nghiệp trên thế giới (2<br /> quốc gia còn lại là Israel và Đan Mạch). Trong 10 năm trở lại đây, tinh thần khởi<br /> nghiệp tại Singapore đã được khơi dậy mạnh mẽ nhờ các chính sách hỗ trợ của Chính<br /> phủ, bắt đầu từ các cơ sở giáo dục đại học giảng dạy tinh thần khởi nghiệp và thúc<br /> đẩy gắn kết đào tạo, nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp. Từ năm 2008, Chính phủ<br /> Singapore đã thành lập Quỹ Đầu tư mạo hiểm, đầu tư mạnh vào các lĩnh vực khởi<br /> nghiệp quan trọng như truyền thông số, công nghệ sinh học, công nghệ làm sạch và<br /> lọc nước… Đồng thời, công tác truyền thông về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được<br /> đẩy mạnh, giúp người dân vốn quen tư duy thụ động trở nên năng động hơn. Các<br /> chính sách tích cực của Chính phủ đã giúp khơi dậy tinh thần khởi nghiệp của thế hệ<br /> trẻ dựa trên nền tảng của giáo dục và hành lang pháp lý thông thoáng. Những nỗ lực<br /> này của Singapore đã mang lại những hiệu quả tích cực, góp phần quan trọng đưa<br /> Singapore trở thành một trong những mảnh đất hấp dẫn nhất cho khởi nghiệp nói<br /> chung và khởi nghiệp sáng tạo nói riêng.<br /> Điểm nổi bật của các chương trình hỗ trợ startup ở Singapore là không chỉ tạo<br /> ra động lực để khuyến khích giới trẻ ở Singapore khởi nghiệp mà còn thu hút nhân<br /> tài, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, trên toàn thế giới tới Singapore để khởi nghiệp.<br /> Phần lớn các chương trình đều tập trung vào việc hỗ trợ tài chính trực tiếp hoặc gián<br /> tiếp từ Chính phủ cho các startup được lựa chọn. Một số chương trình hỗ trợ khởi<br /> nghiệp đáng chú ý của Chính phủ Singapore trong thời gian qua:<br /> - Chương trình Cộng đồng Hành động Khởi nghiệp (Action Community for<br /> Entrepreneurship - (ACE): Đây là chương trình do Bộ Công Thương Singapore thực<br /> hiện từ năm 2003 với mục tiêu thúc đẩy sáng tạo và khởi nghiệp ở Singapore. Chương<br /> trình tài trợ cho công dân hoặc người cư trú thường xuyên tại Singapore lần đầu khởi<br /> <br /> 72<br /> nghiệp, cứ mỗi 3 đô la Singapore vốn đầu tư, doanh nghiệp sẽ nhận được đầu tư từ<br /> quỹ là 7 đô la Singapore và tối đa là 50.000 đô la Singapore. Năm 2014, ACE được<br /> tái cấu trúc lại để trở thành một chương trình phi chính phủ, phi lợi nhuận nhưng có sự<br /> hỗ trợ của Chính phủ, hoạt động với sự liên kết cùng Chương trình SPRING SEEDS.<br /> - SPRING SEEDS (The SPRING Startup Enterprise Development Scheme<br /> (SEEDS): Đây là Chương trình cung cấp đầu tư dưới dạng góp vốn, mua cổ phần cho<br /> các startup Singapore có sản phẩm hoặc ý tưởng sáng tạo. Các startup được nhận<br /> hỗ trợ từ Chương trình sẽ nhận được khoản đầu tư từ SPRING SEEDS bằng với<br /> khoản đầu tư mà startup kêu gọi từ bên thứ ba, với tổng giá trị không vượt qua 2<br /> triệu đô la Singpapore;<br /> - Quỹ đầu tư giai đoạn sơ khởi (the Early Stage Venture Fund): Quỹ được<br /> thành lập năm 2008, thuộc Quỹ Nghiên cứu Quốc gia Singapore (NRF). Quỹ phối<br /> hợp với các nhà đầu tư mạo hiểm để đầu tư vào công ty công nghệ cao ở giai đoạn sơ<br /> khởi có trụ sở tại Singapore theo tỷ lệ 1:1. Trong vòng 05 năm, nhà đầu tư mạo hiểm<br /> có thể mua lại phần vốn đầu tư của NRF. Công ty được đầu tư sẽ phải hoàn trả lại<br /> vốn và lãi cho NRF.