Đỗ Lê Thùy<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
89(01/2): 301 – 306<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ SỰ TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ ARV VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN<br />
Ở BỆNH NHÂN HIV/AIDS ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN A<br />
THÁI NGUYÊN<br />
Đỗ Lê Thuỳ<br />
Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Tuân thủ điều trị là yếu tố sống còn trong điều trị ARV ở bệnh nhân HIV/AIDS,<br />
quyết định thành công của điều trị. Chương trình chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS<br />
bằng thuốc kháng virus đã được triển khai thực hiện tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện A Thái<br />
Nguyên đã được hơn 5 năm nhưng việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân chưa được đánh giá.<br />
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tuân thủ điều trị ARV và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị của<br />
bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ngoại trú tại bệnh viện A Thái Nguyên.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 252 bệnh nhân HIV/AIDS đang khám và điều trị<br />
ngoại trú bằng thuốc ARV tại phòng khám ngoại trú bệnh viện A. Bệnh nhân được phỏng vấn trực<br />
tiếp tại phòng khám các nội dung về kiến thức và thực hành tuân thủ điều trị. Thông tin được thu<br />
thập vào bộ câu hỏi thống nhất.<br />
Kết quả: Tỉ lệ tuân thủ điều trị ARV là 81,3%. Tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị đúng trong vòng 3<br />
tháng là 91,3%. 71,8% bệnh nhân quên hoặc chậm uống thuốc theo giờ qui định là do bận hoặc<br />
mải làm quên uống thuốc. 6,8% bệnh nhân do thiếu thuốc nên không có thuốc uống. Không có mối<br />
liên quan giữa tuân thủ điều trị với tuổi, trình độ văn hóa, khoảng cách đến phòng khám ngoại trú<br />
và thu nhập bình quân/tháng. Có mối liên quan giữa tuân thủ điều trị với tỉ lệ gặp tác dụng phụ của<br />
thuốc khiến bệnh nhân phải ngừng thuốc.<br />
Kết luận: Để tăng cường hơn nữa sự tuân thủ điều trị ARV cần cung cấp cho người bệnh những<br />
kiến thức về tác dụng phụ của thuốc.<br />
Từ khóa: Tuân thủ điều trị ARV, ARV, VIỆN A, HIV/AIDS<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải<br />
(Acquired Immunodeficiency Syndromes –<br />
AIDS) do virus gây suy giảm miễn dịch ở<br />
người (Human Immunodeficiency Virus –<br />
HIV) ngày nay đã trở thành đại dịch toàn cầu,<br />
là mối hiểm họa đối với tính mạng, sức khoẻ<br />
con người, tương lai giống nòi của dân tộc,<br />
tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế,<br />
văn hóa, trật tự và an toàn xã hội, đe dọa sự<br />
phát triển bền vững của đất nước. Kể từ ca<br />
nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện năm 1990<br />
tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho đến nay cả<br />
nước ước tính có trên 254.000 người đang<br />
sống với HIV/AIDS và đại dịch HIV/AIDS<br />
cũng đã cướp đi sinh mạng trên 48.000 người<br />
bị nhiễm HIV/AIDS. Đại dịch HIV/AIDS<br />
không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến những<br />
người nhiễm HIV/AIDS mà còn làm cho hàng<br />
*<br />
<br />
trăm ngàn người có người thân bị nhiễm<br />
