ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ CHỐNG CHÍNH SÁCH<br />
“TỐ CỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM Ở HỘI<br />
AN (QUẢNG NAM)<br />
Đinh Thị Kim Ngân1<br />
<br />
Tóm tắt: Chính sách “tố Cộng” của chính quyền Sài Gòn đã gây nên những tổn thất lớn cho<br />
cách mạng miền Nam nói chung, cách mạng Hội An nói riêng. Đời sống chính trị tại Hội An trở<br />
nên ngột ngạt. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với Mỹ - Diệm ngày càng sâu sắc dẫn đến<br />
một cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt của cán bộ, nhân dân Hội An dưới sự lãnh đạo của Đảng<br />
chống chính sách “tố Cộng” của Mỹ - Diệm là điều không thể tránh khỏi.<br />
Từ khóa: “tố Cộng”; Hội An, đấu tranh chính trị chống “tố Cộng”.<br />
1. Âm mưu, thủ đoạn của Mỹ - Diệm trong chính sách “tố Cộng” ở Hội An ( Quảng<br />
Nam )<br />
Từ đầu năm 1955 chính quyền Sài Gòn đã bắt đầu thực hiện chính sách “tố Cộng” nhưng<br />
chúng vẫn bị chi phối do phải đối phó với các lực lượng chống đối của Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao<br />
Đài, Đại Việt và Quốc dân Đảng. Tại Quảng Nam, Quốc dân Đảng do bất mãn về địa vị, quyền lợi<br />
nên rút lực lượng lên vùng phía Tây lập căn cứ chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhưng chẳng<br />
được bao lâu, thế cùng lực kiệt, ngày 10-11-1955 Quốc Dân Đảng phải kéo về tỉnh lỵ Hội An làm<br />
lễ quy thuận đầu hàng. Đến tháng 7-1956, khi đã cơ bản thiết lập xong bộ máy ngụy quân, ngụy<br />
quyền phản động từ trung ương xuống địa phương, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành các<br />
chiến dịch “tố Cộng” một cách quy mô , triệt để, tàn bạo hơn bao giờ hết và xem đó là “quốc sách”.<br />
Tháng 7-1957, chính quyền Sài Gòn thông qua luật “Đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật” [11,<br />
tr.204].<br />
Chính quyền Ngô Đình Diệm truy nã đảng viên Hội An trong các “Hội đồng hương chính”,<br />
thanh trừng những đối tượng bị nghi là không trung thành và chống lại Ngô Đình Diệm. Những<br />
phần tử bất mãn đối với chính quyền cách mạng trong kháng chiến chống Pháp được chính quyền<br />
Ngô Đình Diệm ưu đãi và đặc dụng. Chính quyền Ngô Đình Diệm lập ra “Phòng hoạt vụ” gồm<br />
những người khét tiếng gian ác, trong đó có một số người nguyên là cán bộ kháng chiến bị chính<br />
quyền cách mạng kỷ luật thải hồi trở thành tay sai mẫn cán vô cùng nguy hiểm. Các “Ban tố Cộng”<br />
được thành lập đến tận xã, những đoàn công dân vụ, bình trị được tung về khắp xóm thôn thực<br />
hiện “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) vừa tiến hành chiến tranh tâm lý, vừa theo dõi từng<br />
người, từng gia đình để phát hiện cơ sở và cán bộ của chính quyền cách mạng.<br />
Viên chức chính quyền Ngô Đình Diệm tại các xã tiến hành phân chia nhân dân thành ba<br />
loại:<br />
<br />
1<br />
<br />
. ThS. Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Huế<br />
<br />
Loại A (công dân bất hợp pháp) gồm những người yêu nước, tán thành Hiệp định Geneve,<br />