<br /> - Chương trình thương mại hóa cho doanh nghiệp công nghệ (Technology<br /> Enterprise Commercialization Scheme - TECS): Đây là Chương trình của Chính phủ<br /> tài trợ cho các startup trong giai đoạn nghiên cứu phát triển (R&D) công nghệ sáng<br /> tạo, đã có tuổi đời ít nhất 5 năm và khởi nghiệp tại Singapore. Tài trợ từ TECS có thể<br /> lên tới tối đa là 750.000 đô la Singapore;<br /> - Chương trình đào tạo tư vấn I.JAM (IDM Jump Starts and Mentors): Đây là<br /> Chương trình được thực hiện bởi Cơ quan phát triển thông tin đại chúng của<br /> Singapore, nhằm thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo trong các lĩnh vực thông tin đại chúng<br /> công nghệ số. I.JAM hỗ trợ startup có các ý tưởng, sản phẩm, dịch vụ độc nhất thông<br /> qua chương trình tài trợ nhỏ với mạng lưới các vườn ươm;<br /> - Chương trình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trong các lĩnh vực ưu tiên (The<br /> Sector Specific Accelerator Programme - SSA): Chương trình là một phần của Kế<br /> hoạch Nghiên cứu, Khởi nghiệp và Sáng tạo năm 2015 của Singapore nhằm cung<br /> cấp hỗ trợ cho các startup trong lĩnh vực y tế và công nghệ sạch. Nguồn tiền thực<br /> hiện Chương trình lên tới 70 triệu đô la Singapore, 04 tổ chức hỗ trợ startup<br /> (accelerators) của Singapore được lựa chọn để tham gia Chương trình, cung cấp đầu<br /> tư cho startup theo tỷ lệ 1:1.<br /> - Chương trình Vườn ươm công nghệ (Technology Incubation Scheme - TIS):<br /> Chương trình được quản lý bởi NFIE thuộc Quỹ Nghiên cứu Quốc gia Singapore<br /> <br /> <br /> 73<br /> (NRF). NRF sẽ cùng đầu tư với một Vườn ươm công nghệ tới 85% tổng đầu tư, tối<br /> đa là 500.000 đô la Singapore.<br /> Theo Báo cáo về hệ sinh thái khởi nghiệp của Startup Genome’s năm 2017,<br /> Singapore đã trở thành quốc gia số 1 thế giới về thu hút startup nhân tài, kết quả đạt<br /> được phần lớn là do các biện pháp hỗ trợ sáng tạo rất hiệu quả mà Chính phủ dành<br /> cho các startup công nghệ. Khoảng 1.600-2.400 startup Singapore về công nghệ đã<br /> nhận được hỗ trợ tài chính từ Chính phủ để hoạt động. Trong vòng 03 năm, số lượng<br /> các startup ở Singapore đã thu hút được vốn đầu tư series A cao gấp 6 lần, với tổng<br /> số vốn đầu tư nhận được tăng gấp đôi, lên tới 1.7 triệu USD. Singapore xếp hạng thứ<br /> tư thế giới về số lượng các kỹ sư phần mềm có kinh nghiệm và thứ hai về số nhân lực<br /> có tiềm năng phát triển.[2]<br /> Không dừng lại ở những gì đã đạt được, tháng 3/2017, Chính phủ Singapore,<br /> thông qua Bộ Công Thương, đã chính thức khởi động một Chương trình hỗ trợ Startup<br /> mới, nhằm hỗ trợ cho các startup Singapore ở cả 03 khía cạnh thương hiệu, tài chính<br /> và thu hút nhân tài. Chương trình tổng thể được biết tới dưới tên gọi là START SG.<br /> Singapore hy vọng sẽ tạo ra một làn sóng startup mới, chất lượng và hiệu quả hơn,<br /> biến Singapore trở thành tâm điểm khởi nghiệp không chỉ của người Singapore mà<br /> còn của cả thế giới.<br /> Startup SG với các nhánh chính sau:<br /> - Startup SG Founder: Hỗ trợ cho các cá nhân lần đầu khởi nghiệp;<br /> - Startup SG Tech: Hỗ trợ cho các startup công nghệ cao;<br /> - Startup SG Equity: Thúc đẩy đầu tư cho startups;<br /> - Startup SG Accelerator: Thúc đẩy sự hình thành, phát triển của các vườn<br /> ươm, tổ chức hỗ trợ startup;<br /> - Startup SG Talent: Chương trình dành riêng cho việc phát hiện, hỗ trợ phát<br /> triển ý tưởng nhân tài.