HIV/AIDS đã và đang đã phải chịu ảnh<br />
hưởng nặng nề về tinh thần và vật chất do<br />
HIV/AIDS mang lại [1], [2], [3].<br />
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện nay y<br />
học vẫn chưa tìm ra được thuốc loại bỏ hoàn<br />
toàn HIV ra khỏi cơ thể người bệnh. Để<br />
chống lại sự nhân lên của HIV và kéo dài<br />
cuộc sống cho người bệnh, vũ khí duy nhất<br />
hiện nay là thuốc kháng virus (ARV). Từ năm<br />
2005, với sự nỗ lực của Chính phủ và sự giúp<br />
đỡ của các tổ chức quốc tế, các chương trình<br />
điều trị thuốc ARV miễn phí bắt đầu được<br />
triển khai và liên tục được mở rộng trên toàn<br />
quốc. Tính đến cuối năm 2009, theo báo cáo<br />
của Cục phòng chống HIV/AIDS - Bộ Y tế,<br />
đã có trên 35.000 bệnh nhân HIV/AIDS được<br />
điều trị thuốc ARV. Chiến lược Quốc gia về<br />
phòng chống HIV/AIDS đến năm 2010 và<br />
tầm nhìn 2020 đề ra đến năm 2010 phấn đấu<br />
đạt 70% số bệnh nhân AIDS được điều trị<br />
301<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Lê Thùy<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
ARV [9]. Tuy nhiên, điều trị thuốc ARV cũng<br />
đặt ra một thách thức mới - nguy cơ kháng<br />
thuốc và thất bại điều trị. Mục đích của điều<br />
trị ARV là duy trì sự sống của người bệnh<br />
nhưng thất bại điều trị do HIV kháng lại<br />
thuốc có khi phải trả giá bằng sinh mạng<br />
người bệnh. Vì vậy, tuân thủ điều trị là yếu tố<br />
sống còn trong điều trị ARV ở bệnh nhân<br />
HIV/AIDS và quyết định thành công của quá<br />
trình điều trị. Không tuân thủ điều trị sẽ dẫn<br />
đến tình trạng kháng thuốc của HIV.<br />
Thành phố Thái Nguyên là một trong những<br />
tỉnh có số người nhiễm HIV/AIDS cao nhất<br />
trong cả nước, chiều hướng lây nhiễm HIV<br />
chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn<br />
và dùng chung bơm kim tiêm. Tại Thái<br />
Nguyên từ năm 2006 đã bắt đầu thực hiện<br />
chương trình chăm sóc và điều trị HIV/AIDS<br />
bằng thuốc ARV tại các phòng khám ngoại<br />
trú. Tuy nhiên từ đó đến nay chưa có nghiên<br />
cứu nào được thực hiện để đánh giá về việc<br />
tuân thủ điều trị ARV ở bệnh nhân<br />
HIV/AIDS. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài<br />
“Đánh giá sự tuân thủ điều trị ARV và một<br />
số yếu tố liên quan của bệnh nhân<br />
HIV/AIDS điều trị ngoại trú tại bệnh viện A<br />
Thái Nguyên” với 2 mục tiêu:<br />
1. Đánh giá sự tuân thủ điều trị ARV của<br />
bệnh nhân HIV/AIDS điều trị ngoại trú tại<br />
bệnh viện A Thái Nguyên.<br />
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến điều trị<br />
ARV ở bệnh nhân HIV/AIDS.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
252 bệnh nhân HIV/AIDS đang khám và điều<br />
trị ngoại trú tại Bệnh viện A Thái Nguyên.<br />
* Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu:<br />
- Bệnh nhân HIV/AIDS trên 18 tuổi.<br />
- Bệnh nhân HIV/AIDS có thời gian điều trị<br />
ARV trên 1 tháng.<br />
- Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cứu<br />
* Tiêu chuẩn loại trừ:<br />
- Bệnh nhân HIV/AIDS không tham gia điều<br />
trị ARV<br />
<br />
89(01/2): 301 – 306<br />
<br />
- Bệnh nhân có thời gian điều trị ARV dưới 1<br />
tháng.<br />
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia vào<br />
