intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Đinh Văn Huy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

167
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 5 câu hỏi lý thuyết, giúp bạn làm quen với hình thức thi của môn học, hệ thống lại kiến thức qua các câu hỏi, bài tập và tự đánh giá năng lực của mình. Mời bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh Câu 1: Phân tích và làm rõ trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là con   đường duy nhất đúng đắn?  Câu  2:     Vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ?  Câu  3   : Quan điểm của HCM về xây dựng bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ  công chức ? Ý nghĩa đối với cải  cách nền hành chính hiện nay ? Câu 4: Nội dung và ý nghĩa quan điểm của HCM về  bản chất dân chủ, bản chất giai cấp công nhân của nhà   nước Việt Nam?  Câu    5 : Tư tưởng HCM về  cán bộ và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay? T r a n g  1 | 19
  2. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy Câu 1: Phân tích và làm rõ trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là  con đường duy nhất đúng đắn? Trước đây, Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nữa phong kiến, yêu cầu độc lập dân tộc và dân chủ  quyện   chặt với nhau và trở  thành đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, biểu hiện rõ nét là hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân   chống xâm lược nhưng không thành. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý cơ  bản của Chủ nghĩa Mác­Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế tại   Việt Nam. Người khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách   mạng vô sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”. Đảng ta lấy Chủ  nghĩa Mác­Lênin và Tư  tưởng Hồ  Chí Minh làm nền tảng và là kim chỉ  nam cho mọi hành   động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa   chọn từ  khi Đảng ta ra đời ­ năm 1930. Đây là một quan điểm kiên định, thống nhất xuyên suốt cả  quá trình lãnh đạo  cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Trở  thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong tư  tưởng Hồ  Chí Minh và ngày càng   được hoàn thiện qua quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu lí tưởng của dân tộc Việt Nam,   là con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn. Đây là sự lựa chọn đúng đắn của đảng ta và dân tộc ta. Sự lựa chọn này xuất phát từ những cơ sở sau: Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI là: “một hệ  thống quan  điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề  cơ  bản của Cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển  sáng tạo Chủ nghĩa Mác­Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị  truyền thống tốt đẹp   của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi  mãi soi đường cho sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự, tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo; dân tộc   đó phải có quyền tự quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Mỗi công dân có quyền được hưởng tự  do, độc lập. Đó là  quyền bất khả  xâm phạm. Đồng thời, mỗi công dân cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ  xây dựng và bảo về  quyền   độc lập thiêng liêng của mình.  Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình. Chỉ có hòa bình thật sự mới có độc lập hoàn toàn. Đất nước và con   người không thể có độc lập thực sự khi đất nước còn có sự xâm lược hoặc lệ thuộc vào nước khác.  Độc lập dân tộc phải đi đến tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đất nước độc lập mà dân không được hưởng tự do,   hạnh phúc thì độc lập đó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Bởi vậy, khi đất nước giành được độc lập từ  tay đế quốc, Chủ tịch   Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Nhà nước quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, yêu cầu chính phủ cách mạng phải   làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành.   Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:  Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các   tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân   dân lao động để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự  lãnh đạo của Đảng. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Con người được giải phóng khỏi ách áp bức,   bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết khả năng của mình. Chủ  nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý. Các dân tộc đều bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ  lẫn nhau.   Hòa bình, hữu nghị với các dân tộc trên thế giới.  Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi được nhận thức để đạt tới trong  quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của chù nghĩa xã hội ở Việt Nam là:  Về chế độ  chính trị: Xây dựng chế độ  do nhân dân là chủ  và làm chủ. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ  cùa   mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa   với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, được tạo lập trên cơ  sở sở hữu công cộng về   tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội thì  tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa.  Về  văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ  nghĩa xã hội, thậm chí cần đi trước để  dọn   đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải có văn hóa làm gốc, công nhân và nông dân phải biết văn hóa.  Về  quan hệ  xã hội: Xây dựng cho được mối quan hệ  tốt đẹp giữa người với người. Hồ  Chí Minh căn dặn:   “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần cỏ những con người xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện công bằng xã hội là   tạo ra động lực cho chủ nghĩa xã hội. Và, để tạo động lực cho chủ nghĩa xã hội, còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh   của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.  Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc:
  3. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ  nghĩa xã hội với những  ưu việt nội tại trên tất cả  các lĩnh vực tạo ra cơ  sở  bảo đảm chắc chắn và bền   vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Những cơ sở đó là: Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ nguyên nhân kinh tế   sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế  độ chiếm hữu tư nhân tư  bản chủ  nghĩa về  tư  liệu sản xuất sinh ra.   Tạo ra cơ  sở  cơ  bản này, chủ  nghĩa xã hội sẽ  triệt để  giải phóng con người, phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước  phát triển chưa từng có cho dân tộc. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là thực hiện cách mạng về kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Kết   quả của cuộc cách mạng này là tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cao, văn hóa phát triển của chủ nghĩa xã hội. Kết quả này   là một cơ sở ­ một nhân tố cơ bản để thực hiện củng cố, giữ vững độc lập và phát triển dân tộc. Tư  tưởng Hồ  Chí Minh cho thấy, bản chất của chủ  nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội dân chủ  xã hội chủ  nghĩa. Theo Người, đây là chiếc chìa khóa vạn năng để  nhân dân Việt Nam xây dựng xã hội mới ­ xã hội xã hội chủ  nghĩa với sức mạnh kỳ diệu của nhân dân là chủ  và biết làm chủ  xã hội. Sức mạnh kỳ diệu này là cơ  sở  để  nhân dân   Việt Nam củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, biết cách tự bảo vệ và phát triển. + Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội  Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết. Hồ  Chí Minh đã chỉ  ra rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ  và   cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ tất yếu, phải được thực hiện trước hết. Cách mạng  dân tộc dân chủ   ở  một nước thuộc địa giải quyết hai mâu thuẫn cơ  bản, nhằm đi tới hai mục tiêu chiến lược. Ở  giai   đoạn cách mạng này, theo Hồ  Chí Minh biểu hiện hai mâu thuẫn cơ  bản nổi lên là mâu thuẫn chủ  yếu giữa toàn thể  quốc dân Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai. Để  giải quyết mâu thuẫn chủ  yếu trên, Hồ  Chí Minh chủ  trương đoàn   kết toàn dân tộc nhằm “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”; “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”.   Như vậy, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp,   trước hết.  Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết trong cách mạng dân tộc dân chủ, nó cũng là khởi điểm của con   đường cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, độc lập dân tộc không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam, mà  thực hiện độc lập dân tộc còn là quá trình tạo tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội ­ cụ thể là: Trước hết, về chính trị: Xác lập và phát triển các thành tố của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam   lãnh đạo; thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất và thực hiện đoàn kết toàn dân trong Mặt trận; giành chính quyền và   xây dựng một nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân và vì dân. Có tiền đề chính trị này, khi cách mạng Việt Nam   bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa như  là sự  phát triển tự nhiên, tất yếu của giai đoạn trước, không bắt  đầu bằng một cuộc cách mạng xã hội.  