intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay mấy vấn đề lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: Bùi Hoàng Nguyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

121
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) ở Việt Nam hiện nay đang là những nhân tố mới tác động mạnh mẽ đến đạo đức truyền thống của dân tộc, tạo nên những biến đổi dữ dội và nhanh chóng trong lĩnh vực này. Những tác động và biến đổi đó có mặt tích cực và tiêu cực của nó. Để hiểu rõ hơn về điều này mời các bạn tham khảo bài viết Đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay mấy vấn đề lý luận và thực tiễn sau đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay mấy vấn đề lý luận và thực tiễn

ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY<br /> MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN<br /> <br /> TRẦN CHÍ MỸ<br /> NCS, CBGD Trường ĐHKHXH &NV TPHCM<br /> <br /> Cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế và công cuộc công nghiệp hoá, <br /> hiện đại hoá (CNH, HĐH)  ở  Việt Nam hiện nay đang là những nhân tố <br /> mới tác động mạnh mẽ  đến đạo đức truyền thống của dân tộc, tạo nên <br /> những biến đổi dữ dội và nhanh chóng trong lĩnh vực này.<br /> Những tác động và biến đổi đó có mặt tích cực và tiêu cực của nó. <br /> Chúng ta không thể không nhìn nhận và thích ứng với những mặt tích cực  <br /> và tiêu cực của những tác động và biến đổi đó. Thái độ  hư  vô chủ  nghĩa <br /> hoặc khư  khư  giữ  lấy mọi giá trị  đạo đức truyền thống đều bất lợi đối  <br /> với sự tiến bộ của đạo đức lẫn kinh tế, xã hội.<br /> 1. Đạo đức xã hội, cái thiện, cái ác nơi con người không phải thiên  <br /> định, bẩm sinh, bất biến mà là một hiện tượng lịch sử, nảy sinh trong đời  <br /> sống xã hội, phản ánh các quan hệ  xã hội, do đó biến đổi cùng với sự <br /> biến đổi của xã hội.<br /> Nguyên nhân sâu xa của sự biến đổi đời sống xã hội, trong đó có đời <br /> sống đạo đức là những nhân tố thuộc về đời sống vật chất, thuộc về kinh  <br /> tế. C. Mác đã chỉ ra rằng: “Tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo  <br /> đức, khoa học, nghệ thuật… chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất  <br /> và phục tùng quy luật chung của sản xuất” (1). Tục ngữ Việt Nam có câu <br /> “Có thực mới vực được đạo”. Lại cũng có câu “đói cho sạch, rách cho  <br /> thơm” –đây là một lời khuyên, một lời căn dặn kèm theo một sự  đòi hỏi  <br /> đối với con người rằng điều kiện vật chất kinh tế có khó khăn, thiếu thốn  <br /> cũng phải sống có văn hoá, có đạo đức chứ không phải đói là sạch, rách là <br /> thơm. Đó là chưa kể phải đề phòng “Bần cùng sinh đạo tặc”. <br /> Tuy nhiên, kinh tế  không quyết định một cách máy móc đối với đạo <br /> đức. Kinh tế  phát triển, mức sống cao không tự  nhiện đem đến một nền  <br /> đạo đức tốt đẹp. Nhiều nước tư bản phát triển, có trình độ  văn minh vật  <br /> chất và mức sống cao nhưng theo nhận xét của chính những người trong <br /> cuộc thì: “Trong các nền văn minh gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại  <br /> một tình trạng kém phát triển thảm hại về  văn hoá, trí não, đạo đức và <br /> tình người” (2).