JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 104-111<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0095<br />
<br />
“ĐẠO” VÀ “ĐỜI”, LÍ TƯỞNG VÀ HIỆN THỰC<br />
TRONG ĐÁM CƯỚI KHÔNG CÓ GIẤY GIÁ THÚ CỦA MA VĂN KHÁNG<br />
Đỗ Tiến Minh<br />
<br />
Trường Trung học phổ thông Trần Phú, Vĩnh Phúc<br />
Tóm tắt. Cùng với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Lựu, Chu Lai. . . ,<br />
Ma Văn Kháng có vị trí quan trọng trong văn xuôi thời kì đổi mới. Các tiểu thuyết của ông<br />
thời kì này phản ánh bức tranh đa diện, nhiều sắc màu tối sáng của cuộc sống hậu chiến;<br />
nơi đang diễn ra cuộc đối đầu quyết liệt giữa cái cao cả và thấp hèn, lí tưởng và thực tiễn,<br />
“đạo” và “đời”. . . Đám cưới không có giấy giá thú là dấu mốc bi ai của một giai đoạn các<br />
chuẩn mực, giá trị nhân sinh truyền thống bị đảo lộn. Đặng Trần Tự - nhân vật chính trong<br />
tiểu thuyết - không chỉ là người “lạc loài” ngay trong gia đình của mình, mà còn mãi mãi<br />
là kẻ “lạc thời”. . .<br />
Từ khóa: Ma Văn Kháng, Đám cưới không có giấy giá thú, trí thức, kẻ cơ hội.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Với Ma Văn Kháng, Ngẫu hứng tự do và sáng tạo (bài đăng trên Tạp chí Văn học, số 2/1989)<br />
không tách biệt mà đồng hành với nhiệm vụ Đổi mới tư duy tiểu thuyết (Nxb Hội Nhà văn, 2002).<br />
Coi việc “Viết tiểu thuyết là cả một cuộc đi săn hổ dữ” đòi hỏi tư duy, kinh nghiệm nghệ thuật,<br />
khả năng tìm tòi phát hiện, chuyển tải được các vấn đề cốt lõi, gai góc của thực tại cuộc sống,<br />
nên các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, từ Đồng bạc trắng hoa xòe (1979), Mưa mùa hạ (1982),<br />
Vùng biên ải (1983), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989). . .<br />
đến Một mình một ngựa (2007), Chim én liệng trời cao (2017). . . sau này đều được công chúng<br />
độc giả và giới nghiên cứu phê bình háo hức đón nhận. Trong một bài viết đăng trên Tạp chí Văn<br />
học, Nguyễn Thị Huệ nhấn mạnh Đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng<br />
những năm 80 [2]. Bùi Lan Hương phân tích sâu Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết của<br />
Ma Văn Kháng [3]. Trần Hoàng Thiên Kim điểm lại Những cuộc tổng kê của nhà văn Ma Văn<br />
Kháng qua các tiểu thuyết có tính chất dấu mốc trong hành trình sáng tạo của ông [4]. Nhà phê<br />
bình Phong Lê thì nói đến xung lực sáng tạo dồi dào của nhà văn trong bài viết Trữ lượng Ma Văn<br />
Kháng đăng liên tiếp trên hai số báo Văn nghệ [5]. . . Có thể nói, sáng tác của nhà văn, đặc biệt<br />
tiểu thuyết, từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn không chỉ của các nhà nghiên cứu<br />
phê bình, mà còn là đề tài của rất nhiều luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ [xem thêm trong 1, 7]. Bởi<br />
vậy, trong bài viết này, chúng tôi chỉ muốn trao đổi thêm về sự bất dung hợp giữa “đạo” và “đời”,<br />
“lí tưởng” và “hiện thực” ở một trong những cuốn tiểu thuyết thành công nhất của ông: Đám cưới<br />
không có giấy giá thú. Đám cưới không có giấy giá thú lồng ghép hai tuyến cốt truyện: cuộc hôn<br />
