Hội thảo “Phát Triển Bền Vững Nghề Cá ở ĐBSCL – Những Thách Thức Trong Tương Lai” - Đồng Tháp - 05/06/2009<br />
<br />
CƠ HỘI PHÁT TRIỂN TỪ NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI<br />
NHẬP QUỐC TẾ CỦA NGÀNH SẢN XUẤT CÁ TRA VIỆT NAM<br />
TS Nguyễn Minh Đức*<br />
Email: nmduc@hcmuaf.edu.vn<br />
Cơ hội từ quá trình hội nhập kinh tế thế giới của ngành sản xuất cá tra Việt Nam<br />
Ngành thủy sản vốn được xem là một trong những ngành sớm hội nhập với nền<br />
kinh tế thế giới kể từ khi nước nhà thống nhất. Từ những năm 1980s, thủy sản luôn được<br />
xem là một mặt hàng xuất khNu chủ lực của Việt Nam. Sau khi gia nhập Khối Hợp Tác<br />
Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), bên cạnh nghề nuôi và chế biến tôm, ngành<br />
công nghiệp sản xuất cá tra, cá basa của đất nước đã phát triển nhanh chóng (Cohen and<br />
Hiebert, 2001), tạo ra công ăn việc làm cho hơn 500.000 lao động (Narog, 2003). Trong<br />
quá trình hội nhập kinh tế thế giới, sự hợp tác với các nước tiên tiến cũng đã đem lại những<br />
tiến triển tích cực cho nghề nuôi cá tra ở Việt Nam. Trong sự cộng tác gần gũi với các nhà<br />
nghiên cứu thủy sản của Pháp, các giảng viên của Khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm TPHCM<br />
và ĐH Cần Thơ đã nghiên cứu và chuyển giao thành công qui trình sản xuất giống nhân<br />
tạo cá tra và cá basa từ năm 1998, gầy dựng nên một lực lượng sản xuất giống cá tra, cá<br />
basa nhân tạo với hơn 15.000 nông hộ liên quan (Cohen and Hiebert, 2001). Sự đầu tư<br />
mạnh mẽ cho việc nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá tra, basa cũng xuất phát từ những<br />
thách thức về sự cạn kiệt nguồn giống tự nhiên trên sông Cửu Long và sự hạn chế đánh bắt<br />
cá tra giống trên sông Mekong của Campuchia. Để đảm bảo năng suất cao và ổn định,<br />
nghề nuôi cá tra ở Việt Nam cũng đã chuyển sang sử dụng thức ăn viên là chủ yếu, được<br />
sản xuất chủ yếu bởi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài như Cargill - Mỹ, Proconco Pháp, CP Groups - Thái lan, Uni-President - Đài Loan,... (Cohen and Hiebert, 2001;<br />
Sengupta, 2003, Nguyễn Minh Đức and Kinnucan, 2008). Kỹ thuật cho cá ăn và quản lý<br />
chất lượng nước để cải thiện chất lượng thịt cá cũng được cải tiến để đáp ứng những yêu<br />
cầu ngày càng cao của các khách hàng Mỹ và châu Âu. Các doanh nghiệp chế biến cá tra<br />
cũng đã ứng dụng các kỹ thuật phi lê cá từ một nhà nhập khấu Úc và sử dụng các trang<br />
thiết bị sản xuất được mua từ Mỹ (Cohen and Hiebert, 2001), với mong muốn đáp ứng các<br />
tiêu chuNn chất lượng HACCP và GAP được đề nghị bởi Tổ chức Lương nông Thế giới<br />
(FAO) và Bộ Thực phNm và Dược phNm của Mỹ.<br />
<br />
*<br />
<br />
Trưởng Bộ Môn Quản Lý và Phát Triển Nghề Cá, Khoa Thủy Sản, ĐH Nông Lâm TPHCM.<br />
Bài viết chỉ thể hiện quan điểm cá nhân, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Khoa Thủy Sản, Đại Học<br />
Nông Lâm TPHCM.<br />
<br />
Nguyễn Minh Đức<br />
<br />
1<br />
<br />
Hội thảo “Phát Triển Bền Vững Nghề Cá ở ĐBSCL – Những Thách Thức Trong Tương Lai” - Đồng Tháp - 05/06/2009<br />