<br /> Về tài chính, Chính phủ sẽ tham gia cùng các quỹ tư nhân đầu tư vào các doanh<br /> nghiệp công nghệ cao với tổng mức đầu tư tối đa tăng gấp đôi (từ 2 triệu đô la<br /> Singapore lên 4 triệu). Giới hạn tỷ lệ tối đa của Chính phủ trong tổng vốn đầu tư mà<br /> startup nhận được tăng từ 50% lên 70%. [3]<br /> Bài học đối với Việt Nam: Từ việc nghiên cứu cơ chế hỗ trợ DNKNST của<br /> Ấn Độ và Singapore, bài viết khái quát một số bài học kinh nghiệm từ 2 quốc gia trên<br /> như sau:<br /> Thứ nhất, cả 2 quốc gia đều có chính sách chú trọng xây dựng tinh thần khởi<br /> nghiệp mạnh mẽ;<br /> Thứ hai, nhà nước luôn đồng hành và dành nhiều ưu đãi cho DNKNST;<br /> <br /> <br /> 74<br /> Thứ ba, chính sách không chỉ chú trọng các vấn đề khởi nghiệp trước mắt mà<br /> còn có phạm vi rộng hơn, để đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất<br /> lượng nguồn nhân lực;<br /> Thứ tư, xây dựng đội ngũ đông đảo chuyên gia khoa học công nghệ và doanh<br /> nhân tài năng là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển và thành công của doanh<br /> nghiệp khởi nghiệp;<br /> Thứ năm, những chính sách khuyến khích khởi nghiệp của các quốc gia này<br /> đã thực sự đem lại nhiều kết quả tích cực, tạo dựng được hệ sinh thái khởi nghiệp<br /> hiệu quả.<br /> 2. Khái quát thực trạng về cơ chế hỗ trợ DNKNST ở Việt Nam<br /> Hoạt động khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam đã bắt đầu từ hơn 10 năm trước<br /> với việc hình thành một số DNKNST trong lĩnh vực thương mại điện tử, dạy học<br /> trực tuyến. Tuy nhiên, năm 2016 mới được chọn là năm “Quốc gia khởi nghiệp”.<br /> Hơn 10 năm hình thành và phát triển của cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo, mạng<br /> lưới hỗ trợ khởi nghiệp đang hình thành và hoạt động ngày càng hiệu quả, trong đó,<br /> nổi bật là vai trò của cố vấn khởi nghiệp vốn có từ lâu ở các nước, nay dần hình<br /> thành một cách chuyên nghiệp ở Việt Nam. Thêm vào đó, đã bắt đầu manh nha mạng<br /> lưới nhà đầu tư cho công ty khởi nghiệp, bao gồm không chỉ các nhà đầu tư trong<br /> nước mà còn các nhà đầu tư nước ngoài. Đến nay hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo<br /> và các DNKNST của Việt Nam hiện có thể xem là đã bao gồm đầy đủ các thành tố<br /> quan trọng (bao gồm các DNKNST, nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ<br /> chức hỗ trợ kinh doanh, vườn ươm, công viên nghiên cứu, mạng lưới các huấn luyện<br /> viên/tư vấn, các cơ sở/đơn vị hỗ trợ nghiên cứu và khởi nghiệp sáng tạo tại các trường<br /> đại học, viện nghiên cứu… thuộc cả khối tư nhân và Nhà nước). Tuy nhiên, số lượng<br /> của các chủ thể này ở Việt Nam được đánh giá là còn khá khiêm tốn.<br /> Với tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, trong những năm qua,<br /> Chính phủ đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là DNKNST.<br /> Tùy vào từng trường hợp mà các hỗ trợ liên quan đến thủ tục pháp lý, mặt bằng sản<br /> xuất, văn phòng làm việc, công nghệ, đào tạo nhân lực, bảo lãnh tín dụng, tiếp nhận<br /> vốn từ các quỹ đầu tư, thị trường tiêu thụ, xúc tiến thương mại, kết nối đối tác, thuế<br /> thu nhập doanh nghiệp... Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như:<br /> - Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn<br /> 2016-2020, đặt mục tiêu tới năm 2020 Việt Nam có 1 triệu doanh nghiệp.