Ngày nhận bài: 15/6/2017. Ngày sửa bài: 2/8/2017. Ngày nhận đăng: 20/10/2017<br />
Liên hệ: Đỗ Tiến Minh , e-mail: dotienminh.tranphu@gmail.com<br />
<br />
104<br />
<br />
“Đạo” và “đời”, lí tưởng và hiện thực trong Đám cưới không có giấy giá thú...<br />
<br />
nhân có giá thú đầy bi hài của cặp đôi Tự - Xuyến và ảo mộng bất thành của Tự với “chính danh”.<br />
Tiểu thuyết chứa đựng một mệnh đề kép về thế thái nhân tình thời hậu chiến, nơi các quan niệm,<br />
giá trị nhân sinh bị thách thức và đảo lộn, nơi những tấn bi kịch đời thường trớ trêu và nghiệt ngã<br />
vẫn tiếp tục đè nặng, đeo bám dai dẳng những người lính trở về từ chiến trường.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
Hẫng hụt, khó hòa nhập cuộc sống khi trở về từ chiến trường là trạng thái tâm lí chung của<br />
nhiều người lính. “Thời trận mạc, anh đã cầm súng hết mình để rồi ngày giải phóng đầu tiên đi<br />
giữa Sài Gòn xa lạ như đi trên đất khách quê người với chiếc lon chuẩn úy tong toe trên cổ áo.<br />
Trở về, anh muốn làm lại từ đầu, làm lại hết mình nhưng rồi va đâu vấp đấy, vấp đến vỡ mặt: va<br />
phải gia đình, gia đình bỗng thành xa lạ; va vào tình yêu, tình yêu luôn luôn phản trắc; va vào cơ<br />
chế, cơ chế lúc có lúc không; va vào cơ quan đoàn thể, gặp phải những người như lão Quách. Tất<br />
cả mọi hành vi vận động ráo riết đòi đi lên, đòi cống hiến của anh đều gặp phải những vật cản<br />
không thể vượt qua nổi” [Chu Lai, Vòng tròn bội bạc, Nxb Văn học, 2013, tr.141]. Đó là thực cảnh<br />
“tiến thoái lưỡng nan” của nhà báo Trần Hoài Linh trong Vòng tròn bội bạc của Chu Lai, và đó<br />
cũng là tâm trạng của ông Thuấn (Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp), của Kiên (Nỗi buồn chiến<br />
tranh – Bảo Ninh), của Vạn, Nghĩa (Bến không chồng – Dương Hướng). . . Cái phần nổi khoác áo<br />
“giai cấp”, “chuyên chính”, “thức thời” của những kẻ vụ lợi, bất tài, cơ hội - những đám hoa dại<br />
ven đường trong tiếng còi báo động thời chiến - nay chen lấn, nảy nở tràn lan trong công viên thời<br />
bình, đã níu giữ, ghì siết, làm tan vỡ bao giấc mộng của những người lính ngay trong niềm hân<br />
hoan sống sót trở về của họ. Chưa bao giờ và chưa khi nào số phận của Đặng Trần Tự và những<br />
người cựu chiến binh như anh lại “bĩ cực”, khốn khổ đến như thế. Chưa bao giờ cái gọi là “giấy<br />
giá thú” trong Đám cưới không có giấy giá thú lại là tấm thẻ bài quan trọng để những người đã hi<br />
sinh cả tuổi trẻ, đã đổ máu xương nơi trận mạc được tự tin, bình thản hòa nhập với cuộc đời. . .<br />
<br />
2.1.<br />
<br />
Bi kịch của một đám cưới có hôn thú<br />
<br />
Đặng Trần Tự là nhân vật chính, đồng thời là nạn nhân của toàn bộ sự thống khổ, bi hài, tục<br />
lụy trong cái gia đình nhỏ mà anh tưởng là nơi trú ngụ an toàn cho cuộc đời vốn không mấy bình<br />
yên của mình. Tự đã có một thời yêu Phượng, cô học trò nhỏ cũng bất hạnh long đong không kém<br />
trong cả trường tình lẫn trường đời. Tình yêu của Tự với Phượng ngắn ngủi, dang dở và đau đớn;<br />
nó như “cái mộng ước tuổi xuân không hiện hữu, cái hạnh phúc đứt đoạn của đời Tự” [Ma Văn<br />
