Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO ĐƯỜNG MẠCH MÁU <br />
ĐỂ CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI BỆNH VIỆN NGUYỄN TRI PHƯƠNG <br />
Võ Phước Khương*, Phạm Văn Bùi** <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Mục tiêu: Đánh giá bước đầu kết quả phẫu thuật tạo đường mạch máu để chạy thận nhân tạo tại Bệnh viện <br />
Nguyễn Tri Phương. <br />
Phương pháp: phương pháp nghiên cứu mô tả từng trường hợp lâm sàng. 119 phẫu thuật trên 95 bệnh <br />
nhân gồm 33 nam và 62 nữ, tuổi từ 19 đến 87 (TB: 55,2±16,24 tuổi). Vị trí mổ ở cổ tay trái gồm 85 trường hợp, <br />
17 trường hợp ở cẳng tay trái, 14 ở cổ tay phải, 1 trường hợp ở cẳng tay phải và 2 ở khuỷu. Nối tận‐bên hoặc <br />
bên‐bên tĩnh mạch và động mạch bằng chỉ Prolene 7.0, mũi khâu vắt. <br />
Kết quả: Tỉ lệ thành công là 80%. Thời gian mổ từ 45phút đến 180phút (TB: 76,17 ±20,14 phút ). 15 <br />
trường hợp mổ lại 2 lần, 3 trường hợp mổ 3 lần và 1 mổ 4 lần. 2 trường hợp biến chứng hội chứng “cướp máu”, <br />
1 trường hợp vỡ phình mạch ở đường nạch máu, không có trường hợp suy tim. <br />
Kết luận: Phẫu thuật tạo đường mạch máu bằng phương pháp tạo lỗ dò động‐tĩnh nạch ở tay là an toàn và <br />
hiệu quả ở bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối điều trị thận nhân tạo. <br />
Từ khóa: đường dò tĩnh mạch, thận nhân tạo, tỉ lê thông thoáng <br />
<br />
ABSTRACT <br />
VASCULAR ACCESS FOR HEMODIALYSIS AT THE NGUYEN TRI PHUONG HOSPITAL <br />
Vo Phuoc Khuong, Pham Van Bui <br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 39 ‐ 43 <br />
Aims: This study was to initially evaluate the safety and efficacy of internal arteriovenous fistula procedure <br />
for hemodialysis at the Nguyen Tri Phuong hospital. <br />
Methods: 119 internal arteriovenous fistulas created in 95 patients (33men and 62 women) at our hospital <br />
from May 2011 to august 2012. The ages of the patients ranged from 19 to 87, with a mean age of 55.2 <br />
years±16.24. 85 AV fistula at the left wrist, 17 AVF in the left forearm, 14 AVF at the right wrist, 1 in the right <br />
forearm and 2 at the elbow. An end‐to‐side or side‐to‐side fistula was created using continuous 7/0 polypropylene <br />
vascular sutures. <br />
Results: The patency rate was 80%. Mean operative time was 76.17 minutes ± 20.14 (range from 45 to 180 <br />
minutes). In order to continue their treatment, 19 patients needed more than one fistula. The “steal” syndrome <br />
occurred in 2 patients. One aneurysm was breakdown from pressure necrosis. <br />
Conclusions: Internal arteriovenous fistula was the safety and efficacy procedure for management of <br />
patients with end‐stage renal failure. <br />
Keyword: arteriovenous fistula, hemodialysis, patency <br />
<br />
giới <br />
thiệu <br />
phương pháp thận nhân tạo như là <br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
một phương pháp giúp người bệnh thận giai <br />
Bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối cần phải <br />
đoạn cuối duy trì cuộc sống trong một thời gian <br />
điều trị thay thế thận. Năm 1943, Kolff và cs(8) đã <br />
dài. Mỗi lần chạy thận nhân tạo (CTNT), người <br />
* Khoa ngoại thận‐ tiết niệu BV Nguyễn Tri Phương <br />
**BV Nguyễn Tri Phương <br />
Tác giả liên lạc: Bs Võ Phước Khương <br />
ĐT: 0903740583 <br />
Email: vpkhuong@yahoo.com <br />
<br />
40<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
bệnh cần một đường mạch máu để kết nối với <br />
hệ thống máy thận nhân tạo (TNT). Năm 1960, <br />