<br /> - Quyết định số 844/QĐ-TTg ban hành ngày 18/5/2016 của Thủ tướng<br /> Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc<br /> <br /> <br /> 75<br /> gia đến 2025” (sau đây gọi là Đề án 844). Đây là văn bản chính sách đầu tiên, bao<br /> quát nhất và là nền tảng về chính sách hỗ trợ đối với startup của Việt Nam. Đề án<br /> được xây dựng và chủ trì triển khai thực hiện bởi Bộ Khoa học và Công nghệ, có<br /> phạm vi bao trùm toàn quốc.<br /> - Quyết định 171/QĐ-BKHCN ngày 7/2/2017 của Bộ Khoa học và Công nghệ<br /> phê duyệt danh mục nhiệm vụ đặt hàng thuộc Đề án 844 bắt đầu thực hiện từ năm<br /> 2017 và Quyết định 3362/QĐ-BKHCN về việc ban hành quy định tạm thời xử lý hồ<br /> sơ tham gia Đề án 844. Đây là 02 văn bản cấp Bộ nhằm triển khai Đề án hỗ trợ startup<br /> thông qua kênh đề tài, đề án, dự án khoa học và công nghệ cấp quốc gia thuộc phạm<br /> vi quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.<br /> - Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu<br /> lực vào ngày 1/1/2018;<br /> - Bộ Khoa học và Công nghệ đã tham gia xây dựng nội dung về hỗ trợ khởi<br /> nghiệp sáng tạo và đầu tư khởi nghiệp sáng tạo từ Quỹ phát triển khoa học và công<br /> nghệ của doanh nghiệp tại Nghị định số 76/2018/NĐ-CP của Chính phủ, quy định chi<br /> tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ; đề xuất các<br /> giải pháp thu hút đầu tư khởi nghiệp sáng tạo trong và ngoài nước tại Công văn số<br /> 666/BKHCN-PTTTDN ngày 19/3/2018…<br /> - Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã hoàn thiện, phát triển Cổng Thông tin<br /> khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, cung cấp các thông tin về hệ sinh thái khởi<br /> nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam. Đây là công cụ thống nhất từ trung ương đến địa<br /> phương trong việc thu thập và phân tích cơ sở dữ liệu các đối tượng trong hệ sinh thái<br /> khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.<br /> - Các Nghị quyết của các Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung<br /> ương, các Quyết định, Kế hoạch, Chương trình của Ủy ban nhân dân tỉnh về khởi<br /> nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo.<br /> - Một số Đề án khác mà Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn có liên quan tới khởi<br /> nghiệp như: Quyết định 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ<br /> phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”, do Bộ Giáo<br /> dục và Đào tạo chủ trì. Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính<br /> phủ về việc phê duyệt Đề án: “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025”.<br /> Chính phủ còn nhiều các giải pháp, chính sách trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp<br /> khởi nghiệp khác và đã triển khai thường xuyên, rầm rộ các chương trình hỗ trợ khởi<br /> nghiệp sáng tạo, đổi mới sáng tạo như Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt<br /> Nam - Phần Lan, Dự án đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học<br /> và công nghệ, Dự án xây dựng chính sách đổi mới và phát triển các cơ sở ươm tạo<br /> <br /> <br /> 76<br /> Doanh nghiệp...; và các sự kiện cho khởi nghiệp Techfest, Demoday, HatchFair,<br /> Venture Cup, Startup Weekend, Startup Fair Danang…<br /> Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh<br /> là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Chính phủ đã ban hành 50 nghị định về<br /> điều kiện đầu tư kinh doanh theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, trong đó tập<br /> trung cắt giảm nhiều thủ tục, giấy phép, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.