Kháng, Đám cưới không có giấy giá thú, (tái bản), Nxb Văn học, 2006, tr.99; kể từ đây, các trích<br />
dẫn tác phẩm đều lấy từ bản này]. Nhưng đó không phải là lí do để Tự phải “tắc lưỡi” khi quyết<br />
định lấy Xuyến. “Anh quen Xuyến khi anh đã ba mươi tuổi và Xuyến đã hăm bảy, vừa từ nông thôn<br />
lên, sau mấy năm bế con, nội trợ cho vợ chồng một người anh họ, học qua một lớp sơ cấp, về làm<br />
nhân viên thư viện của một khu phố. Anh hay đến đây mượn sách và đọc sách. Vừa nhận ra tính<br />
tình bộc trực và vẻ đẹp thôn nữ thuần phác của cô, anh cũng nhận ra cô là một phụ nữ quê kệch”<br />
[8; tr.291]. Lấy Xuyến, Tự không đóng vai trò cảm hóa hay khai sáng; cũng không phải là ân nhân<br />
hay là kẻ ngơ ngác, khờ khạo về hôn nhân và gia đình. Sự việc nào cũng có bí ẩn thâm sâu của nó.<br />
Xuyến ban đầu cũng không phải là người đàn bà xấu xí hay kém cỏi, hư hỏng, lăng loàn. Ở cô, bù<br />
đắp cho sự quê kệch và thấp kém về học vấn, là sự đơn giản, hồn nhiên đầy sinh lực, đầy chất thế<br />
tục của đời thường; điều mà Tự và những người vẫn đang ấp ủ ý tưởng về sự thánh thiện, thanh<br />
cao như Tự cần tìm kiếm, bổ khuyết. Đám cưới có hôn thú của anh và Xuyến, tuy không có chất<br />
lãng mạn và nhiều kỉ niệm đáng nhớ, nhưng lẽ ra đã là một sự yên bề, một kết thúc có hậu dành<br />
cho những người đã quá mệt mỏi trong cuộc tìm kiếm lẽ sống, đã muốn yên phận sau rất nhiều<br />
bão giông. Song, “vô duyên đối diện bất tương phùng”; trái với những điều Tự mong muốn và lầm<br />
105<br />
<br />
Đỗ Tiến Minh<br />
<br />
tưởng, những gì diễn ra hậu hôn nhân đã chứng tỏ rằng đám cưới ấy là sự sắp đặt nhầm lẫn, đầy<br />
mỉa mai và bi hài của số phận.<br />
Người ta thường thú nhận sự bất lực của mình trong cuộc sống, đổ lỗi và cay nghiệt gọi số<br />
phận bằng cái tên trong đời thường của nó là “hoàn cảnh”. Trong trường hợp của Tự, có thể nói,<br />
chính “gã” hoàn cảnh khoác áo tình cờ này là thủ phạm đã đẩy họ đến với nhau và rồi lại chia<br />
rẽ họ. Tự, người tạm gọi là đã nếm trải mọi thứ đắng cay, vinh nhục của đời người đâu dễ được<br />
yên bề, yên thân, “thoát tục”. Tiếp tục phải sống, phải đối mặt với đời sống áo cơm thường ngày,<br />
Tự đã muốn, rất muốn sống tử tế, chuyên chú với sự nghiệp trồng người và chăm lo cho gia đình,<br />
vợ con. Song, cũng như những người lính khác trở về từ chiến trường, anh không thể tránh khỏi<br />
những vướng bận, “chấp chới”, “chao đảo” khi hòa mình vào cuộc mưu sinh. Để cân bằng, gắng<br />
níu giữ sự bình yên hiện tại; một mặt, ông giáo nghèo Đặng Trần Tự đã tìm lối thoát bằng sự “thăng<br />
hoa” tinh thần cùng sách vở, đạo lí; mặt khác, phải rứt ruột đem dần “của hồi môn”, cũng là “của<br />
để dành” (những cuốn từ điển quý từ “Tùng thiện thư viện”) đi bán,. . . nhưng cũng không chống<br />
lại được sự đen bạc, ô trọc của cuộc đời. Kinh tế khó khăn thời bao cấp đã làm thay đổi mọi giá<br />
trị. Những kẻ cơ hội, dối trá, xu thời biến thành người năng động giỏi giang; còn những gã “mọt<br />
sách”, “bất tài”, khư khư giữ gìn phẩm cách như Tự, như Kha, như ông Thống. . . , trở thành những<br />