Hai là, về kinh tế: Bước đầu hình thành đường lối kinh tế, từng bước xây dựng các cơ  sở kinh tế có tính chất  xã hội chủ nghĩa. Mục đích xây dựng phát triển kinh tế là từng bước cải thiện đời sống nhân dân, bồi bổ các lực lượng   cách mạng. Những yếu tố kinh tế này khi đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiếp nối và phát triển toàn diện trong   điều kiện mới. Ba là, về văn hóa ­ xã hội: Ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản do Người   sáng lập đã đưa ra đường lối xây dựng nền vãn hóa mới, nền văn hóa cách mạng, và giải quyết những vấn đề xã hội trên  nền tảng của chủ nghĩa Mác­ Lênin. Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa ­ xã hội này được tiếp nối và phát triển   trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.  Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga mở  ra thời đại mới, các nước đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi có thể  tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là con đường cách mạng triệt để  nhất, hợp với xu thế thời đại. Hồ  Chí Minh  khẳng định: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ  phận khăng khít của cách mạng vô sản   trong phạm vi toàn thế  giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ  nghĩa thì mới   giành được thắng lợi hoàn toàn”. Chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể  giải phóng triệt để  dân tộc khỏi thân phận nô lệ, bất công xã  hội, bất bình đẳng giai cấp, đói nghèo và ngu dốt, giải phóng triệt để con người, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân.  Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và  những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. ­ Trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn còn là con đường duy nhất đúng   đắn: +  Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã có những thay đổi và có những bước phát triển mới, song vẫn bộc lộ nhiều mâu  thuẫn và khủng hoảng. Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày một sâu sắc. An sinh xã hội nhìn chung không được đảm   bảo. Chủ  nghĩa xã hội với những  ưu việt nội tại trên tất cả  các lĩnh vực tạo ra cơ  sở  bảo đảm chắc chắn và bền   vững nhất cho độc lập thật sự  và phát triển dân tộc. Chủ  nghĩa xã hội sẽ  xóa bỏ  nguyên nhân kinh tế  sâu xa của tình   trạng người bóc lột người do chế độ  chiếm hữu tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa về  tư  liệu sản xuất sinh ra. Trên cơ  sở  đó,  chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con người, phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển chưa từng có cho   T r a n g  3 | 19
  4. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bài học đầu tiên sau gần 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định là “Nắm vững ngọn   cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ­ ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và   các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để  thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ  sở  bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ  Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm   vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau” . Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn là ngọn cờ  dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi lên trong  sự nghiệp đồi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân   tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác­Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” . Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội, đòi hỏi phải nắm vững bối cảnh mới của thế giới có  nhiều yếu tố tác động tới quá trình thực hiện mục tiêu này. về kinh tế ­ chính trị, cách mạng khoa học và công nghệ trên   thế  giới diễn ra với nhịp độ  gia tốc đưa nhân loại tới nền văn minh mới ­ nền văn minh tin học với hai biểu hiện tiêu  biểu là sự ra đời nền kinh tế tri thức và xã hội hóa thông tin. Bởi vậy, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế thế giới là tất   yếu, kinh tế thị trường mang tính toàn cầu. Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng chiến tranh dân tộc, sắc tộc, tôn giáo và nạn khủng bố  diễn ra  ở  nhiều nơi.   Đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn ra phức tạp và gay gắt. Nguy cơ chiến tranh cục bộ vẫn còn. Chủ nghĩa đế quốc   ra sức thực hiện “diễn biến hòa bình”. Về văn hóa ­ xã hội, thông tin trên mạng Internet bùng nổ, bên cạnh mặt tích cực,   cũng có nhiều tiêu cực xâm nhập vào các quốc gia. Các nước đứng trước cuộc “xâm lăng văn hóa” từ các nước đế quốc,  v.v.. Trong bối cảnh như vậy, kiên định đường lối độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng.  Trong đó, về  độc lập dân tộc phải được chú ý toàn diện từ độc lập về  lãnh thổ; chủ  quyền an ninh quốc gia, đến độc   lập về  kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Về  chủ  nghĩa xã hội, kiên định mục tiêu lý tưởng của   Đảng, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc   Việt Nam xã hội chủ nghĩa. + Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay: Một là, muốn xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc độc   lập dân tộc, trước hết phải phát huy mọi tiềm năng, sức mạnh của nguồn nội lực; đồng thời phải biết tranh thủ  các   nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), tận dụng thời cơ, điều kiện quốc tế thuận lợi, làm gia tăng sức mạnh dân tộc. Tức là  phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hai là, xác định rõ bước đi và chủ  động, tích cực hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất   nước, trên nguyên tắc đặt lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc lên trên hết. Độc lập dân tộc không có nghĩa là tự cô lập mình,   mà phải tích cực hội nhập quốc tế, làm tăng sức mạnh của đất nước và làm giàu bản sắc dân tộc... Ba là, độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội, phải được thể  hiện trong suốt quá trình đổi mới,   trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bốn là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới. Đây là con đường duy nhất đúng đắn cả  trên bình diện lý luận và thực tiễn, phù hợp thời đại. Đồng thời tiếp tục làm rõ mục tiêu, đặc trưng và động lực của chủ   nghĩa xã hội trong đổi mới. Để thực hiện những mục tiêu trên, cần phải bảo đảm những mục tiêu sau:  Phải củng cố, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Đảng phải đưa ra được đường lối đúng, thường xuyên hoàn chỉnh đường lối của mình, phải xây dựng Đảng,   rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh. Xây dựng đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, đi liền với lãnh đạo xây dựng nhà nước cách mạng thật sự   của dân, do dân và vì dân để  tổ chức quản lý toàn dân tộc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành   công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.  Xây dựng khối liên minh công ­ nông ­ trí thức vững chắc làm nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân   tộc. Thực chất của quan điểm này là xây dựng cho được lực lượng cách mạng lớn nhất, rộng nhất, mạnh nhất cho   suốt quá trình thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Liên minh công ­ nông ­ trí thức là gốc, là nền tảng của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan   điểm này của Người có quá trình hình thành và phát triển: Khi lãnh đạo đấu tranh giành độc lập dân tộc, Người khẳng   định, liên minh đoàn kết công ­ nông là gốc của cách mạng. Khi thực hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người lại chỉ rõ,   có liên minh công ­ nông còn phải đoàn kết với lao động trí óc để tạo ra nền tảng của khối đoàn kết toàn dân tộc.  Thường xuyên gắn bó cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới Là một bộ phận của cách mạng thế  giới, cách mạng Việt Nam phải biết tranh thủ sức mạnh của cách mạng   thế giới, biết tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của các lực lượng cách mạng trên thế giới làm tăng   sức mạnh của mình để vượt qua khó khăn, chiến thắng kẻ thù, đưa cách mạng đến thành công. Hồ Chí Minh căn dặn: ba   điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội như trên, “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và   đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”. Ngày nay, Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định đường lối cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có   đi theo con đường này chúng ta mới có nhà nước thực sự  của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo được độc lập dân tộc   thực sự, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, khai thác được tiềm năng, thế  mạnh của đất nước để  hội nhập quốc tế 
  5. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hiệu quả. T r a n g  5 | 19