<br /> Kết quả đạt được: Việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST đã đạt được<br /> nhiều thành quả đáng ghi nhận, góp phần phát triển kinh tế cả nước và giúp các<br /> DNKNST “vươn mình ra biển lớn”. Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,<br /> nâng cao năng lực cạnh tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Các Bộ, cơ<br /> quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh đã tích cực thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ<br /> yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo điều kiện<br /> thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và phát triển, như cải thiện về thủ tục về thuế<br /> và hải quan; cơ chế một cửa; đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử đã được đưa<br /> vào vận hành, đáp ứng yêu cầu dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, góp phần giảm thời<br /> gian, chi phí thành lập doanh nghiệp và xây dựng một hệ thống đăng ký kinh doanh<br /> minh bạch, hạn chế tối đa tiêu cực có thể phát sinh từ sự can thiệp của con người.<br /> Chính phủ đã có những tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Hệ<br /> thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của DNKNST trên cổng Thông tin điện tử<br /> Chính phủ đã giải quyết hầu hết các phản ánh, kiến nghị. Chủ tịch UBND các tỉnh,<br /> thành phố đã tổ chức đối thoại, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp;<br /> thành lập và công khai đường dây nóng, hỏi đáp trực tuyến trên Cổng thông tin điện<br /> tử của tỉnh, thành phố để tiếp nhận phản ánh và hướng dẫn, giải đáp cho doanh nghiệp.<br /> Các Bộ, ngành và địa phương đã ban hành Chương trình hành động cụ thể và tổ chức<br /> triển khai thực hiện.<br /> Nhờ đó, số lượng và chất lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ngày<br /> càng tăng, cả nước có hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp, gần 70 khu không gian<br /> làm việc chung, 50 cơ sở ươm tạo và tổ chức thúc đẩy kinh doanh, đã hình thành thêm<br /> một số quỹ đầu tư mạo hiểm như Quỹ đầu tư mạo hiểm của Tập đoàn Vingroup,<br /> Startup Viet Partner… Nhiều vườn ươm tiêu biểu đã được hình thành như Vườn ươm<br /> doanh nghiệp công nghệ cao Hòa Lạc, Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao Thành<br /> phố Hồ Chí Minh, Vườn ươm Đà Nẵng (DNES), Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi<br /> nghiệp (BSSC), Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ thông tin đổi mới sáng tạo Hà<br /> Nội. Chất lượng và số lượng thương vụ đầu tư cho các startup có xu hướng tăng mạnh<br /> trong năm 2018 với tổng số vốn đầu tư 889 triệu USD, tăng gấp 3 lần so với năm<br /> 2017[4]. Sự hiện diện của các nhà đầu tư quốc tế cho khởi nghiệp sáng tạo tăng mạnh,<br /> với nhận diện chủ yếu là những doanh nhân khởi nghiệp đã thành công ở thế hệ đầu<br /> <br /> <br /> 77<br /> mong muốn đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở thế hệ sau. Bên cạnh<br /> đó, hoạt động của các nhà đầu tư thiên thần ở Việt Nam đã bắt đầu có tính hệ thống<br /> qua việc liên kết, kết nối, hình thành một số câu lạc bộ, mạng lưới đầu tư cho khởi<br /> nghiệp sáng tạo như: VIC Impact, iAngel, Angel4us,… DNKNST thể hiện được vai<br /> trò to lớn của mình vào những đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, cho thu hút đầu tư<br /> và thúc đẩy phong trào KNST của cả nước.