kẻ “gàn dở”, “lập dị”. Sự cám dỗ của đồng tiền, của vật chất tầm thường đã xâm lấn, làm xáo trộn<br />
khu phố nhỏ, len lỏi vào ngõ ngách những khát khao đổi đời thầm kín và mãnh liệt của Xuyến,<br />
khiến người đàn bà này, cũng như cô Trinh trong tiểu thuyết, không thể giữ được “bản nguyên”.<br />
Quỳnh là một kiểu nhân vật “con buôn” mới, anh ta là kết quả của sự “hợp hôn” ngạo nghễ giữa sự<br />
trâng tráo trắng trợn và óc tính toán cơ hội, giữa sự trì trệ và khai sáng, giữa“cơ chế” lắm lỗ thủng<br />
và đời thường đa dạng. Sự hiện hữu của chủ nghĩa cá nhân thực dụng, của những toan tính vụ lợi<br />
cận kề, tấn công trực diện đã tác động rõ rệt, làm thay đổi cách nghĩ của nhiều người, trong đó có<br />
Xuyến. Cảm giác miễn cưỡng chấp nhận thực tại nghèo khó trong cô mất dần, nhường chỗ cho ý<br />
thức tự “cứu mình” bằng mọi giá mà Tự không thể khuyên giải hay cản phá. Với Xuyến, Quỳnh<br />
chính là cơ hội, là chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc đời cơ khổ, thua chị kém em mọi bề của cô.<br />
Khi mới lấy nhau, Tự biết vợ mình “sợ nghèo”, “yêu thích nhục dục”. . . , những thứ “ẩn ức”<br />
tâm trạng thường tình mà đa số chị em phụ nữ đều có nhưng e ngại không nói, và Tự cũng biết<br />
mong muốn đổi đời ở Xuyến đã âm thầm trỗi dậy từ khi làn sóng “phe phẩy” chợ búa ùa vào không<br />
gian tù đọng, tẻ nhạt của đời viên chức quèn, nó sẽ phá vỡ các giới hạn, khuôn phép cũng như sự<br />
cảm thông, nhường nhịn, chia sẻ, chịu thương chịu khó thông thường của một người vợ đối với<br />
chồng trong gia đình. Tự đã rất nỗ lực, nhưng chỉ một người biết điều, một người cố gắng giữ cho<br />
tổ ấm không nguội lạnh thì không đủ. Cuộc hôn nhân của họ tiềm ẩn ngay từ khi mới tạo lập các<br />
nguy cơ tan vỡ. Không sống nổi bằng đồng lương còm, làm sao Tự có thể nuôi nổi vợ con, làm sao<br />
giữ được tổ ấm? Rốt cuộc, trong hai người, Tự và Xuyến, ai là người phải chịu trách nhiệm trong<br />
sự đổ vỡ hạnh phúc của họ? Thật khó quy kết!<br />
Thông thường, người ta sẽ đổ lỗi cho người đàn bà, thế nhưng xét cho cùng thì Xuyến, cô<br />
viên chức quèn xuất thân quê mùa ấy cũng đâu hoàn toàn có lỗi. Cái bản năng, ham muốn thường<br />
tình của một “con cái” ẩn giấu trong cái vẻ ngoài mộc mạc sơ khởi của cô, như tất cả những người<br />
phụ nữ bình dân khác, chỉ mong muốn được thỏa mãn, chỉ chờ có cơ hội, điều kiện là bùng phát.<br />
Có điều, những người không có cái “phông” căn bản của văn hóa thị thành, ít kinh nghiệm và chưa<br />
bị va đập như Xuyến thì thường hay bị cám dỗ, mờ mắt vì vật chất; và khi đã lún sâu thì không thể<br />
nào thoát ra được. Nỗi đau không lo nổi cơm áo đời thường cho gia đình khiến Tự bị dằn vặt, tổn<br />
thương; còn cái vũng lầy tình tiền của Xuyến ngược lại khiến cô mê đắm, cho dù đôi khi cũng có<br />
chút mặc cảm vụng trộm, hối lỗi. Phản ứng đầu tiên của Tự trước những lời nhiếc móc, cạnh khóe<br />
của Xuyến là sự “câm lặng chịu đựng”, sau đó là “đau lòng”, bởi sẽ tệ hại hơn nhiều nếu Xuyến<br />
106<br />
<br />
“Đạo” và “đời”, lí tưởng và hiện thực trong Đám cưới không có giấy giá thú...<br />