Quinton và Scribner(12) giới thiệu phương pháp <br />
đặt ống nòng đôi có kết nối ngoài vào động <br />
mạch (ĐM) ở tay và tĩnh mạch (TM) kế cận. <br />
Năm 1985, Krupski và cs(9) mô tả phương pháp <br />
đặt qua da ống kim luồng lớn vào TM lớn (TM <br />
dưới đòn, TM đùi hoặc TM cảnh trong). Hai <br />
phương pháp này giúp bệnh nhân có đường <br />
mạch máu sớm để CTNT, nhưng chúng chỉ là <br />
đường mạch máu tạm thời, được sử dụng từ vài <br />
tuần đến vài tháng và có nguy cơ nhiễm trùng <br />
cao. Do đó, người bệnh CTNT suốt đời cần một <br />
đường mạch máu có lưu lượng và áp lực cao <br />
(của ĐM ) và nằm ở vị trí nông (của TM ) để có <br />
thể đặt kim kết nối với máy mỗi lần CTNT. Năm <br />
1966, Brescia và Cimino(2) đã giới thiệu phương <br />
pháp tạo lỗ dò động tĩnh mạch: nối trực tiếp TM <br />
đầu vào ĐM quay tại vị trí cổ tay, sau 2 tháng, <br />
bệnh nhân có một đường mạch máu nông, lưu <br />
lượng lớn và đủ dài để CTNT trong nhiều năm. <br />
<br />
chọn vị trí xa nhất có thể được, thuận tiện cho <br />
sinh hoạt của người bệnh và thuận tiện cho việc <br />
gắn kim để CTNT. 3 vị trí được chọn: (1) cổ tay: <br />
tạo lỗ dò giữa ĐM quay ‐ TM đầu hoặc ĐM <br />
quay – TM nền (chuyển vị mạch máu). (2) cẳng <br />
tay: tạo lỗ dò giữa ĐM cánh tay – TM đầu. (3) <br />
trên khuỷu: giữa ĐM cánh tay‐ TM đầu hoặc <br />
ĐM cánh tay – TM nền (chuyển vị mạch máu). <br />
Nối tận – bên hoặc bên – bên bằng chỉ Prolene <br />
7.0, mũi khâu vắt. <br />
<br />
Qua một năm thực hiện, chúng tôi muốn <br />
đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật tạo <br />
đường mạch máu trên bệnh nhân suy thận giai <br />
đoạn cuối để CTNT tại bệnh viện Nguyễn Tri <br />
Phương. <br />
<br />
Chúng tôi thực hiện 119 phẫu thuật trên 95 <br />
bệnh nhân bao gồm 33 nam (34.7%) và 62 nữ <br />
(65.26%). Tuổi từ 19 tuổi đến 87 tuổi (trung bình <br />
55.2 ±16.24 tuổi). 58 trường hợp phẫu thuật sau <br />
khi đã được điều trị TNT (61.05%). 37 trường <br />
hợp có tiền căn tiểu đường (39%), hai trường <br />
hợp bệnh thận do lupus. <br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br />
<br />
Đánh giá phẫu thuật thành công sau 4 tuần <br />
đến 6 tuần, đường TM đã động mạch hóa có thể <br />
gắn kim và đủ lưu lượng để CTNT. Phẫu thuật <br />
thất bại khi đường mạch máu không hoạt động <br />
hoặc hoạt động không đủ lưu lượng để CTNT, <br />
phải mổ lại đường mới. Thất bại sớm: trước 2 <br />
tháng, muộn: sau 2 tháng. Ghi nhận: thời gian <br />
mổ, các tai biến, biến chứng sớm và muộn. Số <br />
liệu được phân tích bằng phần mềm Excel 2007. <br />
<br />
KẾT QUẢ <br />
<br />
Nghiên cứu được thực hiện theo phương <br />
pháp mô tả từng trường hợp lâm sàng. Toàn bộ <br />
gồm 119 phẫu thuật trên 95 bệnh nhân, bao gồm <br />
33 nam, 62 nữ được chẩn đoán suy thận giai <br />
đoạn cuối có chỉ định CTNT hoặc đã được điều <br />
trị TNT. Độ tuổi từ 19 tuổi đến 87 tuổi (TB: 55.2 ± <br />
16.24 tuổi ). Tất cả các trường hợp đều được <br />
phẫu thuật tạo lỗ dò động‐tĩnh mạch theo <br />
phương pháp của Brescia và Cimino từ tháng 5‐<br />
2011 đến tháng 8‐2012 tại bệnh viện Nguyễn Tri <br />
Phương. Bệnh nhân không bị suy tim, không có <br />
rối loạn về đông máu. <br />
<br />
Vị trí tạo lỗ dò được chọn lựa theo thứ tự từ <br />
xa đến gần, tay không thuận rồi đến tay thuận. <br />
85 trường hợp ở cổ tay trái, 17 TH cẳng tay trái, <br />
14 TH cổ tay phải, một ở cẳng tay phải và hai ở <br />
khuỷu tay. <br />
<br />