  6. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy  Câu  2:     Vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ? Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam. Chính truyền thống  ấy đã tạo nên sức   mạnh vô địch của dân tộc trước bao hiểm họa của kẻ thù. Trong thời đại Hồ  Chí Minh, tinh thần đại đoàn kết đã trở   thành một thứ  vũ khí cách mạng. Chủ  tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và phát triển sức mạnh đoàn kết.   Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay vẫn còn là một vấn đề có   ý nghĩa thời sự đặc biệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI là: “một hệ  thống quan  điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề  cơ  bản của Cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển  sáng tạo Chủ nghĩa Mác­Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị  truyền thống tốt đẹp   của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi  mãi soi đường cho sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. Trong đó, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về vị trí, vai trò, nội dung, nguyên   tắc, phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của   quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. ­ Quan niệm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết: Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ  bản quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng   Việt Nam. Là một tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp   mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù   của dân tộc, của giai cấp.   Đó là  nhiệm vụ  hàng đầu của Đảng  cách mạng. Hồ  Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết không đơn thuần là  phương pháp tập hợp, tổ  chức lực lượng yêu nước, cách mạng mà cao hơn đó là mục đích, nhiệm vụ  hàng đầu của  Đảng cách mạng. Hồ  Chí Minh tuyên bố  trước toàn dân tộc trong buổi lễ  ra mắt của Đảng (3­3­1951): Mục đích của  Đảng Lao động Việt Nam đại thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” Do đó, đại đoàn kết phải là điểm xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối, chủ trương của Đảng. ­ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới hiện nay: Các nhân tố tác động đến khối đại đoàn kết: + Tình hình thế giới: Bước vào thời kỳ  đổi mới, tình hình thế  giới có nhiều biến động phức tạp khó lường: hòa binhfm hợp tác và   phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn   ra gay gắt  ở nhiều nơi. Những vấn đề  toàn cầu như  an ninh tài chính, năng lượng, lương thực, biến đổi khí hậu, thiên  tai, dịch bệnh... Tiếp tcuj có những diễn biến phức tạp, không một quốc gia riêng rẽ  nào có thể  tự giải quyết. Khu vực   châu Á­Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định. + Tình hình trong nước: Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang   xây dựng nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân  và đang hội nhập quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tếm phấn đấu vì   hòa bình, độc lập và phát triển. Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ  cao so với các nước trong   khu vực, Tình hình chính trị  của đất nước luôn luôn giữ  được  ổn định. Xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân   không ngừng được cải thiện. Thế  và lực của đất nước ta mạnh lên nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép   nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để  phát triển nhanh và bền vững. Phấn đấu đến năm   2020, về cơ bản, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thử thách, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát   triển. Nạm tham nhũng, tệ quan liêu cung như  những uy thoái về  tư  tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không   nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương, chiinhs sách của Đảng và Nhà   nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm   mưu "diến biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Mặt khác, các thế  lực thù địch ra sức phá   hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòn làm li gián, chia rẽ nội   bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Sự  nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện chiến  lược đại đoàn kết dân tộc. Khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công ­nông ­trí thức được mở rộng hơn, là  nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. ­ Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ  Chí Minh trong giai đoạn hiện   nay: Quán triệt tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn coi đại   đoàn kết là vấn đề chiến lược, là nguồn sức mạnh, là động lực chủ  yếu, có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho thắng lợi   của sự nghiệp cách mạng. + Mục tiêu đại đoàn kết: Hiện nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về  đại đoàn kết trong tình hình  
  7. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh mới. Qua hơn một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà   nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết được mở  rộng hơn, là nhân tố  quan trọng thúc đẩy sự  phát triển kinh tế­xã hội,   giữ vững ổn định chính trị đất nước. Các hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã   hội được phát huy, bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Có thể khẳng định, chính sách đại đoàn kết của Đảng đã thực sự là một bộ phận của đường lối đổi mới và góp   phần to lớn vào những thành quả của đất nước. + Quan điểm chỉ đạo đại đoàn kết: Một là, khối đại đoàn kết dân tộc trên liên minh công­nông­trí thức được mở  rộng hơn là nhân tố  thúc đẩy sự   phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Hai là, lấy mục tiêu giữ  vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ  quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công   bằng, văn minh làm điểm tương đồng; phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh   tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu XHCN. Ba là, sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, và vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của Đảng   ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện.Do đó, cần phải phát triển nguồn lực con người, đào tạo đội ngũ cán   bộ tốt, có phẩm chất, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, khơi dậy và phát huy sức mạnh đoàn kết dân   tộc, coi dân chủ  là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức và quyền làm chủ  cho nhân   dân. Bốn là, phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ tham  nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ  của nhân dân; phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân;   phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đoàn kết quốc tế độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; Việt   Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới. Việt Nam tiếp tục đoàn kết và giúp đỡ, ủng hộ phong   trào cách mạng, các xu hướng tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. + Nguyên tắc đại đoàn kết: Thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong   xã hội. Thứ hai, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Thứ ba, phải biết tin dân, lắn nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn vướng mắc của dân; làm  tốt công tác dân vận. Thứ tư, đoàn kết quốc tế phải trên cơ  sở  tôn trong độc lập chủ  quyền và toàn vẹn lãnh thổ  của nhau; hợp tác   bình đẳng và cùng có lợi. + Biện pháp đại đoàn kết: Xây dựng những chính sách đúng đắn thiết thực nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để  Đảng thực sự  là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân   tộc. Phát huy mạnh mẽ vai trò chính quyền trong việc thực hiện chính sách đâị đoàn kết dân tộc. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị  trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các   đoàn thể nhân dân. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng; nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự  động thuận xã hội, đẩy   mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, góp phần tích cực vào   cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hiện nay, hơn bao giơ hêt phai quan triêt va vân dung sang tao t ̀ ́ ̉ ́ ̣ ̀ ̣ ̣ ́ ̣ ư tưởng Hô Chi Minh vê Đai đoan kêt trong tinh ̀ ́ ̀ ̣ ̀ ́ ̀   hinh m ̀ ơi. ́ Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức  dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người   ̣ Viêt Nam, th ực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng   nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ  sở lấy liên minh công nông và trí   thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là  một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực   thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ  sở  giải quyết hài hoà quan hệ  lợi ích giữa các thành viên trong xã  hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng   và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc   của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân   bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình. T r a n g  7 | 19