<br /> Một số hạn chế: Đề án ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-TTg gần như là<br /> văn bản duy nhất đặt ra các mục tiêu cụ thể mang tính định lượng về phát triển<br /> DNKNST với các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, tương tự như phần<br /> lớn các đề án khác, các mục tiêu này chỉ mang tính định hướng, không ràng buộc<br /> trách nhiệm đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không có biện pháp xử lý<br /> trong trường hợp không đạt được mục tiêu. Bên cạnh đó, mặc dù hệ thống quy<br /> định và chính sách đã và đang ngày càng được hoàn thiện, nhiều nội dung cần<br /> được hướng dẫn cụ thể vẫn chưa có, dẫn đến tình trạng khó triển khai các quy<br /> định và chính sách trên thực tế.<br /> Cổng thông tin quốc gia về khởi nghiệp đã chính thức ra đời nhưng các nội<br /> dung, thông tin và tính liên kết đến các cổng thông tin liên quan còn hạn chế.<br /> Hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khởi nghiệp từ nguồn ngân<br /> sách nhà nước chưa được ban hành, vì vậy các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp từ các<br /> quỹ có nguồn gốc ngân sách gần như chưa thể triển khai.<br /> Chính sách tín dụng khó tiếp cận do hầu hết các DNKNST ban đầu đều có quy<br /> mô nhỏ, siêu nhỏ, nguồn vốn nội sinh ít, tài sản để thế chấp vay ngân hàng hầu như<br /> không có. Bên cạnh đó, bản chất của các DNKNST, đặc biệt là DNKNST là rủi ro cao<br /> nên các kênh huy động vốn truyền thống qua các ngân hàng thương mại rất khó khăn.<br /> Tựu trung lại có thể liệt kê các vướng mắc lớn nhất của startups Việt Nam như sau:<br /> - Hạn chế về vốn: các startup thường được bắt đầu bằng nguồn vốn tự có hạn<br /> hẹp của các thành viên sáng lập, trong khi khả năng vay vốn ngân hàng hoặc kêu gọi<br /> các quỹ đầu tư lại rất thấp.<br /> - Hạn chế về cơ sở vật chất, nghiên cứu phát triển: các startup thường không<br /> có đủ điều kiện để trang trải các chi phí phòng thí nghiệm, chi phí cho máy móc thiết<br /> bị phục vụ nghiên cứu, dẫn tới hạn chế trong phát triển ý tưởng, sản phẩm.<br /> - Hạn chế về kỹ năng quản trị, điều hành kinh doanh, xúc tiến, quảng bá phát<br /> triển: các startup và đặc biệt là các sáng lập viên, nhân sự chủ chốt đều chủ yếu là<br /> chuyên ngành kỹ thuật, công nghệ, không có kiến thức đầy đủ về kinh doanh, kinh<br /> tế và các kỹ năng điều hành, quản lý doanh nghiệp, xúc tiến thương mại, quảng bá<br /> sản phẩm.<br /> <br /> 78<br /> - Hạn chế về khả năng đáp ứng các thủ tục hành chính cần thiết: các startup<br /> thường có rất ít các kinh nghiệm trong thực hiện các thủ tục hành chính liên quan tới<br /> gia nhập thị trường (đăng ký kinh doanh, đất đai, giấy phép kinh doanh…), bảo hộ sở<br /> hữu trí tuệ (đăng ký bảo hộ các sản phẩm sở hữu trí tuệ), thương mại hóa sản phẩm<br /> (đăng ký tiêu chuẩn, đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật), tài chính (tiêu chuẩn kế toán, hóa<br /> đơn, kê khai thuế, ưu đãi thuế…).<br /> 3. Đề xuất một số giải pháp đối với Việt Nam<br /> Thứ nhất, xây dựng chính sách hỗ trợ DNKNST một cách toàn diện, có sự tham<br /> gia của các tổ chức tài chính, ngân hàng và các cơ quan nhà nước. Song song với<br /> việc ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ, cần sớm thiết lập hệ thống (cơ quan, tổ<br /> chức) để triển khai và thực thi cơ chế chính sách; Hỗ trợ xây dựng hệ thống cung<br /> cấp dịch vụ cho DNKNST, nâng cao việc chỉ đạo và dịch vụ công của Chính phủ<br /> dành cho các DNKNST. Đặc biệt, tăng cường vai trò của Nhà nước trong xây dựng<br /> quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa các DNKNST với các doanh nghiệp lớn và các<br /> quỹ đầu tư mạo hiểm. Nhà nước cần đơn giản hóa thủ tục nhà nước, loại bỏ tính<br /> quan liêu.