nghiên cứu<br />
* Địa điểm nghiên cứu<br />
Phòng khám ngoại trú cho bệnh nhân<br />
HIV/AIDS tại Bệnh viện A Thái Nguyên<br />
* Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3 năm<br />
2011 đến tháng 12 năm 2011.<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp<br />
chọn mẫu thuận tiện những bệnh nhân<br />
HIV/AIDS đang điều trị ARV từ 1 tháng trở<br />
lên đến tái khám định kỳ tại phòng khám<br />
ngoại trú bệnh viện A Thái Nguyên.<br />
Cỡ mẫu: Với độ tin cậy 95%, tỉ lệ tuân thủ<br />
điều trị là 80% (dựa theo số liệu nghiên cứu<br />
về tỉ lệ tuân thủ điều trị của Võ Thị Năm [6]<br />
và Hà Thị Minh Đức [5]) với sai số cho phép<br />
là 5%, cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu là 245<br />
bệnh nhân đang điều trị với ARV, được làm<br />
tròn thành 250 để bù những trường hợp mất<br />
dữ kiện.<br />
Phương pháp thu thập số liệu<br />
Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực<br />
tiếp về tuân thủ điều trị ARV bao gồm những<br />
hiểu biết về tuân thủ điều trị ARV và thực<br />
hành tuân thủ điều trị (giờ uống thuốc, số lần<br />
quên/chậm uống thuốc trong 1 tháng, 3 tháng<br />
và 6 tháng gần đây, xử trí khi nôn thuốc, khi<br />
gặp tác dụng phụ của thuốc…). Những biến<br />
số nền gồm tuổi, giới, nghề nghiệp, trình độ<br />
học vấn, thời gian điều trị ARV, người hỗ trợ<br />
điều trị, tình trạng hôn nhân, đối tượng sống<br />
chung và thu nhập bình quân/tháng. Số liệu<br />
nghiên cứu được thu thập vào bộ câu hỏi<br />
thống nhất (phụ lục)<br />
Xử lý số liệu<br />
Số thống kê mô tả gồm tần số và tỉ lệ phần<br />
trăm. Phép kiểm tra chi bình phương được sử<br />
dụng để so sánh các tỉ lệ. Số liệu được xử lý<br />
bằng phần mềm thống kê y học SPSS 16.0.<br />
<br />
302<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Lê Thùy<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Đánh giá sự tuân thủ điều trị ARV của<br />
bệnh nhân HIV/AIDS<br />
Bảng 1: Số lần dùng thuốc trong ngày<br />
Số lần uống<br />
thuốc trong<br />
ngày<br />
Uống thuốc<br />
2 lần/ngày<br />
Uống thuốc<br />
3 lần/ngày<br />
Tổng<br />
<br />
89(01/2): 301 – 306<br />
<br />
Nhận xét: trong vòng 3 tháng gần đây có<br />
8,7% bệnh nhân quên uống thuốc, trong đó 20<br />
bệnh nhân (7,9%) quên uống thuốc dưới 9 lần<br />
và 2 bệnh nhân quên uống thuốc trên 9 lần.<br />
Bảng 4: Tỉ lệ quên thuốc trong 1 tháng gần đây<br />
<br />
Số BN<br />
<br />
Tỷ lệ %<br />
<br />
248<br />
<br />
98,4<br />
<br />
4<br />
<br />
1,6<br />
<br />
252<br />
<br />
100<br />
<br />
Nhận xét: Đa số bệnh nhân uống thuốc đúng<br />
qui định 2 lần/ngày (98%). 4 bệnh nhân uống<br />
thuốc 3 lần/ngày do nôn viên thuốc hoặc tự ý<br />
chia thuốc effaviren uống trước khi đi ngủ do<br />
thuốc gây buồn ngủ. Cách uống thuốc 2<br />
lần/ngày là đúng với hướng dẫn điều trị ARV,<br />
phải uống thuốc cách nhau đúng 12 giờ để<br />
duy trì nồng độ thuốc trong máu ổn định,<br />
tránh tình trạng ngộ độc thuốc do uống quá<br />
gần nhau hoặc kháng thuốc do uống cách<br />
nhau xa quá.<br />
Bảng 2: Tỉ lệ quên thuốc trong 6 tháng gần đây<br />
Số lần quên Số BN<br />
Tỷ lệ %<br />
thuốc trong 6<br />
tháng<br />
19 lần<br />
1<br />
0,4<br />
Không quên lần<br />