<br />
Hưởng lợi từ việc Việt Nam gia nhập APEC và đặc biệt là từ Hiệp định thương mại<br />
song phương Việt Nam-Mỹ được ký kết vào tháng 12 năm 2001, lượng xuất khNu cá tra,<br />
basa vào thị trường Mỹ đã gia tăng nhanh chóng. Trong năm 1998, trước khi gia nhập<br />
APEC, lượng xuất khNu cá tra, basa vào thị trường Mỹ chỉ ít ỏi với hơn 200 tấn. Nhưng<br />
đến năm 2002 sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam và ký Hiệp định thương mại song phương<br />
vào tháng 12 năm 2001, số lượng xuất khNu cá tra basa vào thị trường Mỹ đã lên đến gần<br />
20.000 tấn (Sengupta, 2003). Việc gia tăng nhanh chóng này ngoài lý do là hàng rào thuế<br />
quan đối với sản phNm thủy sản gần như đã được bãi bỏ còn có lý do nguồn cung cấp cá<br />
tra, cá basa tăng nhanh chóng sau khi Việt nam đã thành công trong việc ứng dụng kỹ thuật<br />
sản xuất giống nhân tạo trên cả hai đối tượng cá tra, cá basa và kỹ thuật nuôi cá tra thịt<br />
trắng.<br />
Với tính chất và mùi vị thịt cá tương tự như cá nheo được nuôi tại Mỹ (US ITC,<br />
2002), nhưng với giá thấp hơn rất nhiều, cá tra Việt Nam đã thâm nhập thành công thị<br />
trường Mỹ và trở thành một mặt hàng xuất khNu chủ lực của Việt Nam vào thị trường này<br />
trong những năm đầu thập niên 2000 khi mà 90% lượng cá da trơn nhập khNu vào Mỹ<br />
trong năm 2000 là từ Việt Nam (Cohen and Hiebert, 2001). Tuy nhiên, với sự tăng trưởng<br />
mạnh mẽ của kim ngạch xuất khNu, cá tra Việt Nam đã phải đương đầu với những rào cản<br />
thương mại “hiện đại” từ phía nước chủ nhà để bảo hộ cho ngành công nghiệp nuôi và chế<br />
biến cá nheo, một trong những ngành sản xuất thủy sản lớn nhất của Mỹ (Harvey, 2005).<br />
Những biện pháp bảo hộ được đưa ra liên tục và báo chí thế giới đã sử dụng tên gọi “cuộc<br />
chiến cá da trơn” để đề cập đến những tranh chấp thương mại giữa cá tra Việt Nam và cá<br />
nheo Mỹ.<br />
Bước đầu tiên của “cuộc chiến cá da trơn” là việc vận động của Hiệp Hội Cá Da<br />
Trơn miền Nam nước Mỹ để Quốc Hội của họ thông qua đạo luật ghi nhãn catfish năm<br />
2001, giới hạn việc sử dụng tên “catfish” chỉ dành cho cá da trơn thuộc họ Ictaluridae đang<br />
được nuôi ở Mỹ (Narog, 2003). Bước tiếp theo là việc vận động hành lang để tái thỏa<br />
thuận lại Hiệp ước thương mại song phương được ký giữa hai nước Việt Nam và Mỹ năm<br />
2001 nhằm tiến đến một hạn ngạch nhập khNu nhất định cho cá tra Việt Nam nhập vào Mỹ<br />
(Cooper, 2001), nhưng việc vận động này đã thất bại do những qui định của Tổ chức<br />
Thương mại Quốc tế (WTO). Bước thứ ba và là đỉnh điểm của “cuộc chiến cá da trơn” là<br />
quá trình điều tra và áp thuế chống phá giá lên đến 64% đối với sản phNm cá tra, basa phi<br />
lê đông lạnh từ Việt Nam vào Mỹ. Năm 2005, “cuộc chiến cá da trơn” tiếp diễn với bước<br />
ngoặt mới khi các bang Mississippi, Alabama, Georgia và Louisiana ra lệnh cấm bán cá<br />
<br />
Nguyễn Minh Đức<br />
<br />
2<br />
<br />
Hội thảo “Phát Triển Bền Vững Nghề Cá ở ĐBSCL – Những Thách Thức Trong Tương Lai” - Đồng Tháp - 05/06/2009<br />
<br />
catfish nhập khNu từ nước ngoài (bao gồm Việt Nam) sau khi phát hiện ra dư lượng chất<br />