<br /> Thứ hai, cần có chính sách tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và<br /> phát triển các kỹ năng: Hiện nay, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn quá trẻ<br /> so với thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khởi dậy tinh thần khởi nghiệp mạnh<br /> mẽ. Nhà nước cần quan tâm đến các chính sách đẩy mạnh giáo dục như: tài trợ các<br /> chương trình đào tạo khởi nghiệp, đào tạo miễn phí trong ngành lên kế hoạch kinh<br /> doanh, đào tạo sau đại học về khởi nghiệp, học vị thạc sĩ. Cải cách hệ thống giáo<br /> dục từ phổ thông đến đại học theo hướng gắn với giáo dục – đào tạo với hoạt động<br /> thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp là điều kiện tiên<br /> quyết để bản thân mỗi người hình thành ý chí tự thân lập nghiệp. Cần chuẩn bị<br /> nguồn nhân lực cho khởi nghiệp sáng tạo bền vững từ trường phổ thông thông qua<br /> giáo dục khởi nghiệp. Cần đưa chương trình giáo dục khởi nghiệp vào giảng dạy<br /> trong các chương trình học trung học phổ thông, đặc biệt là trong giáo dục cao<br /> đẳng, đại học.<br /> Thứ ba, cần có chính sách tạo điều kiện trao đổi và đổi mới công nghệ: Để có<br /> một hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ cao, Nhà nước cần nâng cao cơ sở hạ tầng<br /> trực tuyến và trực tiếp như tạo ra các cơ chế để tăng cường hợp tác giữa các doanh<br /> nghiệp khởi nghiệp, xây dựng nền tảng cho việc tìm kiếm đối tác, nền tảng giao kết<br /> và các sự kiện, cổng thông tin ảo. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng cơ sở dữ liệu của<br /> bên yêu cầu, tạo lập các vườn ươm doanh nghiệp có chất lượng, đầu tư các khu công<br /> <br /> 79<br /> nghệ cao, không gian công cộng cho mạng lưới liên kết và làm việc nhóm; cần tăng<br /> cường trao đổi kiến thức và chia sẻ bằng cách tăng cường hợp tác giữa các tổ chức<br /> giáo dục và khởi nghiệp, viện nghiên cứu và khu công nghiệp, chuyển giao và đổi<br /> mới công nghệ trong môi trường kinh doanh, chia sẻ và hợp tác với các doanh nghiệp<br /> khởi nghiệp nước ngoài.<br /> Thứ tư, Chính phủ cần tăng cường hỗ trợ tài chính. Nếu Việt Nam muốn<br /> tập trung phát triển DNKNST để làm đòn bẩy kinh tế, Chính phủ cần tham gia đầu<br /> tư trực tiếp để kích thích tăng trưởng về số lượng và chất lượng các DNKNST, đặc<br /> biệt là giai đoạn đầu. Các khoản hỗ trợ tài chính, cho vay, bảo lãnh tín dụng, đầu<br /> tư mạo hiểm. Miễn, giảm các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước (ví dụ miễn giảm<br /> thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, giảm các mức đóng góp cho bảo<br /> hiểm xã hội…).<br /> Phát triển thêm các kênh huy động vốn cho DNKNST, chú trọng huy động<br /> vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nghiên cứu và triển khai sàn giao dịch chứng<br /> khoán dành cho các DNKNST, giúp các DN huy động vốn trực tiếp từ xã hội góp<br /> phần tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn về vốn.