205<br />
81,3<br />
nào<br />
Tổng<br />
252<br />
100<br />
<br />
Nhận xét: điều trị HIV/AIDS bằng thuốc<br />
ARV yêu cầu phải uống thuốc thường xuyên,<br />
đúng giờ, và đều đặn suốt đời. Trong nghiên<br />
cứu của chúng tôi, đa số bệnh nhân không<br />
quên uống thuốc (81,3%), tỉ lệ bệnh nhân<br />
quên uống thuốc dưới 18 lần trong vòng 6<br />
tháng gần đây là 18,3%. Có 01 trường hợp<br />
bệnh nhân quên thuốc trên 19 lần.<br />
Bảng 3: Tỉ lệ quên thuốc trong 3 tháng gần đây<br />
Số lần quên thuốc trong 3 Số<br />
Tỷ lệ<br />
tháng<br />
BN<br />
%<br />
10 lần<br />
2<br />
0,8<br />
Không quên lần nào<br />
230<br />
91,3<br />
Tổng<br />
252<br />
100<br />
<br />
Số lần quên thuốc trong<br />
1 tháng<br />
2 giờ<br />
4<br />
Không uống chậm<br />
100<br />
Tổng<br />
252<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
%<br />
42,1<br />
7,1<br />
9,5<br />
1,6<br />
39,7<br />
100<br />
<br />
Nhận xét: đa số bệnh nhân không uống thuốc<br />
chậm hoặc chỉ uống chậm thuốc trong vòng<br />
30 phút (79,8%). Có 4 bệnh nhân uống thuốc<br />
chậm hơn giờ qui định trên 2 giờ.<br />
Khi hỏi lý do khiến bệnh nhân quên hoặc<br />
chậm uống thuốc ghi nhận có 94 trường hợp<br />
(chiếm 71,8%) quên hay chậm uống thuốc do<br />
bận, mải làm nên quên giờ uống thuốc, 28<br />
trường hợp (21,4) là do đi làm xa không mang<br />
theo thuốc. Đặc biệt có 9 trường hợp (6,8%)<br />
do hết thuốc nên không có thuốc uống. Không<br />
có trường hợp nào bỏ uống thuốc do gặp tác<br />
dụng phụ của thuốc hay do nhà xa không đi<br />
lấy thuốc được.<br />
* Xử trí khi quên hay chậm giờ uống thuốc<br />
Khi khảo sát cách xử trí của 121 trường hợp<br />
quên hay chậm uống thuốc có 101 trường hợp<br />
(83,5%) có xử trí đúng là uống ngay khi nhớ<br />
ra và uống liều kế tiếp theo lịch nếu cách<br />
303<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Lê Thùy<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nhau trên 4 giờ. Có 1 trường hợp chậm uống<br />
thuốc 6 giờ và vẫn uống liều kế tiếp theo lịch.<br />
Trong số 40 bệnh nhân (chiếm 15,9%) bị nôn<br />
khi uống thuốc ARV có 24 bệnh nhân có cách<br />
xử trí đúng là uống ngay viên thuốc khác<br />
(60%), tuy nhiên vẫn có 10 trường hợp bỏ<br />
không uống thuốc nữa (25%).<br />
Bảng 6: Xử trí khi quên hay chậm giờ uống thuốc<br />
Số lần quên thuốc trong<br />
1 tháng<br />
Uống ngay khi nhớ ra và uống<br />
liều kế tiếp theo lịch nếu cách<br />
nhau trên 4 giờ<br />
Uống ngay khi nhớ ra và uống<br />
liều kế tiếp theo lịch kể cả<br />
dưới 4 giờ<br />
Bỏ đi không uống thuốc nữa<br />
Tổng<br />
<br />
Số<br />
BN<br />
101<br />
<br />
Tỷ lệ<br />
%<br />
83,5<br />
<br />
1<br />
0,8<br />
19<br />
252<br />
<br />
15,7<br />
100<br />
<br />
Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều<br />
trị ARV<br />
Bảng 7: Liên quan giữa tuân thủ điều trị ARV và tuổi<br />
Tuổi<br />
Dưới 35 tuổi<br />
Trên 35 tuổi<br />
Tổng<br />
<br />
Tuân thủ Không tuân Tổng<br />
điều trị thủ điều trị<br />
172<br />
1<br />
173<br />
78<br />
1<br />
79<br />
250<br />
2<br />
252<br />
<br />
X2=0,568,OR=2,205,CI=0,98-1,035, p=0,568<br />
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy không<br />
có mối liên quan giữa tuân thủ điều trị với<br />