kháng sinh trong các mẫu kiểm nghiệm. Tháng Năm năm 2008, Quốc hội Mỹ cũng đã<br />
thông qua “Đạo luật Nông trại 2008”(“Farm Bill 2008”) đề nghị đưa cá da trơn (kể cả cá<br />
tra, basa Việt Nam) vào danh mục các loại thực phNm phải được kiểm soát chất lượng và<br />
điều kiện vệ sinh nghiêm ngặt theo các quy định của Bộ Nông Nghiệp Mỹ.<br />
Cho dù gây ra nhiều khó khăn cho ngành sản xuất cá tra Việt Nam, “cuộc chiến cá<br />
da trơn” cũng đã tạo ra nhiều cơ hội rất tốt để cho cá tra phát triển thành mặt hàng xuất<br />
khNu chủ lực của Việt Nam, “từ cô bé lọ lem biến thành công chúa”. Sau khi Đạo luật An<br />
ninh Trang trại và Đầu tư Nông thôn của Mỹ năm 2001 được ban hành không cho phép cá<br />
tra Việt nam mang tên catfish, không như những lo lắng của các nhà sản xuất cá tra Việt<br />
Nam, cá phi lê đông lạnh của Việt nam vẫn giữ được thị trường Mỹ dù số lượng xuất khNu<br />
sang Mỹ có suy giảm trong giai đoạn cao trào của “cuộc chiến” nhưng với giá cao hơn chút<br />
ít (Bảng 1). Việc thay đổi tên gọi của cá tra Việt Nam đã không ảnh hưởng đến các mối<br />
quan hệ thương mại đã được thiết lập giữa các nhà kinh doanh xuất khNu Việt Nam và<br />
nhập khNu Mỹ (Brambilla và ctv., 2008). Các nghiên cứu thực nghiệm với các mô hình<br />
kinh tế lượng của Nguyễn Minh Đức và Kinnucan (2007a, 2007b, 2008) cũng khẳng định<br />
rằng đạo luật ghi nhãn catfish năm 2001 lại tạo ra các tác động tích cực đối với giá cá tra<br />
Việt Nam nhập khNu vào thị trường Mỹ.<br />
Bảng 1. Giá và Sản Lượng Cá Da Trơn tại Thị Trường Mỹ 1999-2005<br />
Đơn vị<br />
<br />
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005<br />
<br />
Giá cá phi lê Việt Nam<br />
<br />
$/lb.<br />
<br />
2.04<br />
<br />
1.52<br />
<br />
1.26<br />
<br />
1.29<br />
<br />
1.21<br />
<br />
1.15<br />
<br />
0.93<br />
<br />
Giá cá phi lê Mỹ<br />
<br />
$/lb.<br />
<br />
2.76<br />
<br />
2.83<br />
<br />
2.61<br />
<br />
2.39<br />
<br />
2.41<br />
<br />
2.62<br />
<br />
2.67<br />
<br />
Thuế chống phá giá<br />
<br />
$/lb.<br />
<br />
--<br />
<br />
--<br />
<br />
--<br />
<br />
--<br />
<br />
0.64<br />
<br />
0.61<br />
<br />
0.49<br />
<br />
Giá cá nuôi Mỹ<br />
<br />
$/lb.<br />
<br />
74<br />
<br />
75<br />
<br />
65<br />
<br />
57<br />
<br />
58<br />
<br />
70<br />
<br />
72<br />
<br />
2<br />
<br />
7<br />
<br />
17<br />
<br />
10<br />
<br />
4<br />
<br />
7<br />
<br />
17<br />
<br />
Sản lượng cá phi lê Mỹ Triệu lbs. 120<br />
<br />
120<br />
<br />
115<br />
<br />
131<br />
<br />
125<br />
<br />
122<br />
<br />
124<br />
<br />
Sản lượng cá nuôi Mỹ<br />
<br />
594<br />
<br />
597<br />
<br />
631<br />
<br />
661<br />
<br />
630<br />
<br />
601<br />
<br />
Nhập khNu từ Việt Nam Triệu lbs.<br />
<br />
Triệu lbs. 597<br />
<br />
Nguồn: Nguyễn Minh Đức (2007).<br />
Sau cuộc tranh chấp tên gọi, dù phía Việt Nam đã không thể thắng, đã có một kết<br />
quả mà Hiệp hội cá da trơn của Mỹ không ngờ tới cũng như các nhà sản xuất cá tra của<br />
Việt Nam không mong đợi. Đó là sự “nổi tiếng” của cá tra, cá basa Việt nam, không chỉ ở<br />