<br />
không phải là người như vậy: “Đôi lúc anh tự hỏi mình: Xuyến sẽ đối xử với anh như thế nào,<br />
nếu anh cũng như Thuật, như Thảnh, hai đồng nghiệp, nhờ các phù phép biến hóa kiếm được bạc<br />
nghìn, bạc vạn? Chà, Xuyến mà quay trở lại kính trọng anh, rồi lại yêu quý anh nữa thì anh kinh<br />
sợ vô cùng! Hình như chưa bao giờ Xuyến thật sự yêu anh; dầu đã chủ động lôi cuốn anh vào cuộc<br />
hôn phối. Xuyến chỉ có xúc cảm về anh thôi” [8; tr.27].<br />
Theo dõi diễn biến cuộc hôn nhân có giấy giá thú và tâm trạng tội nghiệp của Tự, độc giả<br />
hẳn không mấy khó khăn khi đoán định cái kết cục tất yếu đáng buồn của nó. Song điều làm người<br />
đọc và ngay cả Tự phải bất ngờ chính là sự thay đổi quá nhanh của Xuyến. Chỉ mươi năm, từ một<br />
người vợ đầy hào hứng: “Em sẽ đẻ cho anh một tá con. Nhưng anh phải bảo đảm nuôi chúng” [8;<br />
tr.293], Xuyến đã biến thành một người đàn bà nanh nọc, trắng trợn và trơ trẽn khi bị vạch trần sự<br />
phản bội, hơn thế, còn xối xả trút vào mặt chồng những lời rủa xả tai ác thường chỉ thấy những kẻ<br />
hạ tiện, lăng loàn. Vẫn biết “Xuyến là đàn bà. Lo toan đời sống bản thân và gia đình là cái thiên<br />
chức của đàn bà. Tự không phải là kẻ giỏi giang gì trong cuộc mưu sinh thì Tự càng không được<br />
phép dè bỉu, chê trách Xuyến” [8; tr.294], nhưng sự “vượt ngưỡng” này thì “Thật là điếm nhục”:<br />
“Tự chết đứng cạnh cái tủ ly. Trớ trêu! Xuyến đang biến anh thành một thằng hề, một gã đàn ông<br />
xuẩn ngốc. Những tình cảm chân thành, trong sáng nhất của anh bị bêu riếu. Anh gắng gỏi hòa<br />
hợp thật sự nhưng kết cục anh chỉ là con dã tràng. Anh suốt đời ngay thẳng, thiện chí, thiện tâm,<br />
vậy mà suốt đời anh bị lừa lọc, phản bội” [8; tr.309]. “Trong tế bào gia đình, vai trò người mẹ,<br />
người vợ là hết sức quan trọng”, những lời khuyên ấy thật chí lí, nhưng áp vào tình cảnh của Tự<br />
lúc này, càng thấy xót xa, bi hài. Bố cái Hoạt đã không thể giữ được mẹ nó. Từ ngoại tình lén lút,<br />
Xuyến trơ tráo ăn nằm với Quỳnh ngay trên căn gác xép nhỏ, cái “hang động” trú ẩn duy nhất và<br />
cuối cùng của Tự. Dấu chấm hết cho một cuộc hôn nhân nhầm lẫn và tai hại này đã hạ xuống đầy<br />
tàn nhẫn: “Tự tự hỏi rằng đây là thực hay là sự dâm đãng bỉ ổi được hình tượng hóa qua trí tưởng<br />
tượng, rồi lại khúc xạ qua giấc mơ của anh. Đời người, nếu không tránh được, thì cũng nên một lần<br />
chứng kiến cảnh đồi bại này. Một lần bị máy bay trực thăng của của giặc quần thảo vây bắt. Một<br />
lần bị trở thành cái bung sung chịu sai khiến đọa đày của thói trả thù tiền sử. Một lần mục sở thị<br />
trò đánh tháo và vu cáo đê tiện kinh người. Một lần đủ để bại liệt, cấm khẩu, đủ để nhớ cả đời” [8;<br />
tr.361].<br />
Tuy nhiên, cũng như ở Mùa lá rụng trong vườn trước đó, trong đám cưới có giấy giá thú hẳn<br />
hoi nhưng đầy bi kịch này, Ma Văn Kháng đã không chủ ý khai thác sâu vấn đề tình yêu gia đình<br />
hay tình cảm vợ chồng thời hiện tại, dù hôn nhân và đạo lí luôn là luận đề xuyên suốt trong nhiều<br />