  8. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy  Câu  3   : Quan điểm của HCM về xây dựng bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ công chức ? Ý nghĩa đối với   cải cách nền hành chính hiện nay ? Ở bất kỳ lĩnh vực nào, chế độ nào nhân tố con người hết sức quan trọng, đóng vai trò quyết định để  đạt mục   tiêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lề  lối làm việc” đã khẳng định: “Cán bộ  là cái gốc của mỗi công   việc­công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”. Do vậy, “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ  chuyên môn và kỹ  năng nghề  nghiệp  cao, vừa giác ngộ về  chính trị, vừa có tinh thần trách nhiệm, tận tụy công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành  công vụ” là nhiệm vụ cấp thiết của các cấp, các ngành đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà   nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong sự  nghiệp cách mạng của mình, lãnh tụ  Hồ  Chí Minh đặc biệt quan tâm đến những lĩnh vực này, khái   quát thành những vấn đề tư tưởng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có giá trị thời sự lâu bền. Ngày nay, khái niệm cán bộ dùng để  chỉ  những người được biên chế  vào làm việc trong bộ  máy chính quyền,   đảng, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước và sĩ quan trong lực lượng vũ trang. Ngoài ra, cán bộ được coi là những người có   chức vụ, vai trò nồng cốt trong một cơ quan, tổ chức, có tác động  ảnh hưởng đến hoạt động của cơ  quan, tổ  chức và   liên quan đến vị trí lãnh đạo chỉ huy, quản lý điều hành, góp phần quyết định xu hướng phát triển của cơ quan, tổ chức. Theo Người thì thực chất cán bộ là đầy tớ của nhân dân. ­ Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước: Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu, lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho   Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà nước   đó phải đại biểu quyền lợi cho số đông người và Hồ  Chí Minh đã chủ  trương xây dựng một nhà nước công­nông­binh  thể hiện trong Chánh cương văn tắt của Đảng từ khi thành lập 1930, trải qua thực tế các cao trào cách mạng Việt Nam,  về sau, HCM đã chủ trương xây dựng ở Việt Nam một nhà nước dân chủ cộng hòa, một nhà nước do nhân dân lao động   làm chủ, nhà nước của dân, do ,dân, vì dân. Trong bài báo Dân vận (1949), HCM khẳng định:  Nước ta là nước dân chủ.  Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự  nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của nhân dân. Chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân cử ra... Nói tóm   lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. ­ Quan điểm HCM về xây dựng đội ngũ cán bộ: Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết, Chủ tịch HCM thấy rõ vị  trí, vai trò của cán bộ.   Người chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém.   Bất cứ  chính sách, công tác gì, nếu có cán bộ  tốt thì thành công, tức có lãi. Không có cán bộ  tốt thì hỏng việc, tức lỗ  vốn". Theo HCM, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, đây là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng cũng rất  nặng nề, là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp. Để  hoàn thành nhiệm vụ  đó, đòi hỏi Đảng phải xây dựng   một đội gũ cán bộ có đủ đức, tài, trong đó, đức là quan trọng hàng đầu. Người chỉ rõ, đạo đức là cái gốc, nền tảng của   cách mạng. "Cũng như  sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có   gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được   nhân dân". Đạo đức của người cán bộ cách mạng được thể hiện ở chỗ: luôn đặt lợi ích ủa Đảng, của dân tộc lên trên hết,   trước hết, phải biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Theo Hồ  Chí Minh,  cán bộ phải có đức nhưng cũng phải có tài. Tài của người cán bộ thể  hiện ở năng lực trí tuệ  và năng lực tổ  chức thực   tiễn, trong đó đặc biệt là năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ. Cùng với đức và tài, người cán bộ còn phải có phong cách quần chúng, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân   dân, biết lắng nghe ý kiến, tông trọng quyền làm chủ của nhân dân, khéo tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng   lợi đường lối, chủ  trương, chính sách. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người yêu cầu cán bộ  càng phải: "giữ  chặt   mối liên hệ  với dân chúng và luốn lắng nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ  đó mà   Đảng thắng lợi..., xa cách dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như  đứng lửng ơ giữa trời, nhất định   thất bại". Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng, Chủ  tịch   HCM yêu cầu Đảng phải làm tốt công tác cán bộ: Một là, phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ.  Hai là, phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ.  Đây là công việc hệ  trọng và rất khó. Đánh giá đúng cán bộ là xác   định chính xác ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ kém, ai mạnh ở chỗ nào, khả năng hoàn thành nhiệm vụ đến đâu, quan hệ với   quần chúng ra sao... Trên cơ sở đó mà bố trí, sử dụng, đề bạt đúng cán bộ. Ba là, phải khéo dùng cán bộ. Khéo dùng cán bộ thể hiện  ở chỗ xếp người đúng việc, vì việc mà xếp người.   Người căn dặn: "Dùng người cũng như  dùng gỗ. Người thợ  khéo thì gỗ  to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ  mà dụng   được". Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết hợp các thế  hệ  cán bộ một cách đúng đắn. Người dạy, trong đội   ngũ cấn bộ của Đảng có cán bộ già, có cán bộ trẻ. Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt lãnh đạo,   được rèn luyệ, được thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh... Còn cán bộ trẻ  tuy chưa có một số ưu điểm như  cán bộ 
  9. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó học tập, cho nên tiến bộ rất nhanh. Bốn là phải có gan cất nhắc cán bộ. Có gan tức là phải mạnh dạn. Sở dĩ nói như vậy vì chúng ta thường hay   "rụt rè" hoặc "quá khắt khe" trong việc đề bạt cán bộ. Có gan không có nghĩa là nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng không   vì danh lợi của mình mà cất nhắc cán bộ. HCM yêu cầu: "Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, vì tài năng, vì cổ  động cho   đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế công việc nhất định chạy". Năm là, phải yêu thương, chăm sóc cán bộ.  HCM chỉ  rõ không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm là đào tạo  được cán bộ  tốt, mà cần phải công tác, đấu tranh, huân luyện lâu năm mới có được. Hơn nữa, trong đấu tranh, có rất  nhiều thử thách, nguy cơ dẫn đến mất cán bộ. Vì vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ, phải vun đắp chí khí của họ, để đi   đến chỗ "bại không nản, thắng cũng không kiêu". Tư tưởng HCM về công tác cán bộ là một trong những viên ngọc quý, có ý nghĩa lý luận và thực tiến sâu sắc.   Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng yêu câu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi các cấp ủy Đảng cần   quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của HCM: "phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công  việc chung của chúng ta". ­ Ý nghĩa của công tác cải cách hành chính: Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước nói chung và từng địa phương nói riêng, cải cách hành chính   được coi là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế ­  xã hội. Cải cách hành chính được triển khai trên nhiều nội dung: cải cách thể  chế, cải cách bộ  máy hành chính, xây  dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách hành chính công và hiện đại hóa nền hành chính, trong   đó, cải cách thủ  tuch hành chính, thực hiện giải quyết các thủ  tuch hành chính theo cơ  chế  một cửa là một khâu quan   trọng và được đặt ra ngay từ giai đoạn đầu của tiến trình cải cách. Cải cách là nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả,   minh bạch, công bằng trong giải quyết công việc hành chính; loại bỏ  những rườm rà, chồng chéo, dễ  bị  lợi dụng để  tham nhũng, gây khó khăn cho nhân dân. Thủ tục hành chính được hiểu là trình tự, cách thức thực hiện và yêu cầu điều kiện hồ sơ do cơ quan hành chính  nhà nước có thẩm quyền quy định để giải quyết từng công việc cụ thể liên quan đến các cá nhân, tổ chức. Thủ tục hành  chính có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và đời  sống nhân dân. Thủ tục hành chính không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của một cơ quan, một cáp chính quyền, mà   còn đến các tổ chức và công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Việc công khai minh bạch các thủ  tục hành chính tạo cơ  sở  cho quá trình thực hiện và tăng cường khả  năng   giám sát thực thi công vụ của nhân dân, các tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình và đồng thời các cơ  quan hành chính nhà nước cũng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Việc thực hiện mô hình một cửa để tập trung đầu mối giải quyết thủ tục hành chính từ  các phòng, ban huyên   môn về một đầu mối tại ủy ban nhân dân các cấp thông qua "bộ phận tiếp nhận và trả kết quả" nhằm tạo sự phối hợp  chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan, đảm bảo tính thông suốt và giải quyết nhanh thủ tục hành chính cho nhân dân. Lợi ích, ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện cơ chế 'một cửa, một cửa liên thông", đặc biệt đó là sự  triển khai   xây dựng, đưa vào hoạt động của bộ phận một cửa các cấp là: hiệu quả của việc giải quyết các thủ tục hành chính theo   cơ  chế  này đã làm cho nền hành chính trở  nên dân chủ, minh bạch, có tính chuyên nghiệp hơn; mang lại sự thuận tiện   cho người dân. Trên thực tế, có nhiều loại hồ  sơ  hành chính có liên quan đến thẩm quyền giải quyết của nhiều cấp,   nhiều cơ quan, phải qua nhiều đầu mối mới có kết quả cuối cùng. Cơ chế một cửa liên thông đặt ra yêu cầu các cơ quan   nhà nước có trách nhiệm phối hợp trong quy trình xử lý hồ sơ, không để  tổ chức, cá nhân công dân mang hồ sơ đi từ  cơ  quan này tới cơ quan khác. Người dân có nhu cầu chỉ phải nộp hồ sơ và nhận lại kết quả tại một đầu mối. Những cải cách hành chính này đã giúp cơ quan hành chính nhà nước phục vụ ngày càng tốt hơn những nhu cầu   của nhân dân. Trong tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước, cùng với việc điều chỉnh cơ  cấu bộ  máy hành chính nhà   nước, cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hành chính  nhà nước có một vị  trí hết sức quan trọng. Xây dựng, phát triển đội ngũ công chức hành chính nhà nước có năng lực,  phẩm chất đạo đức đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn,  của những cải cách về  tổ chức bộ  máy hành chính là   một nhiệm vụ, một bộ phận không thể tách rời của công cuộc cải cách hành chính trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH  đất nước. T r a n g  9 | 19