thị trường Mỹ mà còn trên toàn thị trường thế giới. Với sự năng động của các nhà xuất<br />
<br />
Nguyễn Minh Đức<br />
<br />
3<br />
<br />
Hội thảo “Phát Triển Bền Vững Nghề Cá ở ĐBSCL – Những Thách Thức Trong Tương Lai” - Đồng Tháp - 05/06/2009<br />
<br />
khNu thũy sản Việt Nam trước tình hình khó khăn ở thị trường Mỹ, cá tra Việt nam đã có<br />
cơ hội vươn tới những thị trường rộng lớn khác như châu Âu, Úc, Nhật. Các nhà sản xuất<br />
Việt nam cũng có cơ hội đa dạng hóa sản phNm cá tra, cá basa của mình để phục vụ cho<br />
các thị trường khác nhau. Nalley (2007) đã khẳng định rằng đạo luật ghi nhãn năm 2001 đã<br />
tạo ra một thị trường mới cho cá tra, cá basa Việt Nam và làm giảm thị trường của cá nheo<br />
Mỹ. Một nghiên cứu của Tô Thị Kim Hồng, Nguyễn Minh Đức và Kinnucan (2008) cũng<br />
chứng minh rằng đạo luật ghi nhãn của Mỹ năm 2001 không làm thay đổi độ nhạy cảm với<br />
giá của nhu cầu cá da trơn nhập khNu (bao gồm cả cá tra, basa Việt Nam) vào Mỹ.<br />
Đối với quá trình chống bán phá giá, với các mô hình nghiên cứu kinh tế lượng<br />
thực nghiệm, Nguyễn Minh Đức (2007), Nguyễn Minh Đức và Kinnucan (2007a, 2007b,<br />
2008) đã khẳng định rằng thuế chống phá giá chỉ làm tăng rất ít nhu cầu và giá sản phNm<br />
cá nheo Mỹ trong khi không tạo ra một lợi ích nào cho người nuôi cá nheo của Mỹ. Lý do<br />
chính là cá nheo phi lê ở Mỹ không phải là một sản phNm thay thế cho sản phNm cá tra Việt<br />
Nam do giá cá nheo của Mỹ quá cao và có một thị trường riêng cho nó. Trong khi đó, cá<br />
tra lại là một sản phNm có khả năng thay thế sản phNm cá nheo tại thị trường Mỹ, dù có<br />
chịu thuế chống phá giá, giá cá tra Việt Nam vẫn rẻ hơn so với giá cá nheo Mỹ. Khi giá<br />
của sản phNm cá nheo Mỹ tăng lên, người tiêu dùng Mỹ sẽ chuyển sang sử dụng cá tra Việt<br />
Nam trong khi chiều ngược lại rất khó xảy ra. Nguyễn Minh Đức và Kinnucan (2007b)<br />
cũng đã cảnh báo rằng biện pháp chống phá giá của Mỹ đối với sản phNm cá tra Việt Nam<br />
sẽ tạo cơ hội cho sản phNm cá da trơn từ các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan gia tăng<br />
nhập khNu vào Mỹ. Điều đó khiến cho các nhà sản xuất cá nheo Mỹ tiếp tục đưa ra các<br />
biện pháp bảo hộ khác, cũng là những thách thức mới cho ngành sản xuất cá tra Việt Nam.<br />
Thách thức hiện nay và cơ hội cho sự phát triển<br />
Dù có những cố gắng nâng cao chất lượng sản phNm cá tra trong nuôi trồng và chế<br />
biến, nhìn chung ngành sản xuất cá tra Việt Nam trong hơn một thập niên qua vẫn đang tập<br />
trung gia tăng sản lượng. Các báo cáo thành tích của các cơ quan chức năng cũng chỉ tập<br />
trung vào số lượng như diện tích, sản lượng nuôi trồng, sản lượng chế biến và sản lượng<br />
xuất khNu,... Sự gia tăng về sản lượng là rất đáng trân trọng trong điều kiện cá tra Việt<br />
Nam luôn phải đối đầu với nhiều thách thức, những rào cản thương mại, sự suy thoái kinh<br />
tế hiện nay và sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các nước xuất khNu cá da trơn khác như<br />
Thái Lan, Trung Quốc,... Tuy nhiên, đi kèm với sự tăng trưởng về sản lượng và số lượng<br />
