intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặt nội khí quản khó – cần linh hoạt

Chia sẻ: LaLi Sa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

25
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xử trí nội khí quản (NKQ) khó là một tình huống cấp cứu khẩn trương đường thở, gặp trong gây mê và hồi sức. Bài viết trình bày đánh giá thái độ xử trí khi đứng trước một số tình huống đặc biệt trong đặt nội khí quản khó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặt nội khí quản khó – cần linh hoạt

  1. ĐẶT NỘI KHÍ QUẢN KHÓ – CẦN LINH HOẠT Nguyễn Thành*, Nguyễn Thị Lan Hương*, Nguyễn Văn Huấn*, Nguyễn Văn Chừng** ** Nguyên trưởng bộ môn GMHS Đại học Y Dược Tp.HCM * Khoa GMHS Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định TÓM TẮT Mở đầu: Xử trí nội khí quản (NKQ) khó là một tình huống cấp cứu khẩn trương đường thở, gặp trong gây mê và hồi sức. Tỉ lệ đặt ống nội khí quản khó chiếm khoảng 0,5%-2% các trường hợp gây mê phẫu thuật. Tỉ lệ đặt NKQ thất bại khoảng từ 1/1000 – 1/2000 trường hợp phẫu thuật, tỉ lệ tử vong do không thể thông khí, không thể đặt được ống nội khí quản chiếm khoảng 5,9% các trường hợp tử vong do gây mê. Mục tiêu: Đánh giá thái độ xử trí khi đứng trước một số tình huống đặc biệt trong đặt nội khí quản khó. Phương pháp nghiên cứu: Thông báo một loạt trường hợp xử trí đường thở khó. Kết quả: Tất cả bệnh nhân nội khí quản khó có thể biết trước hoặc không biết trước chúng tôi đều xử lý thành công bằng phương pháp đặt NKQ ngược dòng và chọc hút dịch nang nhái sàn miệng. Kết luận: Đứng trước bệnh nhân đặt NKQ khó thì người làm gây mê phải bình tĩnh, gọi nhiều người hỗ trợ, chuẩn bị mọi phương án cho cấp cứu đường thở khó, linh hoạt ứng dụng mọi phương tiện hiện có để xử trí NKQ khó. Từ khóa: Đường thở khó, nội khí khó, nội khí quản ngược dòng. SUMMARY DIFFICULT INTUBATION – NEED FLEXIBILITY Background: Difficult intubation is an urgent emergency airway, met in anesthesia and resuscitation. The rate of the difficult endotracheal intubation is about 0.5-5% of surgical anaesthsia. The incidence of failed intubation ranges from 1/1000-1/2000 cases in the elective setting. The mortality rate causing by ventilate, can not intubate is about 5.9% of mortalities of anesthesia. Ojective: Assessment management attitude in the face of a nember of special stuations in difficult in tubation Methods: Cases study Results: Endotracheal patients difficult, can fore-see or did not know before, we were sucessful management method retrograde intubation suctioning the mouth floor cuonterfeit capsules Conclusion: In the face of difficult airway, be calm, many support calls, prepare Amergency plans every difficult airway, know how to use all means available, and quickly by all means Keywords: Retrograde intubation, Difficult intubation, Difficult airway ĐẶT VẤN ĐỀ BỆNH ÁN LÂM SÀNG Xử trí NKQ khó là một tình huống cấp cứu khẩn 1. Bệnh nhân không biết trước đặt NKQ khó trương đường thở, thường gặp ở các bệnh nhân khoa Bệnh án 1. Hồi sức, đặc biệt trong gây mê hồi sức. Đặt ống nội Bệnh nhân, Nguyễn Văn Kh, nam 45 tuổi, chẩn khí quản khó gặp tỷ lệ 0,5-2% trong phẫu thuật chung đoán: U nắp thanh môn, mổ chương trình. Phương và 15-20% trong các phẫu thuật vùng hàm mặt, nó là pháp vô cảm: gây mê NKQ. nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong hoặc tổn Các yếu tố tiên lượng nội khí quản khó: tiền sử thương não trong gây mê phẫu thuật [5],[6]. Trên thế bệnh khó thở khi ngủ, thở rít, khi ngủ phải nằm giới, tỷ lệ tử vong được quy cho thất bại đặt ống nội nghiêng để thở, u lớn nắp thanh môn to bằng quả khí quản khó là 5/100.000 và đứng hàng thứ ba về cam, kích thước # 4x5 cm, phân độ Lehan & Cormak biến chứng hô hấp gây tử vong. Trong những tình độ IV. huống này yêu cầu người thầy thuốc phải nhanh Tình huống bệnh nhân khi xử trí đường thở khó: chóng kiểm soát được đường thở để kịp thời cứu Bệnh nhân được gây mê toàn thân, tím SpO2 25- chữa người bệnh, tránh được các biến chứng do 30%, đã được đặt NKQ > 3 lần bởi Bác sĩ và CNGM không đảm bảo thông khí cho bệnh nhân. Trong công có kinh nghiệm thất bại. Bác sĩ được gọi tới xử trí bị tác thực hành lâm sàng của người thầy thuốc làm về động, không biết trước tình huống NKQ khó. Kiểm tra lĩnh vực gây mê, hồi sức hàng ngày phải đối mặt với vùng họng, thanh môn bằng đèn đặt NKQ khó Mc Coy những trường hợp đặt nội khí quản khó có thể biết Laryngoscope thấy miệng đầy máu, hút sạch kiểm tra trước hoặc không biết trước. Tùy thuộc điều kiện từng thấy khoang miệng u lớn choán gần hết, không nhìn cơ sở y tế có đủ hay không có đủ trang thiết bị dùng thấy 2 amydale và dây thanh âm, cũng không thấy cho xử trí đường thở khó và từ đó mà người thầy khẩu cái mền chỉ nhìn thấy một phần khẩu cái cứng. thuốc phải biết cách vận dụng linh hoạt mọi phương Về mặt lý thuyết: xử trí ở trường hợp này: có thể tiện hiện có, bình tĩnh, nhanh chóng bằng mọi biện dùng ống nội soi thanh quản mềm, dùng dây lighted pháp để kiểm soát đường thở. stylet, video laryngoscope, đặt NKQ ngược dòng và Nhưng không phải ai cũng đủ bình tĩnh và linh hoạt cuối cùng mở khí quản cấp cứu. để xử trí trước một tình huống đặt NKQ khó, do đó Thực tiễn và điều kiện cơ sở: chỉ cho phép chúng chúng tôi nêu lên một số tình huống lâm sàng thực tiễn tôi có thể áp dụng: đặt NKQ ngược dòng và mở khí mà chúng tội gặp trong quá trình làm công tác gây mê quản. hồi sức để trao đổi, bàn luận cùng quý đồng nghiệp. Xử trí và kết quả: Chúng tôi nhanh chóng đặt NKQ yhth (1015) - c«ng tr×nh nckh ®¹i héi g©y mª håi søc toµn quèc 2016 149
  2. ngược dòng bằng bộ catheter t/m TW 1 nòng của vừa chọc vừa bóp bóng(BN này không thể chọc hút ở B/Braun, chọc kim qua màng giáp nhẫn, khi hút có khí điểm dưới hãm lưỡi vì phải bóp bóng cho bệnh nhi). Hút thì rút nòng sắt luồn nòng nhựa vào, sau đó luồng dây được 100 ml dịch màu hơi nâu sẫm) sau đó khoảng 5-7 dẫn đường khi thấy dây dẫn ở miệng kéo ra đủ độ dài phút BN tỉnh thở lại, môi hồng SpO2 96%. Kiểm tra lại thì luồng ống NKQ vào theo dây dẫn, khi NKQ vào lúc này khoang miệng rộng, thấy rõ lỗ thanh môn và 2 đúng vị trí thì rút dây dẫn ra. Trường hợp này chúng tôi dây thanh, tiến hành đặt NKQ thành công. đã đặt NKQ ngược dòng thành công. 2. Bệnh nhân biết trước đặt NKQ khó Bệnh án 2. Bệnh án 4. Bệnh nhân nam, Đặng Ngọc Th, 47 tuổi. Chẩn Bệnh nhân, Lê Quốc M, nam 40 tuổi, chẩn đoán đoán: viêm phúc mạc muộn do thủng tạng rỗng/ K vòm sẹo bỏng co rút vùng mặt cổ (Bn do chuyên gia Pháp họng gây cứng khớp thái dương hàm, mổ cấp cứu. PP phẫu thuật tại BV TW phong và da liễu Quy Hòa năm vô cảm: gây mê NKQ 2009). PP vô cảm: gây mê NKQ Các yếu tố tiên lượng nội khí quản khó: Bệnh nhân Các yếu tố tiên lượng nội khí quản khó: độ mở ăn phải qua ống hút, không đút ăn bằng thìa được. miệng
  3. cáo 0,5%-2% trong phẫu thuật chung, nhưng có thể về não, thậm chí cả tử vong cho bệnh nhân. Do đó tăng tới 15-20% ở những bệnh nhân TMH và RHM [5], người gây mê trực tiếp làm cần gọi nhiều người, bình [6]. Ở Úc tần suất đặt NKQ khó là 1-2% trong toàn dân tĩnh, linh hoạt tìm mọi biện pháp có thể kiểm soát ngay số, 2-3% trong sản khoa, đặt thất bai 0,05-0,3% [6]. được đường thở cho bệnh nhân để tránh những biến Khi cả 2 thông khí bằng mặt nạ và đặt NKQ không thể chứng đáng tiếc xẩy ra. thực hiện được và các PP khác cũng không thành Đối 2 bệnh nhân (bệnh án 4 và 5) trong nghiên cứu công đưa đến tình trạng CVCI (can not ventilate, can của chúng tôi được biết trước nên đã chuẩn bị các not intubate) tần suất 0.01%, lúc này dẫn tình trạng phương án tối ưu để xử trí đặt nội khí quản khó cho nên bệnh đến nguy kịch, tổn thương não nặng hay tử chúng tôi cũng không cần tập trung nhiều người. Tuy vong, tỷ lệ tử vong do đặt NKQ khó là 1/100.000. nhiên đối với bệnh nhân mà sẹo bỏng vừa vùng và cổ Trong gây mê phẫu thuật tỷ lệ đặt NKQ thất bại 1/1000 sẽ làm cho miệng mở không đủ lớn để đưa đèn đặt – 1/2000, tùy thuộc vào từng tác giả, tỷ lệ tang lên NKQ cũng như đặt mask thanh quản, đồng thời sẹo co trong phẫu thuật tuyến giáp, ung thư giáp [4], ở bệnh rút vùng cổ sẽ làm lệch khí quản và mốc của màng giáp nhân bỏng vùng mặt cổ, bệnh nhân béo phì, sản khoa, nhẫn từ đó gây nên khó khăn cho đặt NKQ ngược dòng những bệnh nhân viêm dính khớp thái dương hàm [2], và đặt bằng ống nội soi thanh quản mềm khả năng thất [6], [8]. Trong thực hành gây mê phẫu thuật hàng ngày bại cao. Vì vậy, chúng tôi chọn đặt NKQ ngược dòng chúng ta gặp xử trí đặt NKQ khó không phải là ít, khi bệnh nhân đang ở trạng thái tỉnh. nhưng trong một số trường hợp đặc biệt và sự đánh Với bệnh án 5 vừa do yêu cầu của phẫu thuật giá NKQ khó cũng như tiên lượng NKQ khó trước khi viên, vừa do có tiên lượng đặt NKQ khó nên chúng tôi gây mê chưa đúng, chưa được đánh giá kỹ gây cho không dùng mask thanh quản hay đặt NKQ đường người làm gây mê lúng túng, bối rối trong khi xử trí. miêng bằng dây dẫn GEB do đó chúng tôi chọn Trong 3 trường hợp đặt NKQ khó không biết trước phương pháp đặt ngược dòng đường mũi là tốt nhất. trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 trường hợp rơi KẾT LUẬN vào tình huống không thể thông khí, không thể đặt Đứng trước một trường hợp đặt NKQ khó không được NKQ (can not ventilate, can not intubate) với tình biết trước: huống này nếu người gây mê không bình tĩnh, không Cần gọi nhiều người hỗ trợ, đặc biệt người có kinh có kinh nghiệm, không linh hoạt để xử trí ngay thì có nghiệm. thể gây tổn thương não nặng do thiếu ôxy, thậm chí kể Cho bệnh nhân thở hoặc bóp bóng với oxy 100%, cả tử vong cho người bệnh. Đối với bệnh nhi có nang SpO2 phải đo được dù có thấp hay đủ độ bão hòa ôxy nhái sàn miệng, do nang to và lưỡi ở trẻ nhi lớn choán Bình tĩnh, sáng suốt, linh hoạt lựa chọn mọi hết khoang miệng nên không quan sát được các cấu phương tiện hiện có, mọi biện pháp khẩn trương khai trúc vùng hầu họng, do đó không cho phép chúng ta thông đường thở đặt NKQ mò được, đặc biệt đối với trẻ em khả năng Trong trường hợp bệnh nhân đã gây mê không dự trữ oxy kém nên tím tái xảy ra rất nhanh, mặt khác thông khí được bằng mặt nạ (face mask), không thông đối với trẻ nhi khi mà cố gắng đặt NKQ sẽ gây co thắt khí được bằng mask thanh quản, không đặt được thanh khí phế quản, phù thanh môn sẽ gây nguy hiểm NKQ mà tình trạng nguy kịch thì có thể chọc kim luồn đến tính mạng của trẻ. Đứng trước các trường hợp 16 G qua màng giáp nhẫn để bơm ôxy vào phổi cấp này yêu cầu người gây mê hết sức bình tĩnh, nhanh cứu. chóng tìm mọi biện pháp nhằm thông khí được cho Đặt NKQ khó biết trước: cần phải khám kỹ, cẩn người bệnh kể cả chọc kim lớn qua màng giáp nhẫn thận và chọn phương pháp tối ưu phù hợp với điều để bơm ôxy vào cho bệnh nhi. Do khi bệnh nhi ngủ kiện cơ sở hiện có. Trước khi gây mê nên cho BN nằm ngửa khối u sẽ đẩy lưỡi che kín mất lỗ thanh môn ngửu ôxy 100% trong vòng 3-5 phút. nên chúng tôi cho trẻ nằm nghiêng và chọc hút dịch TÀI LIỆU THAM KHẢO trong nang để giải phóng đường thở đồng thời cắt 1. The American Societyof Anesthesiologists Task thuốc mê cho trẻ tỉnh lại để kiểm tra lại khả năng thông Force on Management of the Difficult Airway (2003). khí của trẻ khi nằm ngửa trở lại. Chúng tôi nhận thấy Practice Guidelines for Management of the Difficult trẻ thở tốt hơn nên tiến hành gây mê và đặt nội khí Airway. ANESTHE-SIOLOGY; 98:1269–77 quản dễ dàng. Đối với bệnh án 2, đây là trường hợp 2. Vithal K Dhulkhed (2008). Retrograde Intubation in không thể đặt NKQ đường miệng được do độ mở Temporomandibular Joint Ankylosis –A Double Guide miệng < 0,5cm, ngay cả nơi mà 2 răng cửa hàm trên Wire Technique . Indian Journal of Anaesthesia ; 52 bị gãy cũng không đút lọt ống NKQ số 4, đứng trước (1):90-92. 3. The American Society of Anesthesiologists, Inc. tình huống này chúng tôi chọn đặt NKQ ngược dòng Lippincott Williams & Wilkins. Anesthesiology (2013) đường mũi (không có ống nội soi mềm) là biện pháp Practice Guidelines for Management of the Difficult nhanh nhất, ít gây tổn thương hơn so với mở khí quản. Airway. Anesthesiology, V 118 • No 2 Ở những bệnh nhân mà có rối loạn về hô hấp trong khi 4. Trần Thị Cẩm Nhung, Lê Văn Quang, Nguyễn Văn ngủ, như hội chứng ngủ ngưng thở thường có tỷ lệ đặt Chừng (2011). Nghiên cứu những yếu tố tiên lượng đặt NKQ khó tăng cao hơn [9], [10]. nội khí quản khó trong phẫu thuật tuyến giáp. Y học TP. Tóm lại với những tình huống không biết trước đặt Hồ Chí Minh; Tập 15; Phụ bản của Số 3; tr 77-80 . NKQ khó, lúc xảy ra làm cho người gây mê mất bình 5. Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Thụ (2009). Phân loại tĩnh, không tỉnh táo để tìm phương pháp kiểm soát hô và xử trí đặt ống nội khí quản khó trong gây mê các phẫu hấp cho người bệnh từ đó có thể gây biến chứng năng thuật về bệnh lý Răng Hàm Mặt. Tạp chí Y học thực yhth (1015) - c«ng tr×nh nckh ®¹i héi g©y mª håi søc toµn quèc 2016 151
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2