  10. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy Câu 4: Nội dung và ý nghĩa quan điểm của HCM về bản chất dân chủ, bản chất giai cấp công nhân của  nhà nước Việt Nam?           ­ Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  nhà nước của dân, do dân, vì dân là một hệ  thống các quan điểm lý luận về  con   đường hình thành nhà nước kiểu mới  ở  Việt Nam, về bản hất, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, cơ  chế  hoạt động, tổ  chức bộ  máy, xây dựng đội ngũ cán bộ  công chức của nhà nước đó. Vấn đề  này có nội dung và ý nghĩa hết sức quan   trọng thể hiện bản chất dân chủ, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước Việt Nam. ­ Khái niệm: Nhà nước là một tổ  chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ  máy chuyên làm nhiệm vụ  cưỡng chế  và   thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo vệ  địa vị  của giai cấp thống trị   trong xã hội. ­ Cơ sở hình thành nhà nước của dân, do dân, vì dân: + Cơ sở lý luận; Bắt guồn từ truyền thống yêu nước của dân tộc, bao gồm cả  truyền thống tổ  chức, xây dựng nhà nước, pháp  luật ... Một nguồn gốc lý luận quan trọng hình thành tư tưởng HCM về nhà nước kiểu mới ở nước ta là các giá trị, tinh   hoa văn hóa nhân laoij cả phương Đông và phương Tây trong lĩnh vực nhà nước và luật pháp. HCM  đã kế thừa có chọn   lọc các quan điểm lý luận của Nho giáo về  trị  nước, lý luận của các nhà Khai sáng Pháp, các nhà lập pháp Mĩ về  nhà  nước và pháp luật, đặc biệt là quan niệm về dân chủ, dân quyền, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân... Nguồn gốc lý luận qan trọng, quyết định nhất sự hình thành tư tưởng HCM về nhà nước là học thuyết Mác­Lê   nin về nhà nước vô sản nói chung, nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước XHCN nói riêng. Đến chủ nghĩa Mác­Lê nin,   HCM đã tìm thấy con đường cách mạng Việt Nam, phương thức đúng đắn để giải quyết vấn đề chính quyền nhà nước,   hiểu biết thấu đáo bản chất nhà nước và các thức tổ  chức nhà nước. Trên cơ  sở  đó, HCM đã dần dần hình thành các   quan điểm lý luận riêng về  một kiểu nhà nước mới phù hợp với thực tiễn Việt Nam­ nhà nước dân chủ  nhân dân. Tử  tưởng HCM về nhà nước kiểu mới có quá trình phát triển và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử. Từ luận điểm: vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề  chính quyền, còn vấn đề  cơ  bản của   một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai? phục vụ quyền lợi cho ai? ­ Nội dung, bản chất của nhà nước Việt Nam theo tư tưởng HCM: + Bản chất dân chủ của nhà nước ta: Qua nghiên cứu lịch sử  của dân tộc và các kiểu Nhà nước trong lịch sử  như: Nhà nước thực dân phong kiến;  Nhà nước dân chủ tư sản; Nhà nước Xô viết… từ đó hình thành trong tư tưởng HCM về Nhà nước. Người nhận ra rằng:   Nhà nước nào cũng có chuyên chính nhưng vấn đề quan trọng là chuyên chính với ai và dân chủ với ai? HCM đã nghiên   cứu chủ nghĩa Mác­Lênin về vấn đề Nhà nước, bản chất của Nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa   dân chủ thuộc về nhân dân.             Tư tưởng HCM về bản chất dân chủ  của nhà nước Việt Nam là quyền làm chủ  của nhân dân, quyền lực thuộc   về nhân dân.Quan niệm dân chủ của Người là dân là chủ, dân làm chủ. Dân làm chủ nước nhà, Nhà nước là của dân, do  dân, vì dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sau khi nước ta dành độc lập HCM đã khẳng định: “Nước ta là nước  dân chủ”. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền   từ  xã đến Chính  phủ  trung  ương đều do dân bầu ra thông qua tổng tuyển cử  phổ  thông đầu phiếu và phiếu  kín. Quyền hành và lực lượng đều ở  nơi dân. Nhân dân có thực quyền bầu ra Nhà nước, bầu ra chính quyền các cấp. Mọi cơ quan Nhà nước tự nó không có   quyền mà mọi quyền lực Nhà nước có đều được do nhân dân  ủy   quyền cho. Những người thực hiện quyền lực Nhà   nước phải là đầy tớ và công bộc của nhân dân. Trong nhà nước   của dân thì người dân được hưởng mọi quyền dân chủ,   có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.             Bản chất dân chủ  của nhà nước Việt Nam còn thể  hiện ở  điểm: Nhà nước do dân. Đó là Nhà nước do dân lựa   chọn, bầu ra những đại biểu của mình. Nhà  nước đó do dân  ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế  để  Nhà  nước chi tiêu hoạt  động. Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, gúp đỡ. Nhưng khi Chính phủ  nào, cơ  quan nào không đáp ứng được   lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi   miễn  nó. Do đó HCM từng nói: "Tất cả các cơ quan Nhà nước  phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ  với nhân dân, lắng nghe ý kiến  và chịu sự kiểm soát của nhân dân”, “Hễ Chính  phủ nào mà có hại cho dân chúng, thí dân chúng phải đập đổ chính phủ ấy đi, và gây nên chính phủ khác”.   Hồ Chí Minh khẳng định chân lý đó:   “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”   “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân   dân”.   Trong mọi vấn đề của cách mạng, nếu có dân là có tất cả, ngược lại không có dân thì thất bại trong tầm tay.   “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.    Nhà nước do dân, dân làm chủ  nhà nước theo tư  tưởng Hồ  Chí Minh là sự  thống nhất biện chứng của cả  quyền và nghĩa vụ làm chủ; nó thể hiện bản chất dân chủ triệt để của nhà nước kiểu mới.              Tư  tưởng   HCM về   bản chất dân chủ  của Nhà nước Việt Nam còn  ở  nội dung “Nhà nước vì dân”. Theo tư  tưởng của Người chỉ có một Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể    là nhà nước vì dân được. Đó  là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi,   thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ cao đến thấp đều là người đầy tớ, công bộc của  
  11. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân. Vì vậy Bác dạy: “Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm; Việc gí hại dến dân, ta phải   hết  sức tránh”. Tuy  nhiên Bác không chỉ thiên vị về vai trò công bộc của người cán bộ hay dân chủ quá mức của nhân dân mà người cán bộ  nhà nước vừa là người phục vụ lại vừa là người hướng dẫn, lãnh đạo của nhân dân. Người nói: “Nếu   không có nhân  dân thì  Chính phủ không đủ lực, nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai chỉ đường”.  Bản chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được Đại hội đại biểu toàn quốc lần   thứ  XI Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rất rõ: “Nhà nước phục vụ  nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực   hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có   cơ  chế  và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị  tệ  quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền,  xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỹ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của   Tổ quốc và của nhân dân”. + Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta:           Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác­Lê nin về nhà nước, HCM nhận thức rất rõ bản chất giai cấp của nhà nước  nói chung. Theo Người, bất kỳ một nhà nước nào cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định , “tính chất của nhà  nước là bản chất gia cấp của chính quyền”; mỗi nhà nước đều gắn với một chủ  thể  giai cấp, bảo vệ lợi ích của một   giai cấp nhất định; không thể có nhà nước đứng ngoài gia cấp, nhà nước phi giai cấp. Theo tư tưởng HCM về nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản chất là nhà nước mang bản chất giai cấp công   nhân. Hồ Chí Minh khẳng định “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông,  do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Mặt khác, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với Nhà nước quyết định bản chất  giai cấp công nhân của Nhà nước ta, vì nó chế định mục đích hoạt động, chức năng tổ chức, cơ  chế vận hành của Nhà   nước trên lập trường giải phóng nhân dân lao động, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong tư tưởng HCM, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước kiểu mới được thể hiện trên các mặt chủ yếu  sau đây: Nhà nước ta được tổ  chức, hoạt động theo các nguyên tắc phổ  biến của chủ  nghĩa Mác­Lê nin về  nhà nước   CCVS, nhà nước XHCN nói chung. Nền tảng tư tưởng nhà nước là học thuyết của chủ nghĩa Mác­Lê nin. Xa rời nguyên   lý này , nhà nước sẽ biến chất, trở thành nhà nước của giai cấp khác. Nhà nước luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là người   lãnh đạo nhà nước trong tất cả các giai đoạn cách mạng.  