<br /> Nhà nước khuyến khích các nhà đầu tư thiên thần, thành lập các quỹ đầu tư<br /> mạo hiểm, kêu gọi khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động đầu tư mạo hiểm cho<br /> DNKNST. Xây dựng Quỹ đầu tư cho DNKNST theo mô hình hợp tác công - tư thuộc<br /> Chính phủ, nhằm mục đích kêu gọi vốn đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho<br /> các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tiềm năng. Quỹ đầu tư này sẽ được đăng ký<br /> hoạt động theo mô hình Công ty đầu tư tài chính và ủy thác đầu tư. Phần lợi nhuận<br /> tạo ra từ nguồn đầu tư của Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư<br /> cho hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DNKNST, cũng như đầu tư trực tiếp cho<br /> DNKNST tiềm năng.<br /> Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hỗ trợ kinh doanh giúp các DNKNST<br /> vượt qua được các khó khăn về kinh doanh do thiếu các kiến thức cần thiết về kinh<br /> tế, quảng bá và kết nối mạng lưới. Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây<br /> dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ<br /> tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng. Hỗ trợ kết nối để các<br /> DNKN có thể tiếp cận được mạng lưới các nhà đầu tư, các đơn vị, chương trình, dự<br /> án hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Hỗ trợ trong thực hiện các thủ tục hành chính liên<br /> quan tới gia nhập thị trường, bảo hộ sở hữu trí tuệ, thương mại hóa sản phẩm.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 80<br /> Chú thích:<br /> [1]: Quyết định của Bộ trưởng Công Thương Ấn Độ ngày 23/5/2017 (thay thế<br /> Quyết định ngày 17/2/2016).<br /> [2], [3]: https://www.startupdecisions.com.sg/ và http://www.startupsg.net<br /> [4]: http://dean844.most.gov.vn/giai-nut-that-cho-cac-mo-hinh-kinh-doanh-<br /> moi-va-khoi-nghiep-sang-tao.htm<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> A. Tài liệu tiếng Anh:<br /> 1. State's Startup Policies, https://www.startupindia.gov.in/content/sih/en/startup-<br /> scheme/state-startup-policies.html<br /> 2. Why Incorporate and Launch Your Company in Singapore,<br /> https://www.startupdecisions.com.sg/singapore/incorporation/why-<br /> incorporate-in-singapore/<br /> <br /> B. Tài liệu tiếng Việt:<br /> 1. Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam<br /> (2016), Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về việc phê duyệt<br /> Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025,<br /> http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_i<br /> d=2&_page=1&mode=detail&document_id=184702.<br /> 2. Học viện tài chính (2017), Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp khởi<br /> nghiệp ở Việt Nam - Đề tài khoa học cấp Bộ.<br /> 3. Ngô Minh Hải; Đoàn Đức Minh; Lý Đình Quân; Ngô Công Trường (2018),<br /> Startup journey: Con đường khởi nghiệp sáng tạo cho doanh nhân Việt, NXB<br /> Thế giới ; Công ty Văn hoá và Truyền thông AZ Việt Nam, Hà Nội.<br /> 4. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2017), “Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá chính sách thúc<br /> đẩy khởi nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí khoa học, Đại học Quốc<br /> gia Hà Nội, Chuyên san Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Vol. 33, No 3.<br /> 5. Như Bình (2016), Sẽ có sàn chứng khoán cho doanh nghiệp khởi nghiệp,<br /> https://tuoitre.vn/se-co-san-chung-khoan-cho-doanh-nghiep-khoi-nghiep-<br /> 1114624.htm.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 81<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2