tuổi của người bệnh.<br />
Bảng 8: Liên quan giữa tuân thủ điều trị ARV và<br />
trình độ văn hóa<br />
Trình<br />
độ Tuân thủ Không<br />
Tổng<br />
VH<br />
điều trị<br />
tuân thủ<br />
điều trị<br />
Dưới cấp 1 45<br />
0<br />
45<br />
Trên cấp 1 205<br />
2<br />
207<br />
250<br />
2<br />
252<br />
Tổng<br />
<br />
89(01/2): 301 – 306<br />
<br />
X2=0,438,<br />
OR=1,010,<br />
CI=0,996-1,023,<br />
p=0,508<br />
Nhận xét: không có liên quan giữa trình độ<br />
văn hóa với tuân thủ điều trị ARV<br />
Bảng 9: Liên quan giữa tuân thủ điều trị ARV và<br />
khoảng cách từ nhà đến phòng khám ngoại trú<br />
<br />
X2=0,252, p=0,616, OR=0,991, CI=0,979 –<br />
1,003<br />
Khoảng<br />
Tuân thủ Không tuân<br />
cách<br />
điều trị<br />
thủ điều trị<br />
Dưới 20km<br />
222<br />
2<br />
Trên 20km<br />
28<br />
0<br />
Tổng<br />
250<br />
2<br />
<br />
Tổng<br />
224<br />
28<br />
252<br />
<br />
Nhận xét: không có liên quan giữa khoảng<br />
cách đi lại xa đến phòng khám với tuân thủ<br />
điều trị.<br />
Bảng 10: Liên quan giữa tuân thủ điều trị ARV và<br />
thu nhập bình quân/tháng của gia đình người<br />
nhiễm HIV/AIDS<br />
Thu nhập/<br />
tháng<br />
Dưới 2triệu<br />
Trên 2 triệu<br />
Tổng<br />
<br />
Tuân thủ<br />
điều trị<br />
167<br />
<br />
Không tuân Tổng<br />
thủ điều trị<br />
1<br />
168<br />
<br />
83<br />
<br />
1<br />
<br />
84<br />
<br />
250<br />
<br />
2<br />
<br />
252<br />
<br />
2<br />
<br />
X =0,252,OR=2,012,CI=0.98-1.033, p=0,616<br />
Nhận xét: không có liên quan giữa thu nhập<br />
của gia đình người nhiễm H với tuân thủ<br />
điều trị<br />
Liên quan giữa tuân thủ điều trị ARV và tác<br />
dụng phụ của thuốc làm BN phải ngừng thuốc<br />
Nhận xét: Có liên quan giữa việc gặp tác<br />
dụng phụ của thuốc với tuân thủ điều trị<br />
ARV. BN gặp tác dụng phụ nhiều phải tạm<br />
ngừng điều trị để đổi thuốc thì tuân thủ điều<br />
trị ARV kém hơn<br />
<br />
Bảng 11: Liên quan giữa tuân thủ điều trị ARV và tác dụng phụ của thuốc làm BN phải ngừng thuốc<br />
Tác dụng phụ của thuốc<br />
ADR làm bệnh nhân phải ngừng thuốc<br />
ADR nhưng bệnh nhân vẫn dùng thuốc<br />
Tổng<br />
<br />
Tuân thủ điều trị<br />
19<br />
231<br />
250<br />
<br />
Không tuân thủ điều trị<br />
1<br />
1<br />
2<br />
<br />
Tổng<br />
20<br />
232<br />
252<br />
<br />
X2=4,882, OR=0,082, CI=0,005-1,368, p=0, 027<br />
304<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đỗ Lê Thùy<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Về sự tuân thủ điều trị ARV của bệnh nhân<br />
HIV/AIDS<br />
Đa số bệnh nhân đều uống thuốc đúng 2<br />
lần/ngày (98,4%), khoảng cách giữa 2 lần là<br />
12 giờ cũng được bệnh nhân thực hiện đúng.<br />
Trong 6 tháng gần đây, tỉ lệ quên uống thuốc<br />
là 18,7%, trong vòng 3 tháng tỉ lệ này là 8,7%<br />
và trong vòng 1 tháng là 6,7%. Trong số các<br />
nguyên nhân khiến bệnh nhân quên thuốc có<br />
71,8% cho rằng do bận việc gì đó vào giờ cần<br />
uống thuốc, có một số trường hợp không<br />
uống thuốc 1 lần do hết thuốc, thiếu thuốc.<br />
Về một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều<br />
trị ARV<br />
Kết quả cho thấy ở những đối tượng có độ<br />
tuổi dưới 35 có tỉ lệ tuân thủ trong điều trị<br />