Nhà nước ta được tổ  chức, hoạt động và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ­ một nguyên tắc tổ chức   đặc thù của giai cấp công nhân: tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ càng mở  rộng, tập trung càng cao độ. Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân, mà nòng cốt là liên minh   công­nông­trí thức. Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong tổ hức, hoạt động  có sự phân công rành mạch về chức năng, nhiệm vụ giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, mà pháp luật đại biểu cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của   giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao động. Với các biểu hiện như vậy,  ở nhà nước ta, bản chất giai cấp công nhân bao giờ  cũng thống nhất chặt chẽ  với  tính nhân dân và tính dân tộc. Đây là một quan niệm hết sức đặc sắc, độc đáo của HCM. Sự thống nhất này dựa trên các   căn cứ khách quan mà quan trọng nhất là sự thống nhất lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của  nhâ dân lao động và  lợi ích của dân tộc: Độc lập cho dân tộc; khát vọng dân chủ của toàn thể dân tộc; cuộc sống no đủ, sung sướng, hạnh   phúc của tất cả mọi người dân Việt Nam. T r a n g  11 | 19
  12. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy  Câu    5 : Tư tưởng HCM về  cán bộ và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay?               Sinh thời HCM đánh giá rất cao vai trò của người cán bộ. Theo Người, vấn đề cán bộ là một vấn đề  trọng yếu,  rất cần kíp. Vấn đề cán bộ quyết định mọi công việc. Người nói rằng: “Cán bộ quyết định mọi việc… công việc thành  công hay thất bại một phần lớn là do nơi tư  tưởng, đạo đức, thái độ  và lề  lối làm việc của người   cán bộ  đó”. Trong  công cuộc đổi mới hiện nay, học tập, nghiên cứu, vận dụng hiệu quả tư tưởng HCM về công tác cán bộ có ý nghĩa cực   kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. ­ Tư tưởng HCM về vị trí, vai trò của người cán bộ: Theo quan niệm của Bác, Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. "Gốc" là từ đó sinh ra. Cây thì phải có gốc, không   có gốc thì cây héo. Gốc có vững thì cây mới bền. Công việc cách mạng phải có cán bộ và cán bộ phải tốt. Người khẳng  định: "Muôn việc thành công hoặc thất bài, đều do cán bộ tốt hoặc kém". Cán bộ được hiểu là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy được thì động cơ dù tốt,   dù chạy thì toàn bộ máy cũng tê liệt. Đời sống chính trị, kinh tế, xã hội được coi như  là một "cỗ máy". Trong "cỗ máy"   đó có ba bộ  phận: một là đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ, hai là quần chúng nhân dân, những người thi   hành chính sách đó; ba là cán bộ. Vị trí người cán bộ là chiếc cầu nối giữa Đảng, chính phủ với nhân dân. Người cán bộ   trở thành cầu nối thì phải có đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, phương pháp và phong cách. Có vậy mới giải thích   cho dân chúng hiểu rõ đường lối chính sách; góp phần giáo dục, động viên, tập hợp quần chúng tham gia cách mạng. HCM còn khẳng định vị trí của cán bộ bên cạnh cách tổ  chức công việc và công tác kiểm tra sau khi đã có chính  sách đúng. Một trong ba khâu kém thì chính sách cũng không thi hành được. Ở  một cách nhìn khác, Người cho rằng: "Cán bộ quyết định mọi việc. Các đồng chí đều là cán bộ  cao cấp, đều  giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay là bại một phần lớn là do nơi tư tưởng, đạo đức, thái độ  và lề  lối làm việc của các đồng chí". ­ Tư tưởng HCM về tài, đức của người cán bộ: + Vai trò của đạo đức cách mạng: HCM đặc biệt quan tâm đến đạo đức cách mạng. Người là hiện thân của đâọ đức cách mạng, nêu gương cho toàn   Đảng, toàn dân ta. Đạo đức được HCM xem xét toàn diện gồm: đạo đức công dân, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu,   chủ chốt. Đạo đức được nhận diện từ môi trường gia đình, công sở, xã hội; trong các mối quan hệ với mình, với người,  với việc. Đạo đức HCM có giá trị dân tộc và nhân loại, có ý nghĩa lịch sư, hiện tại và tương lai. Theo Người, đạo đức là cái cái gốc, là nền tảng của con người cách mạng. Đạo đức là sức mạnh của con người.  "Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức mạnh. Người  cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền   tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Theo HCM, có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ  sệt, rụt rè, lùi bước.  Khi cần thì sẵn sàng hi sinh cả  tính mạng của mình cũng không tiếc. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và   thành công vẫn giữ  vững tinh thần, chất phác, khiêm tốn "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về  mặt   hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. + Yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ: ­ Trung với nước, hiếu với dân. “Trung” và “Hiếu” là những khái niệm đạo đức Nho giáo, chứa đựng một nội dung hạn hẹp “trung với vua,   hiếu với cha mẹ”. Hồ  Chí Minh đưa vào khái niệm cũ nội dung mới, có ý nghĩa khoa học, cách mạng và nhân văn là “trung với  nước, hiếu với dân”. Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ  điều cốt lõi nhất trong đạo đức   Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua phong kiến. Cái mà Nho giáo tôn thờ nhất chính  là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không chấp nhận lòng trung thành của nhân dân bị áp bức với kẻ áp  bức mình. Hồ Chí Minh đã đảo lại thế đứng cho quan niệm đạo đức cũ. Người viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược   xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như  người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời. Bọn   phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ  làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để  phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ  thực hiện làm gương cho nhân dân   theo để lợi cho nước cho dân. Nhân dân từ thân phận nô lệ, không có quyền tự do, dân chủ trở thành người chủ, sáng tạo   ra lịch sử. Dưới chế độ phong kiến, quan là phụ mẫu của dân, dưới chế độ mới, dân là chủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ   của dân. Làm cán bộ, làm lãnh đạo là làm đầy tớ của dân. “Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước với dân tộc, thể  hiện trách nhiệm với sự  nghiệp   dựng nước, giữ  nước và sự  phát triển của đất nước, là phẩm chất đạo đức chủ  chốt nhất. Nội dung trung với nước,   hiếu với dân là phải quyết tâm, suốt đời, hết lòng, hết sức phụng sự  Tổ  quốc, phục vụ  nhân dân; đặt lợi ích của Tổ  quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải trọng dân, tin dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân   dân, thương dân, hòa mình với quần chúng nhân dân thành một khối; nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; quan tâm dân   quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ, dân vận; làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. “Trung với nước, hiếu với dân” không phải là một khẩu hiệu, không phải quyết tâm ở hội trường mà phải lấy  hiệu quả công việc làm thước đo theo tinh thần “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào   cũng đánh thắng”. Đó mới thật sự là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. ­ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
  13. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ “với tự mình”. Cần là siêng năng, chăm chỉ cố gắng dẻo dai. cần có nghĩa hẹp là từng người, nghĩa rộng là mọi người, từ  gia  đình đến làng, nước. Cần liên quan đến kế hoạch công việc, nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng, cần là   luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời. Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân   của con người. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên   tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ  quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui   lòng. Liêm là trong sạch, không tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, tham sống yên là   bất liêm. Người cán bộ  cậy quyền thế  mà đục khoét dân, ăn của đút, dìm người giỏi để  giữ  địa vị  và danh tiếng của  mình đều là trái vói chữ liêm. Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm. Có kiệm mới liêm được. Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải   cần, kiệm, liêm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn. Hồ Chí Minh cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, một lẽ tự  nhiên như  bốn   mùa của trời, bốn phương của đất. Nó là thước đo chất người của mỗi người, vì “thiếu một đức thì không thành người”,   cần, kiệm liêm, chính đặc biệt cần thiết đối với cán bộ, đảng viên vì họ là những người có quyền, nếu thiếu lương tâm   là có dịp đục khoét, mưu lợi cho mình. Trên cái nền “làm người”, cán bộ, đảng viên là những người có trình độ cao, có  trách nhiệm lớn. Cán bộ, đảng viên mà suy thoái đạo đức thì ảnh hưởng đến thanh danh của Đảng, đến nhiệm vụ  cách   mạng. Đảng viên sai lầm sẽ  đưa quần chúng đến sai lầm. Hồ Chí Minh viết: “Trước nhất là cán bộ  các cơ  quan, các   đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét,   có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Theo Hồ Chí Minh, mặt  ứái của quyền lực dễ làm cán bộ, đảng viên tha hóa:   “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ  trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” . Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo trình độ  văn minh, tiến bộ của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm,   biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái cần để  làm việc, làm người,   làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, “lo trước   thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Thực hành chí công vô tư gắn liền với chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là “chỉ lo mình   béo mặc thiên hạ  gầy”; là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết; là chỉ  biết “mọi người vì mình” mà  không lo “mình vì mọi người”. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ  gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ  dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ  vi  trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như tham ô, lãng phí, quan liêu, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền   hành, v.v.. Nó phá từ  trong phá ra, là bạn đồng minh của chủ  nghĩa đế  quốc và thói quen truyền thống lạc hậu, nguy  hiểm hơn kẻ thù bên ngoài. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên  thắng   lợi của chủ nghĩa xã hội không thế tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Chủ  nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho Đảng và cả  dân tộc: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,   ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca   ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải chống chủ nghĩa cá nhân và cảc loại kẻ   địch khác. Tuy nhiên cần phân biệt sự khác nhau giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích chính đáng của cá nhân. Neu những lợi  ích cá nhân không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Theo Hồ  Chí Minh: đấu tranh chống chủ  nghĩa cá   nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Và chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện   để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình. ­ Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa. Kết hợp nghiên cứu lý luận với những trải nghiệm thực tế, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này chỉ  có hai loại   người: áp bức và bị áp bức, người ác và người thiện và hai thứ việc: việc chính và việc tà. Nhũng người làm việc chính   là người thiện, làm việc tà là người ác. Người từng nói: lòng thương yêu nhân dân và  nhân loại của tôi không bao giờ  thay đổi. Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác. Thương yêu, quý trọng con người trong tư  tưởng Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp   công nhân, biến thành hành động cụ  thể, tức là tình thương yêu con người dành cho con người đang sống thực trên đời   này, bị áp bức, đói nghèo, bệnh tật. Đó là tình yêu thương như nhân loại đã ngợi ca: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc   lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó   có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói  nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”. Tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh là một biểu hiện sáng ngời của việc thấm  nhuần chủ nghĩa Mác­ Lênin. Theo Người, hiểu chủ  nghĩa Mác­Lênin là phải sống với nhau cho có tình có nghĩa. Đó là một tình thương yêu   T r a n g  13 | 19
  14. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy không chỉ trong phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại. ­ Tinh thần quốc tế trong sáng. Tinh thần quốc tế là một phẩm chất đạo đức bẳt nguồn từ   bản chất của giai cấp công nhân và ché độ  xã hội   chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước nhiệt thành, một chiến sĩ quốc tế  vĩ đại. Người không chỉ giáo dục tinh  thần quốc tế  trong sáng, thủy chung mà còn là hiện thân của tinh thần quốc tế, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính   và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hơn nửa thế  kỷ  hoạt động cách mạng, Hồ  Chí Minh luôn tôn trọng, quan tâm đến các dân  tộc Người đặt sự  nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam trong  quỹ đạo của cách mạng thế  giói; coi thắng lợi của nhân dân Việt Nam   cũng là thắng lợi chung của nhân dân tiến bộ thế giới, thắng lợi của bạn cũng là thắng lợi của mình. Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc; đoàn kết với các   lực lượng cách mạng và tiến bộ  khắp thế  giới . Người gắn mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam với mục tiêu   chung của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. + Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới ­ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng  ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” 1. Không vượt qua được  chính mình, không chiến thắng được giặc trong lòng thì không thể có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng  cộng sản với tư  tưởng cá nhân ví như  lúa với cỏ  dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ  dại   không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì   cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. ­ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Nêu gương đạo đức, nói thì phải làm, nói đi đôi với làm. Đạo làm gương là một nét đẹp của văn hóa phương   Đông. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, lý luận phải gắn với thực tiễn nhưng điều quan trọng nhất về mặt đạo đức là lấy   hiệu quả làm thước đo. Người chỉ rõ: trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ  “cộng sản” mà ta được   họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Làm gương  ở  nhiều môi trường và cấp độ  khác nhau. Nhân dân ta thường nói “đảng viên đi trước, làng nước  theo sau”. Trong mọi biểu hiện làm gương thì người đứng đầu, cán bộ  chủ  chốt giữ  một vai trò rất quan trọng. Muốn   hướng dẫn cấp dưới và nhân dân thì mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. ­ Xây đi đôi với chống. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức khoa học, đảng viên và cán bộ  cũng là người. Trong Đảng và mỗi con  người, vì những lý do khác nhau, “không phải người người đều tốt, việc việc đều hay”. Hồ  Chí Minh chỉ  rõ: “Đảng ta   không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử   tốt, nhưng vẫn có một số  chưa bỏ hết những thói xấu tự  tư  tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa”. Nhiều khi có những đảng viên   “phớt qua phép luật, trốn tránh và làm trái phép luật,  về điểm này, những người ngoài Đảng cẩn thận hơn. Vì đảng viên   thường xem phép luật, chính quyền, v.v. là việc trong nhà. Vì vậy, mà có đôi đảng viên như những con lợn, (xin lỗi tiếng   đó), họ rúc vào vườn rau của Nhà nước, chén một bữa no say, hoặc họ hi sinh lợi ích của nước nhà, để lên mặt mình là  khảng khái”. Trong cuộc đấu tranh cách mạng, chúng ta thường xuyên phải chống lại ba kẻ địch: bọn đế quốc là kẻ địch rất   nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, đạo đức   cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn  sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Quan trọng nhất là đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong  mình. Chống và xây đi liền với nhau. Lấy gương người tốt việc tốt hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những   cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Trong mối quan hệ  giữa chống và xây, cần nhận thức chống cũng nhằm xây, đi liền với xây nhưng xây là   nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. ­ Yêu cầu của Hồ Chí Minh về năng lực của người cán bộ Trên nền tảng đạo đức là gốc, người cán bộ  phải có năng lực lãnh đạo và tổ  chức thực hiện đường lối, chủ  trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Thực chất đó là năng lực tổ chức và động viên quần chủng thực hiện c hính  sách của Đảng và Chính phủ. Muốn động viên, tổ  chức và giáo dục được nhân dân, chiều sâu và gốc rễ  của vấn đề  là   phải nhận thức thật sự khoa học và cách mạng hai chữ “cán bộ” và “lãnh đạo” là gì? Hồ Chí Minh giải thích: “Làm cán   bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi,  học suốt đòi mới thuộc được”1. “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt” 2. Người viết: “Đảng ta là Đảng  lãnh đạo, nghĩa là tất cả  các cán bộ, từ Trung  ương đến khu, đến tình, đến huyện, đến xã, bất kỳ  ở  cấp nào và ngành   nào ­ đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Như vậy, năng lực lãnh đạo của người cán bộ, xét đến cùng, là năng lực phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích vật  chất và tinh thần tốt nhất cho nhân dân. Muốn như vậy thì người cán bộ phải có năng lực học dân chúng, hỏi dân chúng,  hiểu dân chúng. Bởi vì “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân.  Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy   học dân”.  Theo Hồ  Chí Minh, “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề  một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà   những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.