tác phẩm của ông. Ông hầu như chỉ miêu tả mà không giải thích. Có lẽ, cũng như một số nhà văn<br />
khác đương thời, ông hướng tới một cái gì đó sâu xa và đáng quan ngại hơn: căn nguyên đang làm<br />
đảo lộn mọi giá trị truyền thống; làm tan rã, sụp đổ trật tự đạo đức xã hội và nền tảng gia đình;<br />
cuốn cả người tốt và người xấu, cả kẻ cơ hội hám danh và người lương thiện chính trực vào vòng<br />
xoáy của nó, lấy đi của cuộc sống hậu chiến vốn đã đầy khó khăn biết bao nhân tính, nhân tình.<br />
Cái gì khiến cuộc chiến đau thương của cả dân tộc đã im tiếng súng nhưng vẫn kéo dài dai dẳng,<br />
vẫn có mất mát, hi sinh? Tại sao và do đâu nhiều người lính không chết trong chiến tranh lại phải<br />
“chết” trong thời hòa bình? Nỗi đau tinh thần nhức nhối này là hệ quả của sự đối đầu không khoan<br />
nhượng giữa lí tưởng và hiện thực, giữa “đạo”và “đời” ngay bên trong họ, nhưng đồng thời cũng<br />
là vấn đề chính trị - xã hội hết sức sâu sắc mà các nhà văn, trong đó có Ma Văn Kháng, đã đặt ra.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Cuộc hôn phối bất thành giữa“đạo” và “đời”, người trí thức và kẻ cơ hội<br />
<br />
Cuộc đời Đặng Trần Tự, đúng như người bạn giáo viên của anh - Thuật, đã nói, là: “. . . một<br />
cuốn sách hay để lầm chỗ. Một đám cưới không thành. Một bữa tiệc dang dở” [8; tr.55], một kẻ<br />
không hợp thời, không thức thời. Nhưng cũng không thể trách Tự, người “cao ngạo và ẩn tàng một<br />
107<br />
<br />
Đỗ Tiến Minh<br />
<br />
sức mạnh văn hóa”, vì cái tính “ương ngạnh” không thức thời ấy. Trước và sau chiến tranh, Tự vẫn<br />
và luôn là một thầy giáo giỏi, song chỗ đứng của anh, xét đến cùng, chỉ là ở trong lòng đám học<br />
trò lúc đó và sau này chỉ biết xót thương cho những oan ức, bất công mà người thầy đáng kính của<br />
chúng phải gánh chịu. Xung quanh Tự, cả khi là người thầy và người lính, tuyệt nhiên không có<br />
một thế lực hay ô dù gì để dựa dẫm, bênh vực khi yếu thế hay nguy nan. Kha, ông Thống, Phượng,<br />
Phiêu, người học trò cũ giấu tên đã trưởng thành. . . chỉ là nguồn an ủi, sẻ chia, cảm thông với<br />
những nỗi ngang trái của cuộc đời anh, chứ họ, cũng như bao người khác, không thể giúp gì được.<br />
Bủa vây xung quanh anh ban đầu là ông Bí thư thị ủy Lại, nguyên “đồ tể ở cái ba toa cuối<br />
phố, cái lò mổ lợn bò của một người chủ là Hoa kiều” [8; tr.107], sau đó là hiệu trưởng Cẩm, bí<br />
thư chi bộ Dương- những kẻ đại diện cho thể chế, nắm giữ sinh mệnh chính trị của người khác.<br />
Bí thư thị ủy Lại là hiện thân của một giai đoạn sai lầm nhất trong cách dùng người của một thời:<br />
“. . . cái thời cách đây hai mươi năm, một gã đồ tể chỉ cần đi theo cách mạng hai năm hơn bảy trăm<br />
ngày, là có thể đủ vốn liếng để trở thành một Đấng Quyền Năng Cao Cả, bao trùm một lãnh địa,<br />
tòa quyền lực như vòi bạch tuộc vào tất cả các ngõ ngách của đời sống!” [8; tr.110]. Xuất thân như<br />
thế, hẳn không có gì đáng ngạc nhiên khi ông phỉ báng tín ngưỡng, đức tin ngay giữa nhà thờ và<br />
luôn coi thường, quy kết, hăm dọa, lăng nhục trí thức: “Này các cô cậu học trò, nên nhớ rằng đây<br />