Đây là phẫu thuật vi phẫu, được thực hiện <br />
trong phòng mổ vô trùng. Kháng sinh dự phòng <br />
được sử dụng. Phương pháp vô cảm là tê tại chổ <br />
hoặc tê tùng cánh tay. <br />
<br />
Tỉ lệ thành công sau 1 lần mổ là 80%. 19 <br />
trường hợp bao gồm 12 nữ và 7 nam cần phải <br />
mổ lại. 15 trường hợp mổ 2 lần, ba mổ 3 lần và <br />
một mổ 4 lần. Đường mạch máu không hoạt <br />
động sớm 2 tháng gồm 4 nam và 4 nữ. Trong 19 <br />
trường hợp thất bại có 10 trường hợp có tiền căn <br />
tiểu đường (52,63%). Hai trường hợp tiền căn <br />
Lupus đều phải mổ lại: một mổ 2 lần; trường <br />
hợp còn lại mổ 4 lần sau đó chuyển phương <br />
pháp điều trị thẩm phân phúc mạc. Phần lớn các <br />
trường hợp thất bại sớm là do mạch máu quá <br />
nhỏ (11/16 trường hợp). 8 trường hợp thất bại <br />
muộn đều do hẹp mạch máu và cục máu đông. <br />
Thời gian mổ từ 45 phút đến 180 phút (trung <br />
bình 76.17±20.14 phút). Hai trường hợp biến <br />
chứng trễ là hội chứng cướp máu, một trường <br />
hợp bị vỡ phình mạch, không có trường hợp nào <br />
bị suy tim. <br />
Bảng 2: tỉ lệ thất bại sớm <br />
Vị trí mổ<br />
Cổ tay trái<br />
Cẳng tay trái<br />
Cổ tay phải<br />
<br />
N<br />
85<br />
18<br />
14<br />
<br />
Nữ<br />
58<br />
13<br />
8<br />
<br />
Tỉ lệ thất bại sớm<br />
17.24%<br />
23.07%<br />
12.5%<br />
<br />
BÀN LUẬN <br />
Số lượng bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn <br />
cuối cần điều trị thay thế thận ngày càng gia <br />
tăng. Trong khi ghép thận có chi phí cao và <br />
nguồn cho thận giới hạn; thẩm phân phúc mạc <br />
chưa được phát triển rộng rãi, thì TNT là lựa <br />
chọn điều trị khả thi để kéo dài đời sống cho <br />
người bệnh. Đường mạch máu để CTNT được <br />
xem như là đường sống còn của người bệnh. <br />
Phẫu thuật viên không chỉ phẫu thuật tạo lỗ <br />
dò đường mạch máu mà còn phải đảm bảo <br />
đường mạch máu đó có đủ chiều dài và lưu <br />
lượng để sử dụng an toàn trong nhiều năm <br />
còn lại của người bệnh. <br />
Vị trí đầu tiên thường được chúng tôi chọn <br />
lưa để phẫu thuật là ở cổ tay của tay không <br />
thuận, nối giữa TM đầu và ĐM quay, đây là vị <br />
trí xa nhất để tạo ra đường mạch máu dài nhất <br />
có thể được. Theo hướng dẫn thực hành lâm <br />
sàng của Hội thận quốc tế (DOQI )(15), cũng như <br />
hầu hết các báo cáo đều chọn vị trí cổ tay là vị trí <br />
đầu tiên để tạo đường mạch máu. Nếu thất bại, <br />
những lần mổ sau, vị trí lần lượt gần hơn ở cẳng <br />
tay cho đến dưới và trên khuỷu, nối giữa TM <br />
<br />
42<br />
<br />
đầu và ĐM cánh tay. Sau đó, trên khuỷu có thể <br />
là đường mạch máu chuyển vị, nối giữa TM nền <br />
và ĐM cánh tay, do TM nền đi mặt trong cánh <br />
tay, đi sâu dưới các lớp cơ rồi vào hố nách. <br />
Thông thường sau 3 tháng, chúng tôi thực hiện <br />
phẫu thuật “ nông hóa mạch máu” đường mạch <br />
máu này để thuận tiện gắn kim CTNT(3,14). <br />
<br />
<br />
Hình 1: Vị trí tạo lỗ dò ở cổ tay. Nguồn: Turmel‐<br />
Rodrigues L (2000) “Treatment of stenosis and thrombosis <br />
in haemodialysis fistulas and grafts by interventional <br />
radiology”(17). <br />
<br />
20% các trường hợp của chúng tôi có đường <br />
mạch máu không hoạt động được sau lần mổ <br />
đầu tiên. Theo Feldman và cs(5) tỉ lệ này thay đổi <br />
từ 9% đến 30%. Reilly và cs(13) báo cáo 20% thất <br />
bại trên 148 phẫu thuật nối tận‐ bên ở cổ tay. <br />
Palder và cs(11) thất bại 24%, phải mổ lại trên 154 <br />
phẫu thuật. Nguyên nhân thất bại (sớm