phần đông là những người kháng chiến cũ.<br />
Loại B (công dân bán hợp pháp ) gồm những người có quan hệ thân thiết với loại A, thân<br />
nhân của những người đi tập kết.<br />
-<br />
<br />
Loại C (công dân hợp pháp) gồm những người không bị nghi vấn về chính trị [4 , tr. 223].<br />
<br />
Dựa vào cách phân loại trên, chính quyền Sài Gòn tiến hành các lớp “tố Cộng” theo từng đối<br />
tượng và thời gian, địa điểm khác nhau. Loại A học ở quận từ 3 tháng trở lên, loại B học ở khu ít<br />
nhất 1 tháng, loại C học ở xã từ 7-15 ngày. Tại Cẩm Nam, chính quyền Sài Gòn tổ chức “Trại cải<br />
huấn” chung cho toàn tỉnh. Khẩu hiệu của chúng là: “tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên<br />
oán thù để thực thi chủ nghĩa nhân vị quốc gia” nhằm đánh bật tổ chức, uy tín và ảnh hưởng của<br />
Đảng ra khỏi nhân dân, thủ tiêu phong trào cách mạng [4, tr. 224].<br />
Chính quyền Sài Gòn lấy Quảng Nam làm trọng điểm của chiến dịch tố Cộng, trong đó nhà<br />
lao Thông Đăng, Hội An là nơi chúng chọn để tổ chức các lớp “Huấn chính tố Cộng điển hình” để<br />
rút kinh nghiệm mở ở các địa phương khác, đồng thời để truy tìm cơ sở và buộc ly khai Đảng, xuất<br />
thú đầu hàng. Ở nhà lao Hội An, một buồng giam rộng 54m2, địch nhốt tới 150 người. Chỉ riêng<br />
năm 1957 đã có 225 cán bộ của Quảng Nam bị đày ra Côn Đảo [7, tr.25].<br />
Tháng 5-1957, trong báo cáo gửi chính quyền Sài Gòn, tỉnh trưởng Quảng Nam huyên hoang<br />
tuyên bố: “Trong giai đoạn hiện nay, đấy mạnh chiến dịch tố Cộng là một trong những nguyên tắc<br />
trọng tâm…phong trào tố cộng đã và đang được phát động một cách rầm rộ, sâu rộng và sẽ được<br />
đặc biệt nuôi dưỡng liên tục” [8, tr.10].<br />
Ban “Huấn chính tố Cộng” ở nhà lao Thông Đăng được thành lập do Lê Vui - Chủ sự hành<br />
chính tỉnh Quảng Nam làm Trưởng ban. Mai Thuận - Trưởng an ninh nhà lao làm Phó ban. Nguyễn<br />
Đạt Đích, Phạm Quyên - Cán bộ cải huấn làm Giáo vụ. Ngoài ra, chính quyền Ngô Đình Diệm còn<br />
dùng người của Quốc Dân Đảng như: Phan Đình Ba (Đại Lộc), Nguyễn Mậu Kỉnh (Quế Sơn),<br />
Nguyễn Danh (Thăng Bình), đây là những người từng phạm tội tham ô, hiếp dâm để làm cộng tác<br />
viên theo dõi, đấu tố và tra tấn, đánh đập tù nhân yêu nước [9, tr.57].<br />
“Nhà Lao Thông Đăng có 492 tù chính trị, Trại giáo hóa Cẩm Phô có 490 tù chính trị, trại<br />
giam quá chật hẹp, người đau và người chết rất đông, tình trạng bi đát.<br />
Về cách giải quyết tình trạng can cứu rất chậm trễ, trong khi chưa lập xong hồ sơ cho số<br />
can cứu cũ. Trại giam ở Hội An của tỉnh Quảng Nam chật hẹp nên tỉnh có làm them một trại giáo<br />
hóa bằng tranh ở Cẩm Phô, bên kia sông Hội An. Nhưng số can cứu đến 1000 người, chổ ăn ở<br />
phải thiếu thốn, và ở trại Hội An các can cứu phải nằm hai ba tầng. Đến mùa viêm nhiệt, người<br />
đau rất đông” [3].<br />
Chính quyền Sài Gòn lập một danh sách bao gồm 120 học viên gọi là “Học viên Huấn chính”<br />
phần lớn là Đảng viên mà chúng cho là ngoan cố để bắt tham gia lớp huấn chính tố Cộng thí điểm<br />
này, trong đó đ/c Mai Đăng Chơn2 - được chính quyền Sài Gòn chọn làm đối tượng chính. Ngày<br />
1-3-1957, Chính quyền Sài Gòn bắt đầu khai mạc lớp “Huấn chính tố Cộng” tại phòng giam số 8,<br />
diện tích khoảng 40m2, mái lợp tôn kẽm. Do số lượng học viên quá đông, thời gian tổ chức lúc trời<br />
2<br />
<br />
. Mai Đăng Chơn (sinh năm 1912), Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà<br />
<br />
đang nắng nóng, phòng giam lại chật chội nên ở trong phòng như một cái lò nung sắt. Không khí<br />
trong phòng càng nghẹ thở bởi mùi xúi uế từ mồ hôi và nước tiểu. Đây là một cực hình đầu tiên<br />
của địch trong việc truy bức tinh thần tù nhân yêu nước [9; tr.58].<br />
Trong Hội trường lớp chính huấn, đồ trang trí gồm “Bàn thờ Tổ quốc” có cờ của chính quyền<br />
Ngô Đình Diệm, ảnh Ngô Đình Diệm và một cây sung tiểu liên. Đây là hình thức kiểu chủ nghĩa<br />
duy linh nhân vị của Ngô Đình Diệm<br />
Về nội quy lớp học, Quân đội Sài Gòn bắt mỗi học viên phải mang phù hiệu “Huấn chính”<br />
ở trước ngực để phân biệt với tù nhân khác và cấm học viên không được giao tiếp với tù nhân ở<br />
các phòng. Cùng với âm mưu cách ly, chính quyền Ngô Đình Diệm cho lực lượng “cộng tác viên”<br />
theo dõi mọi hoạt động của tù nhân.<br />
Cùng với việc bóp nghẹt điều kiện ăn ở của tù nhân, Quân đội Sài Gòn không bỏ sót bất cứ<br />
một thủ đoạn tra tấn nham hiểm nào, trong đó thâm hiểm nhất là cột chân người tù treo lên xà nhà,<br />
đổ nước xà phòng, vôi vào miệng, dùng điện châm vào người, nung sắt đỏ dí vào người, dùng dao<br />
cắt đầu vú, chọc cây vào âm hộ, rút từng mãng tóc của nữ tù nhân, dùng thép gai xâu tay, đóng<br />
đinh vào các đầu ngón tay, dùng dây điện quấn vào đầu ngón tay và cho điện giật làm cho tù nhân<br />
chết đi sống lại, có một số tù nhân bị điện giật chết ngay tại chỗ. Khai thác từng người không đạt<br />
được mục đích, quân đội Sài Gòn bắt tất cả các tù nhân đứng nhìn đèn “sám hối”, tù nhân sắp thành<br />
từng hàng nhìn đèn đứng nghiêm, quỳ, hai tay nâng hai viên gạch lên ngang vai mắt nhìn thẳng<br />
vào ngọn đèn cầy và ảnh Ngô Đình Diệm. Mỗi đêm, quân đội Sài Gòn bắt tù nhân thực hiện nghi<br />
thức “sám hối” từ 19h đến 24 giờ, có khi đến 5-6h sáng hôm sau. Ngoài ra tù nhân phải uống các<br />
thứ nước bẩn, ăn cơm thiu trộn lẫn cát, sạn hoặc nấu cơm bằng nước muối, nước uống một ngày<br />
bằng một lon sữa cho một người, tù nhân bị đào hố chôn sống. Những thủ đoạn thâm độc của Diệm<br />
tại nhà lao Thông Đăng trong chiến dịch “tố Cộng” không khác gì những cực hình tra tấn được áp<br />
dụng trong đêm trường Trung cổ [9; tr.60].<br />
Một hình thức man rợ khác là “tống tà Cộng sản”, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt cán bộ,<br />
đảng viên bỏ vào bao buộc lại rồi bắt tất cả những người đang học “tố Cộng” phải dùng tay chân,<br />
gậy roi đánh đá vào bao để tống “con ma Cộng sản” khỏi thể xác con người. Chính quyền Ngô<br />
Đình Diệm còn chọn những người nghi vấn ra tố điển hình, bắt làm bản tự thuật khai báo tổ chức,<br />
nói xấu Đảng, xé cờ Đảng trước quần chúng. Những người có chồng con tập kết bị bắt viết đơn ly<br />
khai. Ai không làm theo lập tức bị liệt vào danh sách Việt cộng, bị tống tù, tra tấn cho đến chết<br />
hoặc bị thủ tiêu. Đảng viên bị bắt đi lao dịch làm gạch ở Điện Bàn, khai thác củi ở Cù Lao Chàm,<br />
Sơn Trà, làm nhà cho các Trưởng, Phó đoàn bình định tại Cẩm Châu... và bị bắt học tập “tố Cộng”<br />
hết đợt này đến đợt khác [9, tr.61].<br />
Đi đôi với hình thức học tập “tố Cộng” địch thực hiện chính sách kèm dân gắt gao. Đích thân<br />
quận trưởng Điện Bàn Trần Quốc Thái đứng ra điều hành xây dựng các “ấp kiểu mẫu”, “ấp tân<br />
sinh”, “khu trụ mật” với hệ thống “liên gia” được tổ chức theo kiểu “lấy dân kèm dân”. Mỗi gia<br />
đình phải có bản kê khai nhân khẩu, 18 tuổi trở lên phải có thẻ kiểm tra, từng nhà phải có khẩu<br />
hiệu chống Cộng treo trước ngõ. Những người từng tham gia đấu tranh đòi hiệp thương, những gia<br />
đình có người thân đi tập kết và thoát ly bị theo dõi và quản thúc chặt chẽ. Thâm độc hơn, chính<br />
quyền Ngô Đình Diệm cưỡng ép nhân dân vào các tổ chức “Hiệp hội nông dân”, “Phụ nữ liên<br />
đới”, “Thanh niên cộng hòa”, “Phong trào cách mạng quốc gia”... nhằm gây chia rẽ trong nội bộ<br />
quần chúng, làm cho cha không tin con, vợ không tin chồng, hàng xóm láng giềng không tin nhau.<br />
<br />
Cùng với các thủ đoạn trên, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tích cực phát triển đạo Thiên<br />
chúa, nhà thờ được xây dựng nhiều nơi nhằm lợi dụng tôn giáo để ly gián quần chúng. Chính quyền<br />
Sài Gòn tiếp tục thực hiện bước hai chính sách “cải cách điền địa” với khẩu hiệu “hữu sản hóa<br />
nông dân”, “thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”, để mị dân.<br />
Chính sách “tố Cộng”của chính quyền Sài Gòn đã gây nên nhiều tổn thất lớn cho cách mạng<br />
Quảng Nam- Đà Nẵng nói chung và Hội An nói riêng. Đời sống của nhân dân ở Hội An trở nên<br />
ngột ngạt. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ngày<br />
càng sâu sắc điều này dẫn tới một cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt của nhân dân Hội An là không<br />
thể tránh khỏi.<br />
2. Chủ trương của Đảng, Khu ủy Khu V, Thị ủy Hội An chống chính sách “tố Cộng”<br />
của chính quyền Ngô Đình Diệm<br />
Tháng 2-1956, Khu ủy V triệu tập Hội nghị để đánh giá tình hình, chỉ ra những tồn tại, đề ra<br />
biện pháp giữ gìn lực lượng và xác định mục tiêu, nhiệm vụ tiếp tục lãnh đạo đấu tranh chống<br />
chính sách khủng bố của chính quyền Ngô Đình Diệm. Hội nghị đề ra nhiệm vụ sắp tới là tổ chức<br />
cho nhân dân và cán bộ quán triệt hơn nữa phương châm, phương thức hoạt động, uốn nắn những<br />
mặt tồn tại, giữ vững cơ sở chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh lâu dài. Hội nghị chủ trương: “Phải ra<br />
sức xây dựng Đảng, giữ vững và củng cố lại các loại cơ sở, hết sức chú trọng công tác phát triển<br />
đảng viên, xây dựng chi bộ cơ sở. Cán bộ phải bám cơ sở, lãnh đạo nhân dân chống “tố Cộng”,<br />
chống các chính sách bình định của địch”. Trong chống “tố Cộng”, Liên Khu ủy V nhấn mạnh:<br />
“Phải phát động quần chúng đấu tranh một cách toàn diện, không để địch bắt nhân dân bỏ công<br />
ăn việc làm đi học tố Cộng làm ảnh hưởng đến đời sống. Khẩu hiệu đấu tranh là chống khủng bố<br />
trắng, chống bắn giết người vô cớ, cô lập bọn ác ôn phản động và lôi kéo tầng lớp trung gian”<br />
[10, tr.385].<br />
Để chỉ đạo sát phong trào ĐTCT, tháng 2-1956, Liên Khu ủy quyết định tách Đà Nẵng khỏi<br />
Quảng Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy. Trước tình hình chính quyền Ngô Đình Diêm<br />
ngày càng ráo riết thực hiện các biện pháp “tố Cộng”, Khu ủy Khu V chuyển hướng phong trào<br />
ĐTCT với các mục tiêu đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ và chống “tố Cộng” [10, tr.386].<br />
Giữa năm 1958, từ thực tiễn của tình hình trong Liên Khu ủy V, thực hiện nghị quyết Bộ<br />
Chính trị về xây dựng căn cứ địa và theo gợi ý của đồng chí Lê Duẩn, Liên Khu ủy V họp hội nghị<br />
mở rộng để kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng và sự chỉ đạo của Liên Khu ủy từ sau Hiệp<br />
định Genève. Hội nghị đánh giá cao tinh thần hy sinh, chịu đựng của cán bộ, đảng viên quyết tâm<br />
bám phong trào lãnh đạo nhân dân, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao,tin tưởng vào sự lãnh đạo của<br />
Đảng. Đồng thời, Hội nghị cũng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những khuyết điểm trong sự<br />
chỉ đạo của Liên Khu ủy V: “Đánh giá tình hình địch, ta có nhiều sai lệch, không nắm bắt được<br />
kịp thời âm mưu và thủ đoạn của địch nên đối phó bị động, để địch hoành hoành, phá hoại phong<br />
trào, gây cho ta nhiều tổn thất. Nhận thức và vận dụng phương pháp đấu tranh cách mạng không<br />
đúng, cho rằng kết hợp ĐTCT với vũ trang tự vệ là sai, nên thiên về ĐTCT một chiều, quá tin vào<br />
hiệu lực pháp lý của Hiệp định Genève. Nhận thức không rõ đặc điểm của từng vùng trong Khu<br />
để vận dụng phương châm đấu tranh cho thích hợp, do đó, phạm nhiều thiếu sót trong xây dựng<br />
từng vùng” [5; tr. 132].<br />
<br />
Đối với Hội An, dưới sự chỉ đạo của Liên Khu ủy V, Tỉnh ủy Quảng Nam, Thị ủy yêu cầu<br />
phải giữ vững và củng cố lại các tổ chức quần chúng, cán bộ và đảng viên phải bí mật bám cơ sở<br />
để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Thị ủy lãnh đạo ĐTCT dưới nhiều hình thức khác nhau với nhiều<br />
mục đích: đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi thi hành hiệp định Genève, chống “tố<br />
Cộng”, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, mở rộng củng cố tổ chức Đảng và các tổ chức đấu tranh<br />
chính trị. Thị ủy chủ trương phải tuân thủ nguyên tắc bí mật, bảo vệ và giữ gìn lực lượng. Những<br />
Đảng viên không tập kết ra Bắc ở lại hoạt động phân tán trong dân, quyết tâm bám chặt cơ sở, giữ<br />
vững phong trào, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục làm cho mọi người nhận rõ âm mưu<br />
thâm độc của kẻ thù, đoàn kết đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng và lãnh đạo nhân dân đấu<br />
tranh. Thị ủy chỉ rõ mỗi đảng viên, cán bộ phải nêu cao ý thức bảo vệ Đảng, bảo vệ tổ chức đến<br />
cùng, nếu bị địch bắt thì nêu cao khí tiết của người Cộng sản, thực hiện phương châm “không nhìn,<br />
không nhận, không khai” [6; tr.26]<br />
3 . Đấu tranh chính trị chống chính sách “tố Cộng” tại Hội An (Quảng Nam )<br />
Tháng 3-1957, tại các lớp “tố Cộng”, Ngô Đình Diệm bắt học thuộc khẩu hiệu “thành khẩn<br />
là tự cứu”, “ngoan cố là tự sát”. Tại nhà lao Hội An, đến tháng 3-1957, Ngô Đình Diệm mở các<br />
lớp “tố Cộng” khốc liệt nhằm phát hiện các tổ chức đảng bí mật tại Hội An. Tù nhân bị bắt giam<br />
tại nhà lao Hội An thành lập Chi bộ Đảng trong nhà lao, vừa cũng cố đội ngũ, biến nhà tù thành<br />
trường học, vừa chỉ đạo hoạt động ở bên ngoài. Qua thân nhân sau những lần thăm nuôi đã từng<br />
bước hình thành quan hệ liên lạc từ nhà tù với bên ngoài. Một hình thức ĐTCT mới xuất hiện, đó<br />
là sự kết hợp đấu tranh của nhân dân bên ngoài với cuộc đấu tranh trong nhà tù, nhằm vạch tội<br />
ác của Mỹ - Diệm, chống lại thủ đoạn “tự tu sám hối”, “tống tà Cộng sản”. Tương kế tựu kế, đảng<br />
viên tố ngay những người trong “Ban tố Cộng”, khiến những người hung hăng nhất cũng phải chùn<br />
bước. Dù chỉ là thắng lợi nhỏ nhưng đã có tác dụng làm chùng lại sự chống phá của bọn chiêu hồi,<br />
đầu thú. ĐTCT chống “tố Cộng” tức là chống bắt bớ, tra tấn bắn giết dã man, đình chỉ tố cộng, thả<br />
ngay những người bị bắt, giải tán các trại tập trung, các lớp tố cộng, chống áp bức, hành hạ càn<br />
quét, bao vây, phong tỏa làm trầm phiền, đói khổ, giết chóc nhân dân, đòi được tự do đi lại làm ăn,<br />
thăm viếng, nói năng, viết lách…đòi cứu đói, cứu đau; chống cưỡng bức di dân đưa đồng bào đến<br />
chổ cùng khổ, chết chóc, bồi thường cho người bị chết, bị mất sản nghiệp, trả người còn lại trở về<br />
quê hương.<br />
Đấu tranh chính trị chống chính quyền Sài Gòn tổ chức lớp học “Huấn chính tố cộng” thông<br />
qua nhiều hình thức:<br />
Đấu tranh chống chào cờ của chính quyền Ngô Đình Diệmh bằng các hình thức như gây ồn<br />
ào, làm mất trật tự trong lúc chào cờ, vận động bọn lính trực buổi sáng mở cửa trễ, kéo dài thời<br />
gian làm vệ sinh cá nhân để làm trễ lễ chào cờ. Sau nhiều lần đấu tranh khôn khéo, âm mưu của<br />
địch trong việc bắt tù nhan chào cờ vào buổi sáng bị thất bại.<br />
Phát huy thắng lợi ban đầu, tù nhân yêu nước tại nhà lao Hội An đấu tranh đòi bọn quản lao<br />
cho tù nhân ra ngoài dọn vệ sinh, tổ chức sản xuất hoa màu, làm các nghề thủ công như đan rổ,<br />
đan len, thêu gối…đem ra bán ở bên ngoài để cải thiện đời sống cho tù nhân. Đây là cuộc đấu tranh<br />
chính trị hợp pháp. Trước tình hình đó, Giám thị đã nới lỏng chế độ giam giữ, đáp ứng một số yêu<br />
cầu của tù nhân. Thông qua việc này đã góp phần cải thiện cuộc sống của tù nhân tại nhà lao Thông<br />
Đăng - Hội An, nguồn quỹ thu được từ việc bán các sản phẩm do tù nhân làm ra được dùng để<br />
mua thuốc men, một số vật dụng thiết yếu trong nhà tù phục vụ cho tù nhân. Đồng thời tạo điều<br />
<br />