<br /> 2. Sự biến đổi tích cực hay tiêu cực của đạo đức vừa phụ thuộc một <br /> cách quyết định vào cơ  sở  kinh tế  vừa phụ  thuộc vào một loạt nhân tố <br /> khác, tuy không phải là quyết định như: chính trị  (định hướng, chính trị, <br /> nhà nước, pháp luật); truyền thống văn hoá, lịch sử, giáo dục, phong tục,  <br /> tín ngưỡng…  Ở đây cần nhắc lại ý kiến của Ph. Angghen phê phán chủ <br /> nghĩa duy kinh tế trong thời đại của ông (3). Về phần mình, Ph. Angghen  <br /> cũng đã nhìn nhận rằng: “Mác và tôi, một phần nào, phải chịu trách nhiệm <br /> về  việc những anh em trẻ  đôi khi nhấn mạnh quá mức vào mặt kinh tế. <br /> Đối với kẻ thù, chúng tôi phải nhấn mạnh nguyên lý chủ yếu mà họ phủ <br /> nhận, và chúng tôi cũng ít có thì giờ, có địa điểm và cơ  hội để  mang lại  <br /> một vị trí xứng đáng cho những nhân tố khác tham gia vào sự tác động qua <br /> lại đó” (4).<br /> 3. Ở Việt Nam hiện nay, sự nghiệp CNH, HĐH, cơ chế thị trường và <br /> hội nhập vào thế giới đương đại, bên cạnh những tác động tích cực, cũng <br /> đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức truyền thống <br /> của dân tộc.<br /> Sự  tính toán đơn thuần về  đồng tiền và lợi nhuận lắm lúc gạt bỏ <br /> những điều lương thiện, chân chính và đạo nghĩa. Khi tiền được sùng bái <br /> và tôn thờ  thì nó sẽ  trở  thành một lực lượng có tác dụng xuyên tạc phổ <br /> biến “những cá tính” (5) và “những liên hệ  xã hội” (6). Tiền càng được <br /> tôn sùng bao nhiêu thì sức mạnh xuyên tạc bản chất con người của nó  <br /> càng trở nên vô hạn, khó lường và đáng sợ bấy nhiêu. Nó làm “lẫn lộn và  <br /> thay đổi mọi sự vật” (7).<br /> Đại thi hào Anh Uyliam Sếcxpia đã viết trong vở  kịch “Ti –môn  ở <br /> Aten” rằng: <br /> “Ở đây có vàng là đủ để làm đen thành trắng, <br /> Xấu thành đẹp, mọi tội lỗi thành công lý, <br /> Mọi cái thấp hèn thành cao quý, <br /> Kẻ hèn nhát thành dũng sĩ <br /> Và người già thành trẻ và tươi” (8).<br /> Sống trong một xã hội kinh tế  hàng hoá chưa phát triển, đại thi hào <br /> Việt Nam Nguyễn Du cũng đã nhạy cảm thấy trước:<br /> “Trong tay sẵn có đồng tiền<br /> Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”.<br /> Hội nhập quốc tế là cơ hội để tranh thủ những khả năng vật chất kỹ <br /> thuật, công nghệ, những kinh nghiệm và tri thức hiện đại đang rất cần <br /> thiết cho sự phát triển đất nước. Mặt khác không thể bỏ qua là cả những <br /> căn bệnh phương tây, những phản giá trị cũng nhân cơ hội này mà lây lan, <br /> đột nhập vào đời sống tinh thần của nhân dân ta, phá hoại đạo đức, thuần <br /> phong mỹ  tục của dân tộc. Cũng về  mặt này, chúng ta không bao giờ <br /> được quên rằng, trên thế  giới hiện nay đang có những thế  lực nuôi tham <br /> vọng nhất thể hoá, toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa, họ muốn áp đặt những  <br /> giá trị riêng của họ lên cả toàn cầu. Quên điều đó là ngây thơ về chính trị <br /> và trong thực tiễn không tránh khỏi phải trả giá đắt.<br /> Nhớ  lại 150 năm trước, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. <br /> Mác – Ph.Angghen đã dự báo: “Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất  <br /> và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư <br /> sản lôi cuốn đến cả  những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh.  <br /> Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp  ấy là trọng pháo bắn thủng tất  <br /> cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại  <br /> một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân  <br /> tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư  sản, nếu không sẽ  bị  tiêu <br /> diệt. Nó buộc các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải  <br /> trở thành tư sản. Nói tóm lại, nó tạo ra cho nó một thế giới theo hình ảnh <br /> của nó” (9).<br /> So với chủ nghĩa tư bản cổ điển, chủ nghĩa tư bản hiện đại có nhiều <br /> phương tiện tối tân hơn để  thực hiện tham vọng đó, có điều làm được  <br /> hay không, quyết định không phải ở bản thân nó. <br /> Quá trình CNH, HĐH là một tất yếu để  đưa đất nước thoát khỏi <br /> nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của nó đối với đạo  <br /> đức truyền thống của dân tộc cũng không nhỏ. Đó là tình trạng nghèo nàn <br /> và xấu đi của các quan hệ  con người, bao gồm quan hệ  giữa con người  <br /> với con người và quan hệ giữa con người với thiên nhiên.<br /> Tóm lại, xét từ góc độ đạo đức, cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, <br /> CNH, HĐH đều có mặt tích cực và tiêu cực của nó.<br /> Vậy đạo đức truyền thống của dân tộc phải được xử lý như thế nào <br /> để cho nó trở thành đôi cánh chứ  không phải gánh nặng với sự phát triển <br /> của đất nước theo định hướng XHCN? Chúng tôi hiểu, phạm vi vấn đề <br /> đặt ra là hết sức rộng lớn. Trong giới hạn khả năng và sức lực của mình, <br /> chúng tôi chỉ có thể giải trình một số khía cạnh của vấn đề  bằng một số <br /> giải pháp mà thực tiễn mấy năm qua đòi hỏi và gợi ý:<br /> ­Phân tích tình hình xã hội, xác định các giá trị đạo đức truyền thống <br /> và hệ giá trị đạo đức mới để xây dựng, để thực hiện.<br /> Mỗi khi hoàn cảnh lịch sử, cơ  sở  kinh tế  – xã hội và hệ  tư  tưởng <br /> thay đổi thì đạo đức truyền thống cũng có những biến đổi, vừa có mặt kế <br /> thừa và phát triển, có mặt đào thải và loại bỏ, vừa có sự hình thành những  <br /> giá trị đạo đức mới.<br /> Những cái gì có thể kế thừa và phát triển, cái gì cần phải thải loại?  <br /> Những giá trị  đạo đức mới cần xây dựng là gì? Thực tế  cho thấy không <br /> phải bất kỳ  ai, lúc nào cũng có thể  nhận biết và xử  lý đúng đắn những <br /> vấn đề đó. Một số  người này thì dựa vào chuẩn mực cũ kỹ  của đạo đức  <br /> truyền thống để  cổ  vũ một mô thức  ứng xử  lỗit hời, hoặc để  phê phán <br /> không chỉ những hiện tượng tiêu cực mà cả những cái mới không chịu gò  <br /> vào khuôn mẫu cổ xưa. Một số người khác thì coi những chuẩn mực đạo <br /> đức truyền thống là thủ phạm của tình trạng đói nghèo và lạc hậu của đất <br /> nước… Hàng loạt cái mới trong  đời sống tinh thần của xã hội xuất hiện <br /> từ  quan hệ  nội sinh và từ  con đường du nhập, trong đó có cả  giá trị  và <br /> phản giá trị. Cái thiện, cái ác, cái đẹp, cái xấu nhiều nơi, nhiều lúc như <br /> vàng thau lẫn lộn. Tình hình đó làm cho việc lựa chọn các giá trị, các <br /> chuẩn mực đạo đức đích thực để mong muốn, để noi theo đối với mỗi cá <br /> nhân, gia đình, mỗi tập thể và cộng đồng đang rất khó khăn, lúng túng. Đã <br /> có không ít trường hợp nhầm lẫn một cách khôi hài và tội nghiệp: vứt bỏ <br /> viên ngọc  để  nhặt  lấy hòn sỏi; phỉ  báng các giá trị  truyền thống,  ôm <br /> choàng lấy những giá trị lai căng từ phương Tây.<br /> Do đó, xác định các giá trị đạo đức truyền thống và hệ giá trị đạo đức <br /> mới để xây dựng, để thực hiện là một việc rất quan trọng và rất cần thiết  <br /> để lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động và mọi quan hệ con người, <br /> làm tiêu điểm để  các tầng lớp nhân dân theo đó mà gióng hướng, mà <br /> không đi lạc, phân biệt thiện ác, tốt xấu…, để  mọi người tự  xác định <br /> đúng thái độ và hành vi của mình trước mọi diễn biến của cuộc sống.<br /> ­Tăng cường triệt để  vai trò của nhà nước trong việc tạo điều kiện <br /> giảm thiểu những biến đổi tiêu cực, thúc đẩy và phát huy những biến đổi <br /> tích cực của đạo đức.<br /> Cơ  chế  thị  trường, hội nhập quốc tế  là một tất yếu mang tính thời <br /> đại. Nhưng cũng phải thấy rằng đó là một quá trình đầy mâu thuẫn phức <br /> tạp.  Ơ  Việt Nam, mâu thuẫn bao trùm là mâu thuẫn giữa khuynh hướng  <br /> tự  giá đi lên chủ nghĩa xã hội và khuynh hướng tự  phát đi theo chủ  nghĩa  <br /> tư bản. Hai khuynh hướng này tồn tại đan xen, tác động và đấu tranh lẫn <br /> nhau hết sức phức tạp, quyết liệt trên mọi lĩnh vực và trong mọi phạm vi <br /> của cuộc sống con người. Dựa vào quyền lực và thực lực của mình, Nhà <br /> nước sử  dụng những biện pháp thích hợp để  điều tiết các lợi ích và các  <br /> quan hệ lợi ích để hạn chế, ngăn chặn sự phân hoá quá mức dẫn đến tình <br /> trạng đối kháng, xung đột lợi ích trong xã hội. Cần lưu ý rằng, địa hạt mà <br /> đạo đức biểu hiện ra không chỉ   ở  chỗ  giải quyết các lợi ích mà còn và  <br /> quan trọng hơn là  ở  chỗ  giải quyết các quan hệ  lợi ích. Sự  thống nhất <br /> trong tính đa dạng của các lợi ích do sự điều tiết của Nhà nước tạo nên sẽ <br /> là cơ sở kinh tế – xã hội cho sự hình thành đạo đức mới. Mặt khác, pháp  <br /> luật của Nhà nước là chỗ dựa của đạo đức trong việc điều chỉnh hành vi <br /> con người trong quan hệ  với người khác, với cộng đồng xã hội và với  <br /> thiên nhiên. Đạo đức có kết hợp được với pháp luật mới có thể  giúp con  <br /> người không chỉ phân biệt được mà còn đấu tranh cho cái thiện, cái ác, cái <br /> tốt, cái đẹp thắng cái xấu. Hoàn thiện và thực thi pháp luật của Nhà nước  <br /> là điều kiện quan trọng đảm bảo cho kinh tế và đạo đức vận động và phát  <br /> triển theo định hướng đã được xác định.<br /> ­Coi trọng và tăng cường giáo dục đạo đức trong toàn xã hội nhằm <br /> thúc đẩy một cách tự giác sự hình thành, phát triển và hoàn thiện dần của  <br /> đạo đức mới.<br /> Thực tế cuộc sống đã xác nhận rằng sự tăng lên của cải vật chất và <br /> dịch vụ  không phải bao giờ  cũng hỗ  trợ  cho sự  phát triển và hoàn thiện <br /> của đạo đức. Việc trang bị  thêm của cải vật chất mà không đi đôi với  <br /> việc trang bị  ý thức đạo đức thì những của cải vật chất được trang bị <br /> thêm đó nhiều khi lại trở  thành nguyên nhân của sự  phá phách đời sống <br /> tinh thần của con người, làm tổn hại tư  chất và đạo đức của nó. Không  <br /> phải cứ  giàu lên thì đạo đức thoái hoá cũng không phải cứ  nghèo đói là  <br /> đạo đức trong sáng. Đạo đức có tính chủ  động tương đối trong những <br /> phạm vi nhất định. Trong cùng một môi trường xã hội nhưng có người, có <br /> gia đình thì giữ được nền nếp luân lý của mình; có người, có gia đình lại  <br /> không giữ được. Giữ được hay không, điều đó tuỳ thuộc rất lớn vào giáo <br /> dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng.<br /> Tính năng động, sự  khôn ngoan, những nỗ  lực ý chí của con người <br /> được khơi dậy bởi cơ  chế  kinh tế mới, bởi giao lưu quốc tế nếu không <br /> được sự  soi sáng bởi lương tâm và trách nhiệm đạo đức thì chúng không <br /> còn   là   biểu   hiện   của   năng   lực   bản   chất   người   nữa   mà   chỉ   là   những  <br /> phương tiện và tác nhân kích thích cho những thói xấu đạo đức nảy sinh: <br /> lừa đảo, trộm cướp, tham nhũng…<br /> Giáo dục đạo đức góp phần trực tiếp vào việc đánh thức lương tâm, <br /> tạo ra một hành lang trách nhiệm đạo đức cho hoạt động năng động của <br /> mỗi con người , biến ý chí nỗ lực, sự khôn ngoan của họ thành sức mạnh <br /> sáng tạo xã hội mới nhân đạo và nhân văn. Đạo đức là nét cơ bản của tính <br /> người. Giáo dục đạo đức góp phẩn làm cho con người mang tính người  <br /> nhiều hơn. Ơ con người thì :<br /> “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn<br /> Phần nhiều do giáo dục mà nên”.<br /> (Hồ Chí Minh)<br /> ­Giữ  vững định hướng xã hội chủ  nghĩa trong mọi mặt đời sống và <br /> hoạt động xã hội.<br /> Chủ nghĩa tư bản có cách đặt vấn đề và cách giải quyết vấn đề đạo  <br /> đức của họ. Song, không thể có một nền đạo đức cao đẹp trong xã hội bị <br /> thống trị  bởi các luật của lợi nhuận, của quan hệ  “Trả  tiền ngay không  <br /> tình không nghĩa”.<br /> Anbe Anhxtanh, nhà bác học vĩ đại của thế  kỷ  XX sống  ở  chính <br /> nước tư  bản phát triển nhất, trước khi qua đời đã viết những dòng tâm <br /> huyết: “Theo tôi, chính sự què quặt của các cá nhân là điều xấu nhất trong <br /> các tai hoạ  của chủ  nghĩa tư  bản… Tôi tin chắc chỉ  có một cách loại bỏ <br /> những tai hoạ  nghiêm trọng  ấy là thiết lập một nền kinh tế  xã hội chủ <br /> nghĩa kèm theo một hệ thống giáo dục nhằm vào những mục tiêu xã hội” <br /> (10).<br /> Định hướng xã hội chủ nghĩa là đạo đức, là một bảo đảm đạo đức. <br /> Chủ nghĩa cộng sản trong bản chất của nó như C. Mác nói, là: “Chủ nghĩa <br /> nhân đạo hiện thực”. Xử lý những vấn đề đạo đức con người trong xã hội <br /> hiện đại trước sau vẫn là sứ mệnh của Chủ nghĩa xã hội.<br /> <br /> THE CURRENT TRADITIONAL MORALS IN VIETNAM – SOME <br /> LOGICAL AND PRACTICAL ISSUES<br /> TRAN CHI MY<br /> Industrialization   and   modernisation   process   basically   disagrees   with <br /> traditional societies. The process demands new institutions and values. The <br /> change of economic model also changes moral standards.   This is normal. <br /> But what is the best? There has been no correct answer in time. Many cases <br /> have tried to restore the old values or idolize foreign ones pitifully.<br /> Strongly based on the the traditional moral values, profound analysis of <br /> the present and orentation of the future to identify and establish the values <br /> and moral standards of both today and tomorrow are what should and can be <br /> done immediately.<br /> CHÚ THÍCH: <br /> (1)C.Mác: Bản thảo kinh tế  triết học năm 1844. Nxb Sự  thật, Hà  <br /> Nội, 1962, tr 129.<br /> (1)Richard Bergeron: Phản phát triển, cái giá phải trả  của chủ  nghĩa <br /> tự do, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr338.<br /> (3)Xem:C.Mác­ Ph. Ăngghen: Tuyển tập, T VI, Nxb Sự thật, Hà Nội <br /> 1984, tr 726­727.<br /> (4) C.Mác­Ph. Ang­ghen: Sđđ, T VI, tr 729.<br /> (5), (6), (7) C. Mác: Bản thảo kinh tế  triết học năm 1844, NXb Sự <br /> thật, Hà Nội, 1962, tr 182.<br /> (8) Dẫn theo C. Mác: Sđd, tr 177.<br /> (9) C.Mác­ Ph. Ăngghen: Tuyển tập, T I, tr 546.<br /> (10) Dẫn theo Vũ Đình Cự: Hệ thống công nghệ  mới và xu thế  thời <br /> đại, trong Tài liệu tham khảo, Trung tâm thông tin công   tác tư  tưởng <br /> Trung ương tại TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1996, tr 19.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2