thị trường lại là một sự suy giảm đáng kể về giá trị trên một đơn vị sản phNm xuất khNu. Ví<br />
dụ tại thị trường Mỹ, giá cá tra xuất khNu Việt Nam liên tục giảm từ năm 1999 đến năm<br />
<br />
Nguyễn Minh Đức<br />
<br />
4<br />
<br />
Hội thảo “Phát Triển Bền Vững Nghề Cá ở ĐBSCL – Những Thách Thức Trong Tương Lai” - Đồng Tháp - 05/06/2009<br />
<br />
2007 (Hình 1). Giá xuất khNu giảm dẫn đến giá thu mua cá nguyên liệu cũng giảm (tính<br />
theo giá trị thực). Việt nam là nước xuất khNu hàng đầu, với số lượng khống chế, các sản<br />
phNm cá tra cho toàn bộ thế giới. Cũng như các sản phNm nông nghiệp khác, nhu cầu cá tra<br />
xuất khNu là không co giãn. Thêm vào đó, việc “độc quyền” trong cung cấp sản lượng cá<br />
tra cho thị trường thế giới, theo lý thuyết của kinh tế thương mại quốc tế, có thể dẫn đến<br />
việc “tăng trưởng bần cùng hóa”. Theo lý thuyết về “tăng trưởng bần cùng hóa”, một hiện<br />
tượng tăng trưởng hiếm có trên thực tế, việc chuyên môn hóa và đNy mạnh cung ứng một<br />
số lượng lớn một mặt hàng xuất khNu có nhu cầu ít nhạy cảm với giá ra thị trường thế giới<br />
sẽ làm giảm giá của sản phNm xuất khNu trong khi giá các mặt hàng nhập khNu (ví dụ: thức<br />
ăn và thuốc thú y thủy sản) lại tăng sẽ góp phần làm “bần cùng hóa” người sản xuất.<br />
450000<br />
<br />
6<br />
<br />
400000<br />
350000<br />
<br />
5<br />
<br />
300000<br />
<br />
4<br />
<br />
250000<br />
3<br />
<br />
200000<br />
150000<br />
<br />
2<br />
<br />
100000<br />
1<br />
<br />
50000<br />
0<br />
<br />
0<br />
19971998199920002001200220032004200520062007<br />
Sản lượng cá tra xuất khẩu<br />
<br />
19971998199920002001200220032004200520062007<br />
<br />
Giá cá tra xu t kh u<br />
<br />
Hình 1. Sự tăng trưởng về sản lượng nhưng giảm sút về giá trị của cá tra xuất kh u<br />
<br />
Hiện nay, với đạo luật Nông trại 2008, một vấn đề lớn mà giới sản xuất cá tra Việt<br />
nam quan tâm là việc Mỹ có thể đưa cá tra Việt Nam vào chung nhóm “catfish” (vô hình<br />
chung đưa cá tra trở lại với tên gọi “catfish”). Theo đó, cá tra Việt nam khi xuất khNu vào<br />
thị trường Mỹ phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phNm<br />
giống như cá nheo được sản xuất tại Mỹ. Ngay từ năm 2008, đã có những cảnh báo từ các<br />
nhà quản lý và nghiên cứu kinh tế thủy sản đối với các nhà sản xuất cá tra Việt Nam về<br />
biện pháp bảo hộ thương mại “hiện đại” này. Thậm chí, nhằm mục đích tránh cho cá tra<br />
khỏi phải chịu sự kiểm tra ngặt nghèo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phNm, một quan<br />
chức trong ngành thủy sản Việt Nam đã lên tiếng yêu cầu Mỹ nên tuân theo đạo luật của<br />
chính họ năm 2001, không nên buộc cá tra Việt Nam quay trở lại với tên gọi “catfish”. Khả<br />
năng hạn chế nhập khNu thức ăn thủy sản từ Mỹ, xem như là một biện pháp trả đũa từ phía<br />
Việt Nam, cũng đồng thời được đề cập đến. Tuy nhiên, nếu điều này xảy ra, một cuộc<br />
tranh chấp thương mại mới sẽ bắt đầu và Việt Nam có thực sự hưởng lợi hay không cũng<br />
<br />
Nguyễn Minh Đức<br />
<br />
5<br />
<br />