là một ân huệ quá lớn và lẽ ra các người không đáng được hưởng đâu. Bởi vì bố mẹ, cô dì, chú bác<br />
các người đều là những phần tử tội lỗi, thuộc thành phần phi vô sản. Vậy thì các người chớ có mà<br />
lên mặt. Và hãy liệu hồn, chớ có nhi nhoe, cạy dăm ba cái kiến thức để vênh váo; trí thức không<br />
bằng một cục cứt chó khô đâu, các người hãy nhớ lấy”; “Các anh giáo! Xin nói để các anh biết.<br />
Tầng lớp trí thức tiểu tư sản các anh chẳng qua chỉ là cái sinh thực khí, tức là cái b. của thằng đàn<br />
ông” [8; tr.108-109]. Cha nào con ấy, thằng Tuẫn con ông bí thư Lại là một thằng học trò “mất dạy,<br />
xấc xược, vô đạo lí, hết sức đểu cáng”. Cái tát thẳng tay, đầy phẫn nộ của Tự vào mặt thằng Tuẫn<br />
trong giờ học văn vì đã “xúc phạm đến tất cả các bạn bè và các giá trị thiêng liêng” ngay lập tức<br />
bị coi là “cái tát vào Đảng”, vào mặt cái người đang nắm quyền sinh sát tối cao ở cái thị xã nhỏ bé<br />
và buồn tẻ này. Bất bình và cưỡng lại sự “ngu xuẩn và điên rồ”, nhất là khi nó đang tự tin và sung<br />
mãn “khuấy lên cả một ngọn triều tư tưởng ngu xuẩn và điên rồ”, Tự chuốc vào mình tai họa. Sau<br />
cú tát nhớ đời ấy, số phận Đặng Trần Tự đã được “quan lái lợn” định đoạt. Anh bị ném vào cuộc<br />
chiến đẫm máu suốt tám năm, đúng thời điểm khốc liệt nhất.<br />
Cẩm - một kẻ có chức quyền, thuộc thế hệ sau, là đồng nghiệp và đôi khi còn là “bạn” của<br />
Tự. “Lí lịch ba đời Cẩm, khỏi chê. Từ cụ, ông nội, bố đều làm mõ, loại cùng đinh, mạt hạng bấy<br />
giờ”. “Xét một cách toàn diện” - theo cách nói của ông bí thư chi bộ Dương, hay ông bí thư chi<br />
bộ Văn Xã ở huyện - thì “Đồng chí Cẩm là của hiếm. Đồng chí có sứ mệnh phải trí thức hóa để<br />
tiến hành trí thức vận, một sự nghiệp mà chúng ta rất coi trọng” [8; tr.133], nên con đường quan<br />
lộ của Cẩm khá thông thoáng. Từ một “đại kiện tướng phân xanh”, một anh giáo viên dạy thể dục<br />
cấp hai, Cẩm được cử đi học sư phạm Văn, được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường cấp ba khi ông<br />
hiệu trưởng già không may cảm mạo rồi mất. Cẩm không chỉ nổi tiếng ở việc coi sách là “một sản<br />
phẩm vừa xa xỉ, vừa vô bổ”, “dạy văn học, giải thích sai từ này, từ nọ là chuyện cơm bữa”, ở cái<br />
“biệt danh” “đẽo cày giữa đường” học trò phong tặng, mà còn ở sự nhăng nhít, “thói tham lam vô<br />
độ, bần tiện và liều lĩnh”. Chính hiệu trưởng Cẩm “thằng đạo chích, tên bần nông gian giảo” chứ<br />
không phải ai khác, đã sinh lòng ghen ghét Tự, trù dập Thuật; đã bất chấp quy chế, quy định, tự ý<br />
sửa kết quả thi môn Toán tốt nghiệp cuối cấp của học sinh rồi đổ lỗi, vu cáo cho ông Thống. Tuy<br />
nhiên, cái “tư cách mõ” của Cẩm, sự dối trá và quyền uy của Cẩm phần nào cũng xuất phát vì căn<br />
bệnh “thành tích” nói chung, từ ý thức đố kị, ghen tài nói riêng của một người tự biết mình thua<br />
kém người khác cả về nhân cách lẫn học thuật. Trong mưu đồ gạt bỏ những người biết rõ bản thân<br />
mình, đẩy Tự vào cái chết “lần thứ hai”, Cẩm là kẻ đồng lõa chứ không phải chủ mưu, Cẩm không<br />
nham hiểm, thủ đoạn như Dương.<br />
108<br />
<br />