thấp hơn những người trên 35 tuổi. Tuy<br />
nhiên, chưa có bằng chứng chỉ ra có khác<br />
nhau về mức độ tuân thủ điều trị giữa 2 nhóm<br />
tuổi này. Nguyên nhân có thể do nhiều yếu tố<br />
khách quan khác như: trình độ văn hóa, công<br />
việc làm ăn, hoặc sự hỗ trợ của cán bộ y tế,<br />
người nhà…nên sự tuân thủ điều trị có thể sẽ<br />
tốt dù ở bất kỳ lứa tuổi nào.<br />
Mối liên quan giữa trình độ học vấn với tuân<br />
thủ điều trị: những đối tượng có trình độ học<br />
vấn trên cấp 3 thì tuân thủ điều trị tốt hơn đối<br />
tượng có trình độ học vấn dưới cấp 3. Tuy<br />
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa<br />
thống kê.<br />
Không có sự khác biệt về tỉ lệ tuân thủ điều<br />
trị ở những người có thu nhập khác nhau.<br />
Trên thực tế, thu nhập bình quân trong gia<br />
đình người nhiễm HIV/AIDS có ảnh hưởng<br />
nhất định đến mức độ tuân thủ điều trị của<br />
người bệnh. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của<br />
chúng tôi, tất cả những người bệnh này đang<br />
được cấp phát thuốc miễn phí từ các nguồn tài<br />
trợ, họ chưa phải trả tiền thuốc điều trị nên<br />
vấn đề thu nhập chưa ảnh hưởng đến việc tiếp<br />
cận thuốc trong tuân thủ điều trị ARV.<br />
Có mối liên quan giữa việc phải tạm nghỉ<br />
thuốc ARV do tác dụng phụ gặp phải với tuân<br />
thủ điều trị ARV. Đây là một trong những<br />
khó khăn khiến bệnh nhân khó tuân thủ điều<br />
<br />
89(01/2): 301 – 306<br />
<br />
trị. Tác dụng phụ của thuốc ảnh hưởng rất lớn<br />
đến tuân thủ điều trị của bệnh nhân.<br />
KẾT LUẬN<br />
Đánh giá sự tuân thủ điều trị ARV của<br />
bệnh nhân HIV/AIDS<br />
- 98,4% bệnh nhân uống thuốc đúng 2<br />
lần/ngày, cách nhau 12 giờ.<br />
- 81,3% bệnh nhân không quên uống thuốc<br />
lần nào trong vòng 6 tháng gần đây.<br />
- 91,3% bệnh nhân không quên uống thuốc<br />
lần nào trong vòng 3 tháng gần đây.<br />
- 93,3% bệnh nhân không quên uống thuốc<br />
lần nào trong vòng 1 tháng gần đây.<br />
- 81,8% bệnh nhân không uống chậm thuốc<br />
hoặc chỉ chậm uống thuốc trong vòng 30<br />
phút.<br />
- 83,5% bệnh nhân có xử trí đúng khi uống<br />
thuốc chậm thời gian quy định<br />
Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều<br />
trị ARV<br />
- Không có mối liên quan giữa tuân thủ điều<br />
trị với tuổi, trình độ văn hóa, thu nhập bình<br />
quân/tháng và khoảng cách từ nhà người bệnh<br />
đến phòng khám ngoại trú.<br />
- Có liên quan giữa việc gặp tác dụng phụ của<br />
thuốc với tuân thủ điều trị ARV<br />
KHUYẾN NGHỊ<br />
1. Tăng cường hoạt động tư vấn về tuân thủ<br />
điều trị cho người bệnh. Trong mỗi lần tái<br />
khám, cán bộ y tế cần khai thác kỹ cách dùng<br />
thuốc của bệnh nhân trong tháng vừa qua để<br />
có được những hướng dẫn và tư vấn kịp thời<br />
khi người bệnh tuân thủ điều trị kém (do tác<br />
dụng phụ của thuốc, giờ giấc sinh hoạt không<br />
thích hợp, hết thuốc…).<br />
2. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục sức<br />
khỏe cho người nhiễm HIV, đặc biệt cần chú<br />
trọng hơn nữa thông tin về tuân thủ điều trị<br />
ARV. Tư vấn liên tục về tuân thủ điều trị<br />
ARV cho bệnh nhân HIV/AIDS.<br />
305<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />