intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin

Chia sẻ: Đinh Văn Huy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

647
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin gồm 5 câu hỏi lý thuyết, giúp bạn làm quen với hình thức thi của môn học, hệ thống lại kiến thức qua các câu hỏi, bài tập và tự đánh giá năng lực của mình. Mời bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin

  1. Câu 1: Phân tích nội dung mối liên hệ biện chứng giữa lí luận và thực tiễn. Rút ra ý nghĩa phương  pháp luận.   Liên hệ thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Câu 2: Nội dung quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất. Liên hệ  với quá  trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Câu 3 : Tại sao nói thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khó khăn, lâu dài và phức tạp? Vận dụng quan điểm   của Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng HCM vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở VN? Câu 4: Điều kiện khách quan và điều kiện chủ  quan quyết định sứ  mệnh  lịch sử toàn thế  giới của giai cấp   công nhân ? Liên hệ với thực tiễn đẩy mạnh CNH­HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Câu 5:  Thực trạng khối liên minh công­nông­trí thức  ở  Việt Nam và phương hướng tăng cường liên minh  công­nông­trí thức ở Việt Nam ta hiện nay? T r a n g  1 | 21
  2. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy Câu 1:  Phân tích nội dung mối liên hệ  biện chứng giữa lí luận và thực tiễn. Rút ra ý nghĩa phương   pháp luận. Liên hệ thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Sự  gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương  thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và  giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho  hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để  phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ  sở, động lực của nhận thức và tiêu   chuẩn của chân lý ... luôn là chìa khóa để  để  giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định.   Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ  nghĩa   giáo điều, kinh viện và chủ  nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ  dẫn đến những thất bại mà đối   với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản: Khái niệm thực tiễn:  Quan điểm trước Mác: Chủ  nghĩa duy tâm chủ  quan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt động   tinh thần. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là thực tiễn. Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ  về  thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động thực nghiệm   khoa học trong phòng thí nghiệm. Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con   buôn. Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ  là khái niệm, tư  tưởng thực tiễn chứ  không phải bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ. Quan điểm Mácxít: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho thực tiễn là hoạt động vật chất ­ cảm tính, mang tính   lịch sử, có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Từ  quan niệm này của triết học duy vật biện   chứng về thực tiễn, chúng ta thấy thực tiễn có ba đặc trưng sau: Một là, thực tiễn không phải là tất cả  hoạt động của con người mà chỉ  là những hoạt động vật chất ­ cảm   tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử  dụng công cụ  vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối  tượng vật chất để  làm thay đổi chúng. Ví dụ  hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như  xây nhà, đắp đê, cày   ruộng,v.v… Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử  ­ xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của  con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất   định. Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ  con người  tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn. Có ba hình thức thực tiễn cơ bản:  Một là, sản xuất vật chất. Đó là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và  trao đổi của con người. Hai là, những hoạt động chính trị­xã hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, mít tinh, biểu tình ... Ba là, hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức đặc biệt, bởi lẽ  trong thực nghiệm khoa học, con   người chủ  động tạo ra những điều kiện nhân tạo để  vận dụng thành tựu khoa học, công nghệ  vào nhận thức và cải   tạo thế giới. Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động,  ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trò  quyết định, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất. Khái niệm lý luận: Theo chủ  nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ  thống những tri thức, được khái quát từ  kinh nghiệm thực  tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và   được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận có những đặc trưng : Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ. Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn   thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận. Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất, hiện tượng. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: Vai trò của thực tiễn đối với lý luận: Thực tiễn là cơ  sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác  động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng.  Nghĩa là thực tiễn cung cấp « vật liệu » cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức. Chính việc đo   đạt ruộng  đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp ­ La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, Pitago... ra đời. Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách khác, thực tiễn là người đặt  
  3. hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức phát triển. Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan cho con người. Chẳng hạn, thông qua các hoạt động sản xuất, chiến   đấu, sáng tạo nghệ  thuật... những cơ quan cảm giác như  thính giác, thị  giác... được rèn luyện. Các cơ  quan cảm giác   được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn. Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu quả hơn như kính thiên văn,   máy vi tính... đều được sản xuất, chế  tạo trong sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ  máy móc này mà con người  nhận thức sự vật chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó, thúc đẩy nhận thức phát triển. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu  tồn tại. Ngay từ tưở  mông muội, để  sống, con người phải tìm hiểu thế  giới xung quanh, tức là để  sống, con người   phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu   cầu thực tiễn. Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con  người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức ­ kết quả của nhận thức. Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ  nghĩa hình thức, chủ  nghĩa thành tích thì nhận thức  sớm muộn sẽ mất phương hướng. Thực tiễn là tiêu chuẩn để  kiểm tra sự đúng sai của nhận thức , lý luận. Theo triết học duy vật biện chứng,   thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Bởi lẽ chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới vật chất hóa được tri  thức, hiện thực hóa được tư tưởng. Thông qua quá trình đó, côn người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Phải   hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính   tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn  ở những giai đoạn lịch sử cụ  thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể  khẳng  định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể  hiện  ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển.   Cho nên, khi thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là những tri thức đã đạt được   trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.  Vai trò của lý luận đối với thực tiễn: Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn . Nhờ những đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh   nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua   hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn. Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng  để  tạo thành phong trào  hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng. Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn , giúp hoạt động thực tiễn chủ động, tự giác,  giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo. ­ Ý nghĩa phương pháp luận: Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu: Một là, nhận thức sự  vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con ng ười, xu ất phát từ  thực tiễn của địa   phương, của ngành và đất nước. Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành. Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để  bổ  sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như  chủ  trương, đường lối, chính sách. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Nếu  coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm,  đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để   khái quát thành lý luận. Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi thường và  hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác  không tính đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình , coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy và hành động, bất   chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm "nói đi đôi với làm", tránh nói một đằng,   làm một nẻo; nói nhiều làm ít; nói mà không làm... Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam: Trước đổi mới: Do chưa nhận thức đầy đủ  lý luận của chủ  nghĩa Mác – Lênin về  thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử  tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế  điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết. Một trong những sai lầm   trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu   kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác   Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn,  ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành  của bộ máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp   T r a n g  3 | 21
  4. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần  kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.  Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề  ra chủ  trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước: Chủ  trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ  lực là phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều   kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế  lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể  nói việc bố  trí cơ  cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ  xuất phát từ  lòng mong muốn đi   nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý   luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ   quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,   các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường...), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ  sản xuất, của   chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ  quá độ. Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế  hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối ... làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên   sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường  lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã   hội : nhiều vấn đề  mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy  đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để  trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong  nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực  chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị  xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ  chế  kế  hoạch hoá tập trung, nền  kinh tế  Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của   chặng đường đầu tiên. Cụ thể  là trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ  trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi  chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đại hội V đã cụ  thể hóa một bước đường lối   kinh tế  trong chặng đường trước mắt, đề  ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về  kinh tế, xã hội nhưng   trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng   vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ  chế  quản lý kinh tế. Xét đến cùng, những sai lầm trên đây của Đảng ta xuất phát từ việc chưa quán triệt đầy đủ nguyên tắc thống   nhất giữa lý luận với thực tiễn. Thời kỳ đổi mới: Nhận thức được những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng đã khởi xướng công  cuộc đổi mới toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có mọi phương hướng đổi mới phải xuất phát   từ thực tiễn như Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ  thực tế, tôn trọng và   hành động theo quy luật khách quan”. Đại hội VI đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong đó bài học thứ hai là "Đảng   phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động  theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự  lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Nền kinh tế  hàng hóa nhiều thanh phần vận   hành theo cơ  chế thị  trường có sự  quản lý của nhà nước từng bước được hình thành. Đại Hội Đảng lần IX cũng đã  nhấn mạnh “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của   thế giới, không sao chép bất cứ  một mô hình có sẵn nào…”.. Những nhận định trên của Đảng chính là sự  tiếp thu và   vận dụng đúng đắn quan điểm của Hồ Chí Minh về  cách mạng XHCN phải lấy thực tế  làm điểm xuất phát để  xác   định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ của cách mạng, kết hợp chặt chẽ  giữa lý luận và thực tiễn để  xác định chủ  trương, chính sách. Những biến đổi ấy vừa có ảnh hưởng tới Việt Nam, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm thực   tiễn mà Việt Nam có thể  tham khảo với các mức độ  khác nhau để  lựa chọn con đường phát triển. Xuất phát từ  đặc   điểm đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng đã nêu:   chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời  mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã   hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ, có một nền kinh   tế  phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế  độ  công hữu về  các tư  liệu sản xuất chủ  yếu, có nền   văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng   lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc   trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả   các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế  độ  xã hội chủ  nghĩa mà nhân dân ta   sẽ  xây dựng. Đại hội IX tiếp tục khẳng định "Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với   thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo  kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình sẵn có nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ  và triệt để  với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ  sung và phát triển cần thiết về  chủ  trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới,  tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển biến tình hình". Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của   chủ  nghĩa Mác­Lênin, tổng kết kinh nghiệm thành công và cả  kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng   chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng ta đã nêu  
  5. ra những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gồm: Một là, "xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh  giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy  đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ  quốc và của nhân dân". Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển  một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ  sở  vật chất ­ kỹ thuật của chủ  nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân". Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ  nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định   hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế  tập thể ngày càng trở  thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối  theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu". Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác ­  Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những   truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng   một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ  tri thức, đạo đức, thể  lực và   thẩm mỹ  ngày càng cao. Chống tư  tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và   những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội". Năm là, "thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp   mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu  nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ  nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới". Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.  Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ  xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố  quốc   phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng". Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ  chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo  đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta" Hiện nay, công cuộc   đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn  đề mới đặt ra ngày càng nhiều, trong đó có những vấn đề liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng   CNXH. Không ít vấn đề về nhận thức lý luận còn chưa đủ rõ; không ít vấn đề về thực tiễn, nhất là những vấn đề bức   xúc nảy sinh từ cuộc sống, chưa được giải quyết kịp thời và tốt nhất. Trên cơ sở đó Văn kiện Đại hội IX tiếp tục chỉ rõ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo   luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề  mới, bức xúc nảy sinh từ  thực tiễn; từng bước cụ  thể  hóa, bổ  sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai trái Đại hội X tiếp tục khẳng định: "đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát   triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành   động cách mạng", "phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn", "đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân,   dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới". Lý   luận đổi mới  ở  nước ta ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tác động trở  lại thực tiễn. Lý luận của chủ  nghĩa  Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng,   cho việc quản lý của nhà nước. Đại hội X đã chỉ  ra: "Thường xuyên tổng kết thực tiễn để  phát triển lý luận, dự  báo   tình hình và xu thế  phát triển của thế  giới, khu vực và trong nước, cung cấp luận cứ  khoa học cho việc hoạch định   đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội X đã đưa ra những phương hướng, giải pháp để  phát triển lý luận, đó là: "phát hiện, ủng hộ  và nhân  rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề  mới, bổ  sung, hoàn thiện và phát triển đường lối",   "chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa   học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế  dân chủ  trong nghiên cứu lý luận". Thực trạng hiện nay  cho thấy không ít cán bộ  đảng viên ta chưa thực sự  quán triệt quan điểm thực tiễn, không bám sát thực tiễn, không   thường xuyên tổng kết thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn cho nên việc triển khai lý luận chưa tốt, lý luận chưa  được bổ sung kịp thời để theo kịp với thực tiễn. Đại hội X đã chỉ ra biện pháp: "Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, giải quyết đúng   đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra". Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy rõ phải coi trọng lý luận nhưng không được cường điệu vai trò của   lý luận coi thường thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng. Cội nguồn của những đột phá tạo ra   những bước tiến vượt bật của xã hội loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận phải gắn với   thực tiễn, phải được kiểm tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông qua việc tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc xây   dựng CNXH ở nước ta khi đất nước nảy sinh những vấn đề  cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã đứng trên   quan điểm, phương pháp luận của CN Mác ­ Lênin và TT HCM để xem xét. Hàng lọat các vấn đề từ kinh tế, chính trị,  T r a n g  5 | 21
  6. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy văn hóa, xã hội... không thể giải quyết chỉ bằng lý luận mà đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện thông qua thực tiễn, tổng   kết thực tiễn, chỉ có như vậy công cuộc xây dựng CNXH của ta mới giảm bớt chông gai, gập ghềnh.
  7. Câu 2: Nội dung quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất. Liên hệ  với quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ  khi xuất hiện con người trên hành tinh này, đến ngày nay đã trải qua 5 phương thức sản xuất: công xã   nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, chủ  nghĩa tư  bản, chủ  nghĩa xã hội. Tư  duy nhận thức của con  người không dừng lại  ở  một chỗ  mà ngày càng phát triển hoàn thiên hơn. Từ  đó kéo theo sự  thay đổi phát triển lực   lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kĩ thuật   lạc hậu, đến ngày nay trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền sản xuất xã hội chính là sự thống   nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, như Mác và Ănghen nói, đó là quy luật về sự phù hợp   giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Nội dung quan hệ sản xuất phù hợp với sự  trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là phép biện chứng cơ   bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thể hiện phương pháp nhận thức khoa học, đối lập với phép nhận thức siêu hình.   Phép biện chứng này nhìn thấy sự tác động qua lại của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong từng gia đoạn   lịch sử nhất định. Vậy quan hệ sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất là gì? Nó có quan hệ phù hợp như thế nào? Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản: Phương thức sản xuất (PTSX): Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch  sử  nhất định.  Ở  một giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế  ­ xã hội nhất định có một phương thức sản xuất riêng.   Phương thức sản xuất bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.  Lực lượng sản xuất (LLSX): Trong quá trình thực hiện sản xuất vật chất, con người tác động vào giới tự  nhiên, chinh phục giới tự nhiên  bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ  lao động. Trong lực lượng sản xuất, chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá cao vai trò của người lao động và công cụ  lao   động. Con người với tư cách là chủ thể sản xuất vật chất, luôn sáng tạo ra công cụ tác động vào đối tượng lao động   để tạo ra của cải vật chất. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Khẳng định   điều đó, V.I. Lênin viết : "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân lao động là công nhân, là người lao động". Công cụ lao động là khí quan vật chất "nối dài", "nhân lên" sức mạnh con người trong quá trình biến đổi giới  tự  nhiên. Nó là yếu tố quyết định trong tư  liệu sản xuất. Trình độ  phát triển của công cụ  là thước đo trình độ  chinh   phực tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự  khác nhau giữa các thời đại kinh tế  ­ kỹ thuật trong lịch   sử. Mác viết: "Những thời đại kinh tế  khác nhau không phải  ở  chỗ  chúng sản xuất ra cái gì, mà là  ở  chỗ  chúng sản   xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào". Khoa học, trước hết là khoa học kỹ thuật có vai trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất. Đặc biệt   ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi   to lớn trong sản xuất vật chất mà  ở  những thế  kỷ  trước không có được. Có thể  nói, chưa bao giờ  tri thức khoa học  được vật chất, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất một cách nhanh chóng và có hiệu quả  như  ngày nay. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng nó luôn là yếu tố khách quan. Hay nói cụ  thể  hơn, lực lượng   sản xuất là kết quả  của năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiến này bị  quyết định bởi  những điều kiện khách quan trong đó con người sinh sống; bởi những lực lượng sản xuất đạt được do thế  hệ  trước   tạo ra. Trình độ của lực lượng sản xuất dùng để  chỉ năng lực, mức độ  hiệu quả  chinh phục giới tự nhiên thông qua   việc sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người.  Quan hệ sản xuất : Để  tiến hành sản xuất vật chất, con người không chỉ  có quan hệ  với tự  nhiên (lực lượng sản xuất) mà còn   phải quan hệ với nhau theo một cách nào đó. Quan hệ đó được khái quát trong khái niệm quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Quan hệ sản xuất được cấu thành  từ quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ phân phối sản   phẩm lao động, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quết định. Quan hệ  sản xuất được hình thành   một cách khách quan trên cơ sở một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định đối với quan hệ  quản   lý, quan hệ phân phối. ngược lại, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối cũng tác động trở lại to lớn đến quan hệ sở hữu.  Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: Đây là một quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Nội dung của quy luật được   thể hiện trên ba điểm chủ yếu sau: Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất là mối quan hệ  khách quan, vốn có trong mọi quá   trình sản xuất vật chất. Nói cách khác, để  tiến hành sản xuất vật chất, con người phải thực hiện mối quan hệ đôi,   T r a n g  7 | 21
  8. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy quan hệ  kép, quan hệ  song trùng này. Thiếu một trong hai quan hệ  đó, quá trình sản xuất vật chất không thực hiện  được. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, ở nhiều nước, trong đó có cả nước ta, do nóng vội, chủ  quan duy ý chí đã sớm thiết lập một nền kinh tế thuần nhất dưới hai hình thức sở  hữu tư  liệu sản xuất (sở hữu nhà   nước và sở hữu tập thể), nên đã để lãng phí rất nhiều năng lực sản xuất trong nước và trên thế giới. Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất thì lực lượng sản xuất  biểu hiện mặt nội   dung, còn quan hệ  sản xuất biểu hiện mặt hình thức của một PTSX. LLSX  giữ vai trò quyết định. Khuynh hướng của  sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu tự sự  biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ  lao động. Trong một phương thức sản xuất, lực   lượng sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ  làm  cho quan hệ sản xuất phải biến đổi theo phù hợp với nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó   quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó quan hệ sản xuất,   các yếu tố cấu thành của nó "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ  phát triển   của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư  liệu sản xuất. Sự phù   hợp đó biểu hiện rõ rệt ra kết quả lực lượng sản xuất phát triển, kinh tế phát triển, phát huy được mọi năng lực sản   xuất và năng suất lao động cao. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp biện chứng, sự   phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (lực lượng sản xuất luôn biến đổi) với một yếu   tối mang tính ổn định tương đối (quan hệ sản xuất ổn định hơn, ít biến đổi hơn). Quan hệ  sản xuất từ chỗ thích ứng  với sự  phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng do lực lượng sản xuất luôn biến đổi, phát triển, lại trở  thành xiềng   xích, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người phát hiện những yếu tố dẫn đến không phù hợp, tức là   phát hiện những mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới của quan hệ sản xuất với lực   lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của sản xuất xã hội cứ tiếp diễn theo tiến trình đó. Cho nên sự phù hợp ­ không phù hợp ­ phù hợp là biểu hiện khách quan của quá trình tương tác giữa lực lượng   sản xuất và quan hệ sản xuất của mọi phương thức sản xuất trong lịch sử. Trước đây, trong cải tạo và xây dựng nền kinh tế mới ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã nhận thức về  sự  phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất một cách chủ  quan, giản đơn, máy móc, cứng nhắc. Đó là  những quan niệm cho rằng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn diễn ra sự không phù hợp giữa quan hệ  sản xuất với  lực lượng sản xuất, vì ở đó, quan hệ  sản xuất được xây dựng trên cơ  sở  chiếm hữu tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa về  tư   liệu sản xuất. Còn nền sản xuất xã hội chủ  nghĩa thường xuyên có sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất đối với lực   lượng sản xuất, vì ở đây, quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản   xuất. Cả  hai quan niệm trên đều trái với phép biện chứng khách quan của lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất.   Chủ  nghĩa tư  bản, chủ  nghĩa xã hội đều tồn tại khách quan về  sự  phù hợp này. Nghĩa là trong chủ  nghĩa tư  bản hay   trong chủ nghĩa xã hội, nền sản xuất vật chất của xã hội đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn của sự phù hợp ­ không   phù hợp ­phù hợp, ... như là yếu tố nội sinh. Vấn đề là ở chỗ, nhân tố chủ quan có phát hiện kịp thời và giải quyết một   cách có hiệu quả những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hay không. Giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng không phải chỉ bằng cách duy nhất   là xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới. Giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan   hệ sản xuất là một quá trình, mà biện pháp thường xuyên là đổi mới, cải cách, điều chỉnh quan hệ sản xuất trước mỗi  sự phát triển của lựa lượng sản xuất. Dĩ nhiên, cải cách, điều chỉnh quan hệ sản xuất bao giờ cũng có giới hạn của nó.   Khi mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã trở nên gay gắt, không thể không giải quyết thông qua   biện pháp cải cách, điều chỉnh được nữa thì tất yếu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới   cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản xuất đồ  sộ, tính chất xã hội hóa ngày   càng cao, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế  độ chiếm hữu tư nhân tư  bản chủ   nghĩa về tư liệu sản xuất. Biện pháp mà các nước tư  bản đang cố  giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và   quan hệ sản xuất là cải cách, điều chỉnh quan hệ sản xuất tạo ra sự thích nghi nhất định.. Biện pháp đó trước mắt vẫn   tạo ra được tiềm năng để  phát triển kinh tế. Tuy nhiên, biện pháp đó không giải quyết được triệt để  các mâu thuẫn,   khủng hoảng chu kỳ vẫn đang tiếp tục diễn ra đang đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản quan hệ  sản xuất, thiết   lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phù hợp và không phù hợp, ... của quan hệ  sản xuất với lực lượng sản xuất cũng   tồn tại khách quan, bên trong của nền sản xuất vật chất như là yếu nội nội sinh của sự phát triển. Chính vì thế, chủ  nghĩa xã hội cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách có hiệu quả, tạo ra sự  phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực  lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,  kinh tế phát triển. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ  sản xuất được xây dựng trên cơ  cơ  trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất, do lực lượng sản   xuất quyết định. Nhưng sau khi được xác lập, nó có sự tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
  9. Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, quy định hình thức tổ chức, quản lý sản xuất, quy   định khuynh hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, từ đó hình thành hệ thống những   yếu tố tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ  tạo địa bàn cho sự phát   triển lực lượng sản xuất, trở thành một trong những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu   quan hệ  sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ  kìm hãm sự  phát triển của lực   lượng sản xuất. Tác động theo chiều hướng tiêu cực của quan hệ  sản xuất đối với sự  phát triển lực lượng sản xuất chỉ có ý   nghĩa trương đối. Quan hệ  sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất, sớm muộn gì cũng được thay thế  bằng   một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ  mới của lực lượng sản xuất. Đó là xu thế  tất yếu của sự  phát triển  sản xuất, sự phát triển kinh tế, mà không một gia cấp nào, một chủ thể nào có thể cưỡng lại được. Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam : Trước thời kỳ đổi mới, việc nhận thức và vận dụng quy luật này ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và ở  những nước mà xuất phát điểm đi lên chủ nghĩa xã hội thấp như ở nước ta nói riêng đã mắc phải những lệch lạc, sai   lầm, chủ quan. Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế xã hội chủ  nghĩa thuần nhất với hai hình thức sở  hữu là sở  hữu  nhà nước và sở hữu tập thể trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều là một   chủ trương nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đó không phải là sự vận dụng một cách sáng tạo quy luật ­ như có thời kỳ  chúng ta vẫn lầm tưởng ­ mà là vi phạm quy luật, làm trái quy luật khách quan. Ở nước ta Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986) cua Đang, chúng ta đã m ̉ ̉ ắc phải bệnh chủ  quan duy ý chí, nóng vội và bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản   xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất   nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất  tiên tiến đi trước để  mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại. Đúng như  văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm   không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những   yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan   hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất   trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế ­ xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn   xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh;   mặt khác, duy trì quá lâu cơ  chế  tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự  phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ   quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng. Sự  nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng quy luật đang hoạt động   trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa; coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm   thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật.  Từ sự trình bày trên đây, có thể rút ra một số sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ   sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tức mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất  và quan hệ sản xuất không phù hợp thực tiễn: Không hiểu đúng quan hệ  biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tách rời quan hệ  sản  xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ  sản xuất ma coi nh ̀ ẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển,   giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở  đường cho lực lượng sản xuất,   muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ  nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế  còn lạc hậu, mới giành  được chính quyền. Nhận thức quan hệ  sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu chế  độ  sở  hữu, nhất là muốn nhanh chóng   thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải   nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức ­ quản lý và phân phối; coi nhẹ  động lực lợi ích cá nhân của người lao   động. Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa ­ tiền tệ, cơ chế  thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra một quan hệ  sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất khác nhau, những vùng   miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ  lực lượng sản xuất rất   khác nhau, tức là cào bằng quan hệ sản xuất. Tóm lại, những sai lầm có tính phổ biến trên đây chính là do nhận thức không đúng bản chất quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó, không tính đến điều kiện thực tiễn   khi vận dụng, kết cục không tránh khỏi rơi vào thất bại. Từ những sai lầm trong nhận thức đã dẫn tới những chỉ đạo sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn. Cụ thể: Một là, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt, trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn   cho sự phát triển lực lượng sản xuất. T r a n g  9 | 21
  10. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy Hai là, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi trình độ lực lượng sản xuất   còn thấp kém và phát triển không đồng đều; khả năng quản lý còn yếu kém... Thời kỳ  đổi mới, Đảng ta đã chủ  trương chuyển từ  một nền kinh tế thuần nhất xã hội chủ  nghĩa sang nền   kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất không bao giờ  là sự  phù hợp   tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao   giờ  là sự  phù hợp chung mà bao giờ  cũng tồn tại dưới những hình thức cụ  thể, thích ứng với những đặc điểm nhất  định với trình độ nào đó của Lực lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ đi lên CNXH, nền kinh tế không còn là nền kinh   tế  tư  bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế  XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc   điểm của sự  tồn tại khách quan của nền kinh tế  nhiều thành phần. Trong cải tạo Quan hệ  sản xuất cũ và xây dựng   Quan hệ sản xuất mới, Đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sử hữu, chế độ  quản lý và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ   kia. Không nên quá đề cao chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng Quan hệ sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ,   nếu chế độ quản lý và phân phối không được xác lập theo những nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của Lực   lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở Lực lượng sản xuất phát triển. Đối với chế độ quản lý, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có những qui định gì ? Trước tiên, nó qui định tính   chất mục tiêu, phương pháp của quản lý đó là quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với việc tổ chức quản lý nền   kinh tế. Làm sao cho mọi người lao động trong xã hội cũng làm chủ tư liệu sản xuất có quyền bình đẳng, hợp tác trong  lao động sản xuất và trong lợi ích kinh tế. Thứ hai là, cơ chế quản lý kinh tế dựa trên chế độ công hữu là phải có tính   kế hoạch tính tập trung thống nhất. Văn kiện Đại hội VI cũng đã khẳng định điều này: tính kế  hoạch là đặc trung số  một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kì quá độ. Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ qui luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất   và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất hiện có để  xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Qui luật đó   luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo Quan hệ sản xuất cũ, xây dựng Quan hệ sản xuất mới trên những  điều kiện phát triển của Lực lượng sản xuất. Đại hội VI chỉ  rõ “đảm bảo sự  phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và   Quan hệ  sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ  tạo Quan hệ  sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất”, không nên   nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như  việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần phải cải tạo   nề  sản xuất nhỏ, các thể  để  đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn. Trên cơ  sở  sản xuất nhỏ  xây dựng  những hình thức của Quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời   gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo qui luật về sự  phù hợp giữa Quan hệ  sản xuất với tính chất và trình độ   phát triển của Lực lượng sản xuất, qúa trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp,phải coi trọng   những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ qui mô nhỏ  đến qui mô lớn, trong mỗi bước đi của quá   trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ  sở  vật chất­kỹ thuật tạo ra lực lượng sản xuất mới   trên cơ  sở  đó tiếp tục đưa quan hệ  sản xuất lên hình thức và qui mô thích hợp để  thúc đẩy lực lượng sản xuất phát   triển”. Tóm lại việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải đảm bảo sự  thích ứng đồng bộ  giữa ba yếu tố của quan hệ sản xuất cũng như mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Hiện nay nền kinh tế ở nước ta ­ như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam   đã chỉ ra các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.   Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định   hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế  nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để  Nhà nước định hướng và điều tiết kinh tế, tạo nên   môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực  lượng sản xuất trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt bậc. Có thể  nói quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ  phát triển của LLSX là quy luật phổ  biến của   mọi hình thái kinh tế xã hội vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX và sự  tác   động trở lại của QHSX đối với LLSX. QHSX và LLSX có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì vậy khi nghiên cứu quy luật này thì ta phải chú ý đến   tất cả các vấn đề liên quan đến nó, có vậy mới vận dụng tốt quy luật nay vào việc phát triển kinh tế của đất nước.
  11. Câu 3 : Tại sao nói thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội là khó khăn, lâu dài và phức tạp? Vận dụng   quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lên nin và tư tưởng HCM vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở VN? Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu, nước mạnh,   dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện   đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống   ấm no, tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,   tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì   nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội  theo quan điểm của chủ  nghĩa Mác­Lênin là: thời kỳ  cải biến cách  mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới –   xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào   việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất ­ kỹ   thuật, kinh tế, văn hoá, tư  tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ  quá độ  khi đã xây dựng xong cả  về  lực lượng sản   xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa. Sau khi tiến hành cuộc cách mạng xã hội, giai cấp công nhân khi giành được chính quyền cũng không thể  đem áp dụng ngay tức khắc những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, những nguyên tắc xây dựng và bản  chất của chủ nghĩa xã hội khác với các xã hội trước; giai cấp thống trị cũ mới bị đánh bại về chính trị  nhưng chưa bị  tiêu diệt hoàn toàn; những tàn dư của xã hội cũ còn in vết trong xã hội mới. Do đó cần có thời gian để tiến hành cải tạo  những tàn dư của xã hội cũ, từng bước xây dựng các nhân tố của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội với tư  cách là một chế  độ  xã hội không thể  ra đời tự  phát trong lòng chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa hay các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Các xã hội trước chỉ chuẩn bị những điều kiện vật chất để  giai cấp công  nhân thực hiện bước quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội, còn bản thân công cuộc xây dựng chủ  nghĩa xã hội  chỉ  được thực  hiện khi có cơ sở vật chất – kỹ thuật cũng như với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa tương ứng. Do đó đặc điểm cơ  bản nhất xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ  quá độ  là sự  tồn tại nền kinh tế  nhiều   thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ: nó không còn là nền kinh   tế  tư  bản chủ  nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế  xã hội chủ  nghĩa. V.I.Lênin viết: danh từ  quá độ  có   nghĩa là gì ? Vận dụng vào nền kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ  phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Trong thời kỳ  quá độ, mâu thuẫn cơ  bản là mâu thuẫn giữa chủ  nghĩa xã hội  và chủ  nghĩa tư  bản. Theo  V.I.Lênin, thời kỳ quá độ bao gồm tất cả những đặc điểm, đặc tính của chủ nghĩa xã hội  và chủ nghĩa tư bản, là thời  kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị  tiêu diệt hoàn toàn. Chính vì tính chất quá độ đó nên trong nền kinh tế quá độ chưa có thành phần kinh tế thống trị chi   phối, mới có thành phần kinh tế nhà nước vươn lên giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Theo quan điểm của Các Mác, V.I.Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như  chúng ta đã biết, lịch sử xã hội loài người đã và sẽ  trải qua năm phương thức sản xuất, và được phát  triển từ thấp đến cao, tương  ứng với năm phương thức sản xuất là năm chế  độ  xã hội khác nhau. Đối với các xã hội   trước xã hội chủ  nghĩa thì sau khi cách mạng xã hội thắng lợi thì coi như  cuộc cách mạng đã hoàn thành và thiết lập   nên một chế  độ  xã hội khác tiến bộ  hơn. Thực chất của nó là chuyển từ  chế  độ  bóc lột này sang từ  chế  độ  bóc lột   khác mà thôi. Còn đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ. Đó là thời kỳ quá độ từ  chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôta", C.Mác chỉ rõ rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và  xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước, thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền  chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Cái xã hội mà C.Mác nói  ở  đây không phải là một xã hội cộng sản chủ  nghĩa đã phát triển trên cơ  sở  của   chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa “thoát thai” từ xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó là một  xã hội   về mọi phương diện: kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra. Trong xã   hội này còn nhiều thiếu sót. “Nhưng đó là những thiếu sót  không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng   sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội chủ nghĩa tư bản ra, sau những cơn đau đẻ kéo dài”. Trong tập bút ký về  “Chủ  nghĩa Mác và vấn đề  Nhà nước’, bên cạnh câu trích dẫn trên V.I. Lênin ghi chú;   Vậy là : I.“Những cơn đau đẻ kéo dài”; II “Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”; III “Giai đoạn cao của xã  hội cộng sản chủ nghĩa”. Như vậy, C.Mác và V.I.Lênin đều nhận thức rằng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản gồm một thời   kỳ  quá độ, một giai đoạn đầu mà ngày nay gọi là chủ  nghĩa xã hội và giai đoạn cao là chủ  nghĩa cộng sản đã đứng  vững trên cơ sở của chính nó. V.I.Lênin còn cho rằng thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội còn bao gồm nhiều giai đoạn quá độ  nhỏ, mà  năm 1918 nước Nga mới  ở  giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ  và nước Nga còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ  nữa mới tiến bộ tới chủ nghĩa xã hội cũng không biết trước được, vì điều đó còn tùy thuộc vào cách mạng xã hội chủ   nghĩa ở Châu Âu thực sự bắt đầu trên quy mô lớn và thắng lợi dễ dàng hay chậm chạp. T r a n g  11 | 21
  12. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy Chính vì thế, nhiệm vụ  khó khăn nhất trong những giai đoạn quá độ  và chuyển biến mạnh mẽ  trong đời  sống xã hội là phải tính tới đặc điểm của bất kỳ một bước quá độ  nào. Hình dung thế  nào là một xã hội xã hội chủ   nghĩa phát triển. Điều nầy cũng không phải là khó, nhưng làm thế nào để  trên thực tế thực hiện được bước quá độ  từ  chủ  nghĩa tư  bản cũ sang chủ  nghĩa xã hội, chưa hình thành hẳn, chưa có một cơ  sở  vững chắc, đó là nhiệm vụ  khó  khăn nhất. Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm suốt thời kỳ đó, trong chính sách   của chúng ta, cái chia ra nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa và tất cả  cái khó khăn của nhiệm vụ của chúng ta phải làm,  tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo léo của chính sách cả ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù  của từng bước quá độ đó. Tính chất lâu dài, gian khổ, phức tạp của thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của Lê nin: diễn ra trên   ba mặt. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lâu dài và khó khăn nhiều hay ít còn tùy thuộc vào điểm xuất phát, tại đó   địa vị  thống trị thuộc về chế độ  tiểu chiếm hữu ruộng đất hay thuộc về  chế  độ  đại chiếm hữu ruộng đất, thuộc về  chế độ canh tác quy mô nhỏ, hay thuộc về chế độ canh tác quy mô lớn.  Sở dĩ có tính chất lâu dài và khó khăn đó là vì : Một là, nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội là phải tạo ra một năng suất lao   động cao, vì xét đến cùng năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ  yếu nhất cho thắng lợi của chế độ  xã hội   mới, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô, nhờ đó mà đánh bại chủ   nghĩa phong kiến, chủ  nghĩa tư  bản cũng sẽ  bị  đánh bại chừng nào chủ  nghĩa xã hội tạo ra được một năng suất lao   động cao hơn nhiều. Đây là sự nghiệp rất khó khăn và lâu dài, chỉ được thực hiện thông qua quá trình công nghiệp hóa  nền kinh tế quốc dân. Vài ba ngày cũng đủ để giành chính quyền Nhà nước Trung ương, trong vài tuần lễ cũng có thể  đập tan được sự phản kháng quân sự và sự phá hoại ngầm của giai cấp bóc lột, nhưng phải mất nhiều năm mới giải   quyết vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động. Hai là, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Nhưng không thể đánh bại tức   khắc giai cấp bóc lột bằng bạo lực, không phải ngay lập tức tước quyền sở  hữu của giai cấp địa chủ  và giai cấp tư  sản. Hơn nữa, chỉ  riêng việc tước đoạt quyền sở  hữu cũng chưa giải quyết được vấn đề, mà còn phải thay thế  sự  quản lý của giai cấp bóc lột bằng sự quản lý khác do giai cấp công nhân đảm nhiệm. Xóa bỏ giai cấp là một việc làm  rất lâu dài, muốn thực hiện được việc đó phải đạt được một bước tiến khổng lồ  trong sự  phát triển lực lượng sản   xuất, chiến thắng tàn dư của sản xuất nhỏ, phân tán, khả  năng xoá bỏ giai cấp chỉ xuất hiện từ những điều kiện vật   chất của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa hiện đại mà thôi. Vả lại, một thời gian lâu sau giai cấp bóc lột vẫn sẽ còn  giữ được nhiều ưu thế thật sự và lớn lao, vì họ còn có vốn, động sản, còn những mối liên hệ, những kinh nghiệm về  tổ chức quản lý, trình độ học vấn cao hơn và cả những mối liên hệ quốc tế nữa. Ba là, để xây dựng được chủ nghĩa xã hội, ngoài việc nâng cao năng suất lao động, còn phải thiết lập kỉ luật  lao động tự  giác và lôi cuốn nhân dân lao động vào quản lý nhà nước, muốn vậy phải nâng cao trình độ  văn hóa của   nhân dân lao động và xóa  bỏ các tập quán lạc hậu của những người sản xuất nhỏ cá thể. Người ta có thể xóa bỏ ngay   được một thiết chế, nhưng không thể xóa bỏ ngay được một tập quán. Bởi vậy, nâng cao trình độ văn hóa và thay đ ổi  tập quán cũ đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Để  thực hiện sự  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội thì cần phải có những tiền đề  cần thiết. V.I.Lênin phê phán   quan điểm sai lầm đối lập một cách trừu tượng chủ  nghĩa xã hội với chủ  nghĩa tư  bản. Người nhấn mạnh rằng :   C.Mác không tưởng tượng ra, nghĩ ra một xã hội “mới” nào cả mà nghiên cứu sự phát sinh của xã hội mới từ xã hội cũ,   nghiên cứu những hình thức quá độ  từ xã hội này chuyển sang xã hội kia, coi đó là một quá trình lịch sử  tự nhiên. Bởi  vậy, phải kế thừa những lực lượng sản xuất và thành tựu khoa học công nghệ của chủ nghĩa tư bản để  xây dựng chủ   nghĩa xã hội, không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa   học hiện đại thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội. Nếu giai cấp vô sản giành được chính quyền ở một nước có nền   kinh tế lạc hậu thì phải học tập các nhà tổ  chức của chủ nghĩa tư  bản, học tập các chuyên gia để  tạo lập cơ  sở  vật   chất kỹ thuật ấy cho chủ nghĩa xã hội. “Phải học tập chủ nghĩa xã hội ở những nhà tổ chức lớn nhất của chủ nghĩa tư   bản. Điều đó không phải ngược đời . . .” phải “Lợi dụng những yếu tố tài năng về tổ chức, về vốn hiểu biết kỹ thuật   mà xã hội trước đã tích lũy được, những yếu tố mà chín phần mười, và có thể  là chín mươi chín phần trăm, lại thuộc  về giai cấp đối lập một cách thù địch với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”. “Đối với những chuyên gia chúng ta không nên áp dụng một chính sách phiền nhiễu, nhỏ  nhen. Những  chuyên gia  ấy không phải là tôi tớ  của bọn bóc lột, họ là những người hoạt động văn hóa trong xã hội tư  sản, họ  đã   phục vụ giai cấp tư sản, trong xã hội vô sản họ sẽ phục vụ chúng ta. Trong thời kỳ quá độ  này chúng ta phải đem lại  cho họ những điều kiện sinh hoạt  càng cao càng tốt. Đó sẽ là chính sách hay hơn cả, là phương thức quản lý tiết kiệm   hơn cả. Nếu không thì chỉ vì tiết kiệm một vài trăm triệu, chúng ta sẽ để mất rất nhiều, thậm chí về sau này với hàng   bao nhiêu nghìn triệu cũng sẽ không thể bù lại được”. Đối với sự quá độ từ nền kinh tế lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ  tư bản chủ nghĩa. Đối với   các nước  do những điều kiện lịch sử đặc thù, giai cấp vô sản giành được chính quyền ở những nước có nền kinh tế   lạc hậu, đặc điểm chủ  yếu của những nước này là ở  chỗ  những quan hệ  tiền tư  bản chủ  nghĩa hãy còn thống trị, vì   thế   ở đây không thể  nói đến phong trào thuần túy vô sản được. Trong những nước này hầu như  chưa có giai cấp tư  sản công nghiệp. Tuy vậy, V.I.Lênin cho rằng: “Với sự giúp đỡ  của giai cấp vô sản các nước tiến tiến, các nước lạc   hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải  
  13. trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Dĩ nhiên là  ở những nước lạc hậu, trong đó những người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại bộ  phận dân   cư  thì chỉ  có thể  thực hiện cách mạng xã hội chủ  nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ  đặc biệt hoàn toàn  không cần thiết  ở  những nước tư  bản chủ  nghĩa phát triển, trong đó công nhân làm thuê trong công nghiệp và nông  nghiệp chiếm tuyệt đại đa số dân cư. Vì ở những nước nông nghiệp lạc hậu đội ngũ tiến tiến chỉ là một bộ phận nhỏ   của giai cấp vô sản và giai cấp vô sản lại cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần chúng nhân dân, nên đội tiền phong   của giai cấp vô sản, tức là Đảng lãnh đạo, phải có đường lối, phương sách trung gian cần thiết để  chuyển từ  những   quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước  này cần phải có ba điều kiện cơ bản : Một là, điều kiện tiên quyết: Qua cách mạng vô sản thiết lập chính quyền công – nông. Hai là, điều kiện bên ngoài: có sự ủng hộ quốc tế của giai cấp vô sản các nước tư bản chủ nghĩa phát triển,   nhất là có điều kiện lý tưởng là sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở  một nước hay là một số  nước   tiên tiến. Ba là, điều kiện bên trong (điều kiện sống còn): đạt được sự thỏa thuận liên minh giữa giai cấp vô sản đang   nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông dân ( liên minh công­nông). Thỏa thuận liên minh là một khái niệm rất  rộng, nó bao gồm cả một loạt biện pháp và bước quá độ. Đó là phải áp dụng tính qui luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ  nghĩa xã hội đối với mọi dân   tộc là nền kinh tế gồm nhiều thành phần và nhiệm vụ của những người cộng sản là phải biết áp dụng nguyên tắc phổ  biến cơ  bản của chủ  nghĩa cộng sản để  áp dụng cụ  thể  vào hoàn cảnh của mỗi nước trong thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội.  Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam: Từ những quan điểm của C.mác và V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Bác Hồ vận dụng   vào hoàn cảnh cụ  thể   ở  Việt Nam một cách sáng tạo. Người  khẳng định rằng, Việt Nam có thể  và cần phải đi lên  CNXH. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lầ thứ II của Đảng ngày 11­2­1951 , Chủ tịch Hồ Chí  Minh có viết: "Cách mạng tháng Mười thành công. Cuộc xây dựng CNXH  ở  Liên Xô thành công. Cách mạng Trung  Quốc thành công. Những thành công vĩ đại ấy đã mở đường cho sự thành công của cách mạng nước ta và nhiều nước  khác trên thế giới". Trong bài Trả lời phỏng vấn của nhà báo I­ô­cô Mát­xu­ô­ca, Người cũng đã khẳng định rõ con đường phát  triển của cách mạng dân tộc Việt Nam: "Chúng tôi xây dựng CNXH trong hoàn cảnh một nước vốn là thuộc địa, một  nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị  chiến tranh xâm lược tàn phá. Hoàn cảnh ấy, cố  nhiên gây cho chúng tôi rất nhiều  khó khăn. Những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xây dựng CNXH cho phép chúng tôi tin tưởng chắc chắn  ở sự  cần thiết và khả năng của một nước như Việt nam tiến lên CNXH một cách thắng lợi không phải qua con đường phát   triển TBCN". Trong lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, Hồ Chủ tịch cũng đã vận dụng sáng tạo nguyên lý kết hợp   cái phổ biến với cái đặc thù. Người khẳng định rõ, mặc dù sự  phát triển của xã hội loài người tuân theo tính quy luật   chung, song các dân tộc, tùy theo hoàn cảnh cụ thể có thể lựa chọn con đường phát triển riêng của mình. Thời kỳ  quá độ  lên CNXH  ở Việt Nam là một thời kỳ  lâu dài, gian khó và phức tạp. Một chế  độ  này biến   đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và   cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, tiến bộ nhất   định thắng lợi. Vấn đề này đã được Bác đề cập trong nhiều bài nói, bài viết. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng đinh: " Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta  trong thời kỳ này là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ  nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã   hội chủ nghĩa chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và   lâu dài". Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới gian nan và phức tạp   hơn đánh giặc, vì phải đấu tranh với kẻ địch nguy hiểm khác, đó là nghèo nàn, đói khổ  và lạc hậu. chúng ta phải xây   dựng một xã hội hoàn toàn mới, xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp  sống thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa  bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ  sản xuất mới không có bóc lột, áp bức. Đó là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ  vang   nhất trong lịch sử loài người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go phức tạp và khó khăn nhất. Nhưng   nếu nhân dân ta mọi người cố gắng phấn đấu thi đua xây dựng thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn. Kế  thừa quan điểm của chủ  nghĩa Mác­Lê nin và tư  tưởng Hồ  Chí Minh, trong suốt quá trình cách mạng   Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Trong   quá trình xây dựng CNXH  ở nước ta trước thời kỳ đổi mới đã xuất hiện không ít khó khăn, thách thức. Đất nước rơi   vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Liên Xô và các nước XHCN ở đông Âu sụp đổ. Song, Đảng và dân tộc ta vẫn kiên   định với con đường đi lên CNXH. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VI của Đảng đã khẳng định: Ngày nay đã có nhữn g điều kiện để  hiểu  biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở nước ta. Từ CNTB lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất   T r a n g  13 | 21
  14. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy yếu khách quan, và độ dài của nó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá độ của   nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu   dài và rất khó khăn...  Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN   trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề  "ai thắng ai". Tư tưởng đó được khẳng định lại qua   nhiều kỳ Đại hội Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ  lên CNXH được bổ  sung và phát   triển năm 2011, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH với nhận thức và tư  duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mặc dù hiện tại, CNTB vẫn còn nhiểu tiềm năng phát triển,   nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB, nhất   là mâu thuẫn giữa xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sãn xuất với chế độ  chiếm hữu tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa,   chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội tiếp tục xảy   ra. "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH". Để công cuộc cách mạng thành công, Đảng ta đã xác định những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá  độ lến CNXH ở Việt Nam bao gồm: Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân... Thứ hai, xây dựng quan hệ sản xuất mới thông qua phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với   nhiều hình thức sở  hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ  chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành  phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ  phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp   luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh... Thứ ba, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,   tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Mình về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong công   cuộc đổi mới hiện nay. Đảng ta luôn luôn kiên định với mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác­ Lênin. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội đảm bảo vững chắc   cho độc lập dân tộc. Đưa đất nước đi lên chủ  nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay là một sự  nghiệp đầy chông gai,   thử thách nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà trong đó: dân giàu, nước   mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh! Đảng ta đã và đang vận dụng sáng tạo, bổ  sung và phát triển chủ  nghĩa   Mác­Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới; kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với chủ  nghĩa xã hội! Để đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa ngày càng phát triển theo chiều sâu,   đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh đã nêu ra. Đó là phải dựa vào sức mạnh toàn dân,  phát huy được tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tôc, ý chí thoát nghèo nàn lạc hậu của mỗi người dân là động lực để  phát triển kinh tế  ­ xã hội. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ  trung tâm của toàn Đảng toàn dân.  Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đi đôi với củng cố kinh tế nhà nước, đủ để kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ  đạo để  nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Phát triển kinh tế  phải đi đôi với phát triển văn hóa, xã   hội và an ninh quốc phòng. Qua đó phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn   lực, trước hết là nguồn lực nội sinh để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ  Chí Minh phù hợp  với xu thế toàn cầu hoá và thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị  quyết Đại hội Đảng lần   thứ IX khẳng định : chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu  quả  hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ  và định hướng xã hội chủ  nghĩa, bảo vệ  lợi ích dân tộc, an ninh quốc   gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng , thực hiện cần   kiệm để  xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc xã hội chủ  nghĩa. Thực tiễn lịch sử  cách mạng Việt Nam đã chứng minh: sự  lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Trong suốt quá trình xây dựng và phát  triển, Đảng ta thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính   trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong xu thế  hội nhập và toàn cầu hóa về  kinh tế  cùng quá trình phát triển nền kinh tế  thị  trường định   hướng XHCN  ở  nước ta hiện nay, tham nhũng và chống tham nhũng đã trở  thành vấn đề  nhức nhối của toàn xã hội.  Hậu quả về kinh tế của các vụ tham nhũng thì đã rõ, nhưng còn hậu quả về mặt tinh thần xã hội, nhất là niềm tin của   nhân dân vào Đảng vào chế  độ  thì không thể  đo đếm được. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, mỗi cán   bộ, đảng viên của Đảng phải là một chiến sĩ cách mạng tiên phong, gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực sự tỏ rõ vừa   là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ  thật trung thành của nhân dân, nêu cao đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm,  chính, chí công, vô tư, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi tham nhũng. Có như vậy, Đảng ta mới  có được niềm tin từ nhân dân, qua đó tạo ra sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 
  15. Câu 4: Điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan quyết định sứ mệnh  lịch sử toàn thế giới của giai   cấp công nhân ? Liên hệ với thực tiễn đẩy mạnh CNH­HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến   bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Các khái niệm: Sứ mệnh lịch sử là: nhiệm vụ lịch sử, trách nhiệm lịch sử của một giai cấp xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã   hội mới. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới: là sự nghiệp xác lập một hình thái kinh tế xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Giai cấp công nhân là: một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và   phát triển của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của LLSX có tính chất xã hội hóa ngày càng   cao; là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra  của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH. Những đặc điểm cơ bản chung nhất của GCCN: Là giai cấp của những người lao động sản xuất ra vật chất là chủ yếu (với trình độ  trí tuệ ngày càng cao, đồng  thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công   nhân vẫn có vai trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển của xã hội. Có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công nhân: xoá bỏ  chế độ  tư  hữu, xoá  bỏ áp bức bóc lột; giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản   đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để. Là “ giai cấp dân tộc”­ vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc, và chịu trách nhiệm trước hết với dân   tộc mình. Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là CN Mac­Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,   đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt quá trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình nhằm giải   phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân có Đảng tiên phong của mình là ĐCS (Đảng Mac­Lênin). Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có những đặc điểm cơ  bản­ chung   nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ  phận không tách rời giai cấp công nhân các nước trên  toàn thế giới. Vì vậy CN Mac­Lênin mới có quan điểm đúng đắn về sứ  mệnh lịch sử toàn thế  giới của giai cấp công   nhân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Một là, sứ mệnh lịch sử của giai câp công nhân là thực hiện sự nghiệp cách mạng quần chung và mang lại lợi  ích cho đa số. Sự thống nhất lợi ích của giai câp công nhân và lợi ích của nhân dân lao động cũng tạo ra điều kiện để  thực hiện hóa đặc điểm xây dựng một xã hội trên cơ sở công hữu những tư liêu sản xuất chủ yếu. LLSX phát triển cao   và chế  độ công hữu sẽ tạo ra cơ  sở kinh tế để   chấm dứt vĩnh viễn chế  độ  người bóc lột người . Giai cấp công nhân  cũng chỉ có thể tự giải phóng mình thông qua việc đồng thời giải phogs các giai cấp bị áp bức và bóc lột khác. Hai là, sứ  mệnh lịch sử này không phải là thay thế  chế  độ  sở  hữu tư  nhân này bằng chế  độ  sở  hữu tư  nhân   khác như những lần trước đây, mà là xóa bỏ triệt để  tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ  chế  độ  người bóc lột người   cuối cùng trong lịch sử.    Ba là, giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề để cải tạo toàn bộ xã hội cũ, xây dựng  xã hội mới nhằm mục tiêu cao nhất là giải phóng triệt để con người. Những cuộc cách mạng trước đây chỉ  giải phóng  cho một nhóm người trong xã hội và coi việc giành được chính quyền là mục tiêu duy nhất để thực hiện quyền tư hữu.   Thực hiện thắng lợi sứ mẹnh lịch sử của giai câp công nhân, con người được giải phóng khỏi những hạn chế của tự   nhiên và áp bức của xã hội, có điều kiện để phát triển tự do và toàn diện.  Những điều kiện khách quan quyết định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Thứ  nhất, do sự  quy định của địa vị  kinh tế­xã hội của giai câp công nhân. Giai cấp công nhân gắn liền với   phương thức sả  xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính xã hội hóa cao. Phương thức sản xuất quy định   phương thức tư tưởng, giai cấp công nhân vì vậy có được những đặc điểm của giai cấp cách mạng: tính tổ  chức, kỷ  luật, tác phong công nghiệp, tinh thàn triệt để cách mạng, tình đoàn kết quốc tế, tính dân tộc, ... Những phẩm chất này   khách quan xác định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và có năng lực lãnh đạo các giai cấp   khác trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.  Thứ  hai, xã hội hóa sản xuất là tiền đề  quan trọng nhất thúc đẩy sự  vận động mâu thuẫn cơ  bản trong lòng  phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn cơ bản đó là xung đột giữa tính chất xã hội hóa của LLSX với tính   chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Quy luật chung là QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của   LLSX. Công hữu những TLSX chủ yếu là yêu cầu khách quan và đã được quá trình sản xuất hiện đại vạch ra. Xã hội hiện đại với xu thế xã hội hóa, dân chủ hóa mạnh mẽ hiện nay cũng đang làm chín muồi những tiền đề   khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.  Thứ ba, mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến sứ mệnh lịch   sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân sẽ đứng lên làm cách mạng lật đổ nhà nước của gia cấp tư sản xác lập   nhà nước của giai cấp công nhân.  T r a n g  15 | 21
  16. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy Những điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Có 2 yếu tố chủ quan: Thứ nhất, Trước hết là sự phát triển của giai cấp công nhân. Với tư cách là chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử,   giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng về lượng và chất. Sự phát triển về lượng của gia cấp công nhân bao gồm sự phát triển số lượng lao động công nghiệp trong tổng   số lao động xã hội, tỷ lệ lao động công nghiệp trong các lĩnh vực kinh tế xã hội và cơ  cấu của giai cấp công nhân. Sự  phát triển về lượng được quy định bởi yêu cầu của sản xuất công nghiệp và cơ  cấu kinh tế  hiện đại nhưng cũng là  một quá trình phát triển tự giác thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược công nghiệp hóa. Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực làm chủ công nghiệp hiện đại và ý thức   giác ngộ giai cấp, ý thức dân tộc. Trong xã hội hiện đại, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho lợi ích chân chính của   dân tộc, phấn đấu trở thành giai cấp dân tộc vươn lên vị thế lãnh đạo và cùng với dân tộc giải quyết những nhiệm vụ  lịch sử trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc. Thứ  hai, Đảng cộng sản ­ nhân tố chủ quan cơ  bản nhất để  thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp   công nhân: Là đội tiên phong của GCCN, lãnh đạo giai cấp và cả dân tộc.  Đảng là sản phẩm của sự kết hợp phong trào   công nhân với CN Mac­Lênin ( ở VN còn kết hợp với phong trào yêu nước), có nhiều phẩm chất ưu tú: có lí luận khoa  học dẫn đường, có ý chí và hành động cách mạng kiên định có tổ  chức chặt chẽ, dân chủ, thống nhất, có phẩm chất  tận tụy, gương mẫu và hi sinh.... Đảng là nhân tố chủ quan hàng đầu, lãnh đạo và tổ chức quá trình thực hiện smls của   gccn để  giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. ĐCS luôn luôn được xây dựng, củng cố, phát   triển vững vàng về  chính trị  (đường lối CM), về  tư  tưởng (CN Mac­Lênin, tư  tưởng HCM  ở  VN) và về  tổ  chức   (nguyên tắc tập trung dân chủ, sinh hoạt đảng để có các quyết định đúng; cán bộ, đảng viên, cấp uỷ  vững mạnh, trong   sạch, có uy tín với nhân dân và có khả năng lãnh đạo tốt). Thực tiễn đẩy mạnh CNH – HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay. Hiện nay, "giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đáng phát triển, gồm những người lao   động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ  công nghiệp, hoặc   sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp". “Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thông qua   đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong   trong sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự  nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân  giàu, nước mạnh, xã hôi công bằng, dân chũ, văn minh; lực lượng nồng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai   cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Tuy vậy, GCCN Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ  học vấn,  chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia   kỹ  thuật, cấn bộ  quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ  luật lao động còn nhiều hạn chế.   Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện đầy đủ. Vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong  liên minh công­nông­trí thức còn hạn chế.Trình độ giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị không đồng đều; sự hiểu biết   về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ  công nhân còn thấp. Một   số bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đầu và Đảng và tham gia hoạt đông trong các tổ chức chính trị­xã hội. Những vấn đề đang đặt ra với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là nâng cao năng lực lãnh đạo cách mạng,   đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, làm hạt nhân trong khối liên minh công­nông­trí thức, quá trình xây dựng và phát   triển đồng bộ, khắc phục những yếu kém. Từ  những thực trạng trên, giai cấp công nhân Việt Nam cần phải nỗ lực   vượt mình. Quan điểm và giải pháp chỉ đạo nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức: Quan điểm chỉ đạo: Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng   sản Việt Nam; lực lượng nòng cốt trong liên minh là giai cấp công nhân, giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức dưới sự   lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của công cuộc   đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai   cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức và các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc­ động lực chủ   yếu của phát triển đất nước. Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế­xã hội, CNH,   HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân là nhiệm vụ  chiến lược. Đặc biệt chú trọng xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, có kỹ năng nghề nghiệp cao, có lập trường   giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đồng thời xây dựng các tổ chức   đoàn thể chính trị khác trong giai cấp công nhân. Giải pháp cơ bản để xấy dựng, phát triển giai cấp công nhân: Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về  giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế  thị 
  17. trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng ước trí thức hóa gia câp công nhân. Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình đọ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân. Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của   công nhân. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò các tổ  chức đoàn thể  chính trị, xã hội nhằm xây dưng,   phát triển giai cấp công nhân. Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức lần đầu tiên  được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  X của Đảng. Thực chất là quá trình CNH, HĐH “rút   ngắn” dựa trên tri thức; đó vừa là mục tiêu, vừa là phương thức để có thể thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH   đất nước.  Tuy nhiên việc “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để  vừa có thể đi tắt, đón đầu, vừa giữ được tính bền vững trong từng bước phát triển. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó trong  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ  lên CNXH (bổ  sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển  kinh tế  ­ xã hội 2011­2020 và Báo cáo Chính trị  của Ban Chấp hành Trung  ương khóa X được Ðại hội XI thông qua   đều rút ra bài học trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức phải bảo đảm mục tiêu phát   triển bền vững nền kinh tế. Như vậy, Đảng ta đã chú ý nhiều hơn đến tính bền vững trong quá trình thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn” dựa   trên tri thức. Đây là một quan điểm mới, thể hiện sự đổi mới về tư duy lý luận của Đảng trong thực hiện sự  nghiệp  CNH, HĐH đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên CNXH (bổ  sung, phát triển năm 2011) phương  hướng cơ bản để thực hiện các mục tiêu của thời kỳ quá độ đó là: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện  CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp   lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…” Nội hàm phát triển bền vững nền kinh tế  ở nước ta, Ðại hội XI xác định: Coi chất lượng, năng suất, hiệu quả,   sức cạnh tranh là yêu cầu  ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Có sự  kết   hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng   cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong quá trình phát triển kinh tế  ­ xã hội của đất nước phải luôn coi trọng   việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp đi lên xây dựng CNXH, trong bối   cảnh toàn cầu hoá, để phát triển nền kinh tế tri thức cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: chuyển từ kinh  tế  nông nghiệp lên kinh tế  công nghiệp và chuyển từ  kinh tế  nông ­ công nghiệp lên kinh tế  tri thức trong điều kiện   chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong thời đại kinh tế  tri thức, Việt Nam  có thể  bỏ  qua các thế  hệ  công nghệ  trung gian để  đi ngay vào công  nghệ tiên tiến, công nghệ cao. Song, điều đó không có nghĩa cho phép chúng ta có thể chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai   đoạn mà bỏ qua những mục tiêu của phát triển bền vững.  Quán triệt quan điểm của Đảng về  đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri thức và phát triển bền vững, nhằm đưa   Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau: Một là, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,   không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế   tri thức. Ba là, phát triển mạnh về khoa học công nghệ, tăng cường năng lực khoa học công nghệ quốc gia. Bốn là, phát triển kinh tế  ­ xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ  và cải thiện môi trường, chủ  động ứng phó với   biến đổi khí hậu. Như vậy, hướng tới các mục tiêu của phát triển kinh tế bền vững trong quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri  thức đã được Đại hội Đảng XI quan tâm một cách đặc biệt. Đây đã trở thành một phần quan trọng của Cương lĩnh xây   dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược phát triển của các ngành, lĩnh vực, bộ phận của nền kinh  tế  ở nước ta. Đây chính là kết quả  của quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta trong Đại hội XI. Ngày nay, trước yêu   cầu cao hơn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào đời sống kinh tế quốc   tế, cuộc cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu sẽ rất gay gắt, chúng ta cần tập trung nhiều hơn để  thực hiện đồng bộ  các  giải pháp nhằm bảo đảm cho thành công của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển nhanh   và bền vững của nước ta. T r a n g  17 | 21
  18. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy Câu 5: Thực trạng khối liên minh công­nông­trí thức ở Việt Nam và phương hướng tăng cường liên minh  công­nông­trí thức ở Việt Nam ta hiện nay? Sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới dưới sự  lanh   đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ  những nhân tố  quyết định thắng lợi của  Cách mạng là liên minh công­nông­trí thức tạo nên sức mạnh vô địch, là bản lĩnh, trí tuệ  và sự  dũng cảm phi thường   của con người Việt Nam. Cách mạng XHCN là cuộc đấu tranh kiên trì, bền bỉ và đầy khó khăn để  đem lại tự  do, bình đẳng cho nhân  dân. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã bảo vệ tổ quốc và đang từng bước xây dựng   một nhà nước XHCN giàu mạnh. Ngay từ  những ngày đầu Đảng ta đã xác định dùng chiến tranh vũ trang để  giành  chính quyền, xây dựng khối liên minh công ­ nông ­ trí thức trong đó giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong tiến lên   giành độc lập. Đây là sự sáng suốt của Đảng ta, khẳng định vai trò to lớn của liên minh công nông trí thức trong cách   mạng XHCN. Đầu tiên chúng ta tìm hiểu khái niệm Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và liên minh   công­nông­trí thức. Giai cấp công nhân là tập đoàn những người lao động sản xuất vật chất trong lĩnh vực công nghiệp, là lực   lượng sản xuất hàng đầu, năng suất lao động ngày càng cao; có sứ mệnh lịch sử là chuyển từ chế độ TBCN lên chế độ  XNCN. Giai cấp nông dân là tập đoàn những người lao động sản xuất vật chất trong nông nghiệp, trực tiêp canh tác   trên một loại tư liệu sản xuất đặc biệt là đất, rừng, sông, biển để sản xuất ra nông sản, lâm sản và thủy hải sản. Đội ngũ trí thức là những người lao động trí óc phức tạp, có học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,   có năng lực tư duy độc lập sáng  tạo, truyền bá và làm giàu trí thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần có giá trị đối với  xã hội. Liên minh công­nông­trí thức có thể hiểu là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác,… của công nhân, nông dân và đội  ngũ trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và của cả khối liên minh; đồng thời góp phần thực  hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng CNXH. Liên minh giai cấp công nhân­nông dân­trí thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với khối đại đoàn kết dân   tộc của Việt Nam trong mọi thời kỳ cách mạng. Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc   trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường  lối chiến lược của cách mạng Việt Nam”. Thực trạng khối liên minh công­nông­trí thức ở Việt Nam Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác­ Lênin về liên  minh công ­ nông và các tầng lớp nhân  dân lao động khác, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng liên minh công   ­ nông ­ trí thức đã được hình thành từ rất sớm. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công  ­ nông, cho nên liên minh công  nông là nền tảng của Mặt trận Dân tộc thống nhất”, sau này, Người khẳng đ ịnh: cách mạng cũng cần có lực lượng trí  thức. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 02­1951), lần đầu tiên, vấn đề liên  minh công ­ nông ­  trí thức chính thức được Đảng ta khẳng định. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Cương lĩnh xây dựng   đất trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội chỉ rõ: xây dựng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và  tầng lớp trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo, làm nền tảng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng này tiếp tục được khẳng định tại các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và trở thành   vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Khẳng định tầm quan trọng của   liên minh đối với cách mạng nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên  minh giai cấp công  nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng   Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân t ố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của   sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc”1. Nói chung, trong thực tế  cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân, đặc biệt   trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, giai cấp công nhân luôn liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và   đội ngũ trí thức để  đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới xây dựng và bảo vệ  đất nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập sâu vào kinh   tế thế giới trong điều kiện khoa học công nghệ thế giới phát triển hết sức nhanh chóng dẫn đến những biến đổi lớn   trong cơ  cấu giai cấp xã hội và trong bản thân mỗi giai cấp theo hướng năng động hơn, chủ  động sáng tạo hơn trong  quá trình sản xuất kinh doanh.  Điều đó đòi hỏi phát triển mạnh mẽ kinh tế công  nghiệp, và nông nghiệp, mở rộng giao  lưu hàng hóa giữa thành thị bảo đảm lợi ích của nông dân, từng bước đưa nông dân lao động vào những hợp tác xã sản   xuất từ thấp đến cao theo định hướng XHCN bảo đảm đời sống vật chất và nâng cao dần trình độ văn hóa , khoa học   kỹ thuật , ý thức giác ngộ XHCN cho công nhân. Các giai cấp, tầng lớp này đều là những bộ phận của nhân dân Việt Nam. Họ là chủ thể xây dựng đất nước,   trong đó giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt khác do giữa các giai cấp và các tầng lớp vừa có lợi ích tương đồng, vừa có những khác biệt về  lợi ích,   nên quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam hiện nay là mối quan hệ vừa h ợp tác, vừa đấu tranh  với nhau. Các giai cấp, tầng lớp họp tác, liên minh với nhau khi xuất hiện những nhu cầu và lợi ích chung và họ đấu 
  19. tranh với nhau khi đối lập về lợi ích. Khẳng định điều này, Đảng ta chỉ  rõ: “Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng   lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội  bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng  và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”. “Nội dung chủ  yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự  nghiệp công   nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ  nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực  hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu  cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân   tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”. Tuy nhiên, có những nơi, những lúc và ở  các mức độ  khác nhau, liên minh giữa các lực lượng này còn bị  xem   nhẹ, hoặc thực hiện chưa đúng mức. Biểu hiện cụ thể là: Giai cấp công nhân nước ta hiện nay vẫn còn hạn chế về số lượng, một bộ phận công nhân có tay nghề chưa   cao, ý thức giác ngộ giai cấp, tính tổ chức kỷ luật còn hạn chế. Điều này làm ảnh hưởng đến quá trình liên minh với   giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Về  phía giai cấp nông dân, nhờ  liên minh được với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức nên đã đạt được  nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển nông nghiệp, đời sống của nông dân được cải thiện rõ rệt và từng bước   được nâng cao. Song từ  góc độ  liên minh, trong nhiều trường hợp, sự  hỗ trợ, liên kết của công nghiệp, nhất là công  nghiệp chế  biến nông sản và của khoa học và công nghệ  còn chưa chặt chẽ, khiến cho hiệu quả của sản xuất nông   nghiệp còn hạn chế, do vậy, lợi ích của nông dân ở nhiều nơi chưa được coi trọng, đời sống của nông dân còn nhiều   khó khăn. Về  phía đội ngũ trí thức, mặc dù đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình thực hiện liên minh, song   đến nay, đội ngũ trí thức nước ta số lượng còn ít; hoạt động nghiên cứu khoa học nhiều khi vẫn còn xa rời thực tiễn và  tính ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chưa cao, chưa kip thời. Tình trạng lãng phí chất xám, chảy chất  xám còn diễn ra khá phổ biến ở nhiều nơi. Những hạn chế và mâu thuẫn này nếu không được phát hiện và giải quyết kịp thời sẽ đe doạ  tính bền vững  của khối liên minh và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Phương hướng tăng cường liên minh công ­ nông ­ trí thức ở Việt Nam hiện nay Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là khi đất nước đang ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,  hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, liên  minh công ­ nông ­ trí thức càng cần phải được tăng cường vững   chắc. Một là, quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân, giai  cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đối với giai cấp công nhân: Thực hiện  chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược   phát triển kinh tế ­ Xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giải quyết có hiệu quả  những vấn đề  bức xúc, cấp bách   của giai cấp công nhân. Xây dựng quan hệ  lao động hài hòa,  ổn định, tiến bộ  trong các loại hình doanh nghiệp. Coi   trọng đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho giai cấp công nhân. Nâng cao giác ngộ  giai cấp, bản lĩnh chính  ữị, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ  luật lao động, xây dựng lối sống lành   mạnh trong công nhân. Tăng tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. Đối với giai cấp nông dân: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư  nông thôn; nông dân được đào  tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ  nông thôn mới, v.v.. Tăng mạnh đầu tư  của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ  tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững. Xây dựng nông thôn mới có   kết cấu hạ tầng kinh tế ­ xã hội hiện đại; gắn nông nghiệp với phát triển  nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy  hoạch, v.v.. Xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh. Đối với đội ngũ trí thức: Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,  sáng tạo của trí thức. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng, đãi   ngộ và tôn vinh trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có c hính sách đặc biệt đối  với nhân tài của đất nước. Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí   thức. Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới là   phương thức căn bản và quan trọng để thực hiện liên minh công ­ nông ­ trí thức ở Việt Nam hiện nay. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thực chất là quá tr ình chuyển dịch cơ cấu  kinh tế nông  nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đồng thời chuyển dịch nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ  trọng giá trị  sản  phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Để đạt nội dung trên, phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỳ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện   đại, công nghệ sinh học, thủy lợi hóa, cơ giới hóa, thông tin hóa, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác  lạc hậu để sử dụng có hiệu quả  đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh   tranh của nông sản; xây dựng nông thôn mới một cách phù hợp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân.  Những nội dung này muốn thực hiện được tất yếu cần có sự hỗ trợ và giúp đỡ đắc lực của công nghiệp, của khoa học   T r a n g  19 | 21
  20. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin ­­­­­­­­­­­Đinh Huy và công nghệ, của công nhân và trí thức. Nói cách khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là   nhằm tạo môi trường và điều kiện hiện thực để giai cấp nông dân hợp tác, liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và   đội ngũ trí thức. Đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng các th ảnh tựu của khoa học và công nghệ trong tất cả các ngành,  nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và công nghiệp làm cơ sở vững chắc cho sự phát ưiển của nông nghiệp và   công nghiệp. Để thực hiện tốt giải pháp này, vai trò của đội ngũ trí thức là rất quan  trọng. Thông qua việc đẩy mạnh  sáng tạo khoa học và ứng dụng nhanh những thành tựu của nó vào sản xuất, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và   đội ngũ trí thức có môi trường và điều kiện hiện thực để  gắn bó chặt chẽ  với nhau, qua đó góp phần quan trọng vào  việc củng cố và tăng cường khối liên minh. Ba là, tiếp tục đổi mới hệ thống chính t rị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở  cơ sở. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ có tác động trực tiếp đến nội dung liên  minh về chính trị và nhấn mạnh đến vai  trò lãnh đạo, chỉ  đạo, tổ chức thực hiện của các tổ  chức đảng, nhà nước, đoàn thể  đối với việc tăng cường khối liên   minh. Việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ  thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị  cơ sở, đồng thời tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở c hính là nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giai cấp  công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và toàn dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc; đồng thời   hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, để  đảm bảo thực hiện quyền lực của dân,   đảm bảo quyền làm chủ của công nhân, nông dân và trí thức trên mọi  lĩnh vực, qua đó đáp ứng kịp thời những nhu cầu,   lợi ích chính đáng, chăm lo thiết thực đời sống vật chất và tinh thần của công nhân, nông dân, của trí thức và toàn dân. Bốn là, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ  chức chính  t r ị ­ x ã  hội, tổ chức nghề nghiệp  của công nhân, nông dân, trí thức. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn   trong các loại hình doanh nghiệp nhằm bảo yệ  quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Công đoàn  cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự   cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa cho công nhân. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính  t r ị ­ x ã  hội  ở  nông thôn; tạo cơ  chế  và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân Việt Nam trong việc trực tiếp thực hiện một số  chương trình, dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống của nông dân, hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế  tập thể trong nông nghiệp. Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân lớn mạnh đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp   hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao chất lượng hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ  thuật, Liên hiệp các Hội Văn học  nghệ thuật trong vận động, tập họp, đoàn kết trí thức. Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động   của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật   Việt Nam từ Trung ương đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm   chất đạo đức của đội ngũ trí thức. Phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và của các tổ  chức chính t r ị ­ x ã  hội nhằm tăng cường liên minh công ­ nông ­ trí thức để khối liên minh thực sự là nền tảng của khối đại đoàn kết   toàn dân tộc. Một số văn kiện của Đảng, Báo cáo chính trị của Đảng nêu rõ về xây dựng giai cấp công nhân, nông dân,   và đội ngủ trí thức đối với thực trạng hiện nay của Việt Nam: Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X của Đảng đã ra Nghị  quyết chuyên đề  về  giai cấp   công nhân xác định rõ hệ thống quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt  Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, xác định rõ “Mục tiêu xây dựng giai cấp   công nhân đến năm 2020 là: Xây dựng lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công   dân, yêu nước, yêu chủ  nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những   diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc,   đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ  mệnh lịch sử  của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là  Đảng Cộng sản Việt Nam”. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội XI của Đảng  nhấn mạnh: "Quan  tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính  trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của  sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh   đạo cách mạng, thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về  tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất   và tinh thần của công nhân” Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị  quyết số 26­NQ/TW, ngày 05­8­ 2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Trong đó, mục tiêu hướng tới là: “không ngừng nâng cao đời sống vật chất,  tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn;   nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị,  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2