  15. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh Trên nền tảng phẩm chất đạo đức, trí tuệ, trình độ  lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của cán bộ  thể  hiện ở bản lĩnh và phương pháp, phong cách lãnh đạo được biểu hiện cụ thể ở thực hành. Năng lực lãnh đạo thể hiện ở   lãnh đạo đúng. Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? Hồ Chí Minh giải thích: cố nhiên không phải ngồi trong phòng giấy mà viết kế  hoạch, ra mệnh lệnh; không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo đúng có nghĩa là: “1. Phải quyết định mọi vấn đề  một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của   dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chứng giúp sức thì không xong. 3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Hồ Chí Minh đem lại cho ta nhận thức mới mẻ, khoa học về năng lực lãnh đạo. Người phê bình thói lãnh đạo   quan liêu: “Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra   cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”. Toàn bộ  di sản Hồ  Chí Minh cho thấy, điều căn cốt về  năng lực của người cán bộ  không nằm  ở  lý luận mà   nằm  ở  thực tiễn; phải từ trong quần chúng ra, trở  lại nơi quần chúng. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân  chúng, giải thích cho dân chúng. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề  cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết.   “Nghị  quyết gì mà dân chúng cho là không họp thì để họ đề  nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến dân chúng mà sửa chữa cán   bộ và tổ chức của ta”. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần  chủng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. ­ Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách của người cán bộ + Quan niệm của Hồ Chí Minh về phong cách của người cán bộ Phong cách của người cán bộ, người cách mạng có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương pháp  cách mạng. Tư  tưởng, đường lối soi sáng hoạt động của người cán bộ, có ý nghĩa quyết định nhất. Nhưng phải có   phương pháp đúng đắn và khoa học để đưa đường lối vào cuộc sống. Kết quả thực hiện đường lối phụ thuộc vào hoạt  động cụ thể với trình độ, bản lĩnh, khí chất và phong cách từng người. Phong cách của người cán bộ quan hệ chặt chẽ với đạo đức. Chúng ta thường nói đến các phẩm chất đạo đức   như trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô  tư, v.v.. Đó là những phẩm chất đạo đức chung của   con người Việt Nam trong thời đại mới. Nhưng nó lại được thể  hiện một cách cụ  thể  qua phong cách khác nhau của   từng người. Phong cách của cán bộ  là một chính  thể  bắt đầu từ  suy nghĩ (phong cách tư  duy) đến hoạt động thực tiễn   (phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử), và cuối cùng là phong cách trong sinh hoạt đời thường. + Người cán bộ tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh Rèn luyện phong cách tư duy Tu dưỡng theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh là mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng   tạo. Độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ là tự  mình làm chủ suy nghĩ  của minh, làm chủ bản thân và công việc của mình, tự  mình thấy trách nhiệm trước nhân dân. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ  những cái cũ xấu xa, lạc hậu, lỗi thời; những cái cũ đã đúng một thời nhưng nay không phù họp. Tìm tòi cái mới phù họp   với quy luật khách quan, trả lời được những câu hỏi của thực tiễn đặt ra. Cái mới đó không hoàn toàn phủ  định những   giá trị của cái cũ, vượt lên cái cũ, bổ sung thêm những giá trị mới. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh về đổi  mới, sáng tạo: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì   cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho h ợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... cái gì  mới mà hay thì ta phải làm”. Tư duy phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, địa phương, ngành mình, phù họp với những điều kiện lịch sử  cụ   thể. Phải mở rộng tư duy, nghiên cứu mọi tư tưởng, học thuyết. Sinh thời, Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu nhiều tư tưởng,   học thuyết để có sự so sánh, đối chiếu, sàng lọc, tìm ra cái đúng, cái hay, phù họp với dân tộc và thời đại. Cách tư duy đó   đem lại nội dung khoa học và cách mạng trong quá trình hình thành tư tưởng. Hiện nay, cán bộ, đảng viên phải chú trọng   hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng học tập nâng cao trình độ văn hóa, làm giàu trí tuệ của mình bằng những kiến  thức phong phú và sâu rộng. Một đường lối, chính sách đúng chỉ có thể có được khi xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tôn  trọng quy luật khách quan, đáp ứng được khát vọng của lòng dân và phù họp với xu thế của thời đại. Tư  duy độc lập, tự  chủ, sáng tạo đồng nghĩa với một bản lĩnh vững vàng, một tinh thần dũng cảm dám nghĩ   đến những “nghịch lý táo bạo” trên cơ sở nhân cách và tài năng, tự quyết định một cách độc lập thái độ, hành động, quan   điểm của mình không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi chính kiến với tinh thần dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm trước  nhân dân, Tổ  quốc và Đảng. Tư  duy đó tạo cho mỗi cán bộ  có bản sắc riêng, ch ính kiến riêng, xa lạ  với những gì xơ  cứng, giáo điều hoặc theo kiểu “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”, “theo gió bẻ  buồm”, “đập đi, hò đứng”,   không có khí khái. Rèn luyện phong cách làm việc  Tác phong quần chúng. Quần chúng­được hiểu là số  đông. Vì vậy, có nhiều cách tiếp cận về  quần chúng. So với cán bộ, công chức,   những người ăn lương nhà nước thì nhân dân là quần chúng. Trong mối quan hệ với cấp trên thì cấp dưới là quần chúng.   Trong mối quan hệ với cán bộ lãnh đạo, quản lý thì cán bộ, đảng viên thường là quần chúng. So với đảng viên thì những   T r a n g  15 | 19
  16. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy người chưa được đứng vào hàng ngũ của Đảng là quần chúng. Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh xuất phát từ những giá trị  tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.   Lịch sử  hàng ngàn năm dựng nước và giữ  nước của cha ông đã tổng kết: “chở  thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật  thuyền mới biết dân như nước”. Quan điểm của chủ nghĩa Mác­Lênin khẳng định, nhân dân là người làm nên thắng lợi  của lịch sử. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác­Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Hồ Chí Minh là người  sớm đánh giá cao vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân. Theo Người, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong  thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm lần dân liệu   cũng xong. Dân chúng đồng lòng việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Hồ Chí   Minh tổng kết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó   khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chủng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách   giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Theo Hồ Chí Minh,   “nhưng đối với dân ta, đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”. Người khẳng định: “Ý dân là ý trời.   Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh hành động tất   cả vì dân. Người từng nói và thực hiện suốt đ ời một ham muốn tột bậc là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân   ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Còn Người sẵn sàng làm công bộc,   làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân, làm một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, bao   giờ đồng bào cho lui thì rất vui lòng lui. Cán bộ, đảng viên tu dưỡng rèn luyện theo phong cách quần chúng của Hồ  Chí Minh là phải theo đúng đường  lối nhân dân với các nội dung cụ thể sau: Thứ nhất, phải đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên hết. Điều này thể hiện ở chồ việc gì lợi cho dân,   dù nhỏ mấy cũng hết sức làm; việc gì hại cho dân dù nhỏ  mẩy cũng phải tránh. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu suốt  lời dạy của Bác: Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ  chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm  gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Thứ hai, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Hồ Chí Minh là lãnh tụ rất gần gũi, sâu sát nhân dân. Theo một thống kê  chưa đầy đủ, trong 10 năm (1955­1965), Hồ Chí Minh đã có khoảng 700 cuộc đi về các địa phương, xuống với bộ đội,   công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân miền ngược cũng như  miền xuôi. Học Hồ  Chí Minh là cán bộ,  đảng viên phải chịu khó đi về cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Xuống cơ sở không phải theo kiểu “nhiệt liệt   chào mừng đồng chí về  thăm, làm việc” mà phải nắm tình hình, đưa ra được các giải pháp tháo gỡ  khó khăn cho địa   phương, cho các ngành. Phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”, cả  những ý kiến “nghịch”. Thứ ba, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. vấn đề gốc rễ ở đây là cán bộ, đảng viên   phải hiểu “đối ai mà làm? Đối ai phụ trách?”. Hồ Chí Minh nêu vấn đề: “Nếu chúng ta hỏi cán bộ: “Việc đó làm cho ai?   Đối với ai phụ trách?”, chắc số đông cán bộ sẽ trả lời: “Làm cho Chính phủ hoặc Đảng, phụ trách trước cấp trên”. Câu   trả lời đó chỉ đúng một nửa. Nếu chúng ta lại hỏi: “Chính phủ và Đảng vì ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?” thì e   nhiều cán bộ không trả lời được. Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm   và chịu trách nhiệm trước nhân dân”1. Trên cơ sở nhận thức đó, mỗi cán bộ khi gặp công việc phải biết tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu, cả những   việc trực tiếp có lợi cho dân. Cán bộ  không được làm theo cách hạ  lệnh, cưỡng bức, vì như  vậy dân không hiểu, dân  oán. Theo Hồ Chí Minh, dân đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hi sinh mấy họ cũng không sợ. Thứ tư, có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. M ỗi cán  bộ phải hiểu rằng con người không phải thánh thần, có thiện có ác trong lòng. Đã làm việc thì không tránh khỏi khuyết   điểm. Chỉ những kẻ ăn không ngồi rồi thì mới không có khuyết điểm mà thôi. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, chỉ sợ  có khuyết điểm không dám tự phê bình. Dân độ lượng, vị tha và chúng ta làm việc vì dân. Vì vậy có khuyết điểm thì phải  thật thà tự phê bình trước dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Đó là một trong những cách tốt nhất để  làm cho   dân tin. Thứ năm, sẵn sàng học hỏi nhân dân. Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo mà nên hiểu thấu. Mỗi người phải   hiểu rằng sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ  cho sự  lãnh đạo đủng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm   của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho  kinh nghiệm của mình.  Nhân dân là những người trí tuệ, thông minh, tài giỏi. Dân chủng nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy.   Làm theo cách quần chúng là việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng. M ỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một   chính sách phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Không học   hỏi dân chúng thì không lãnh đạo được dân chúng. Có biết làm học trò dân mới làm được thầy học của dân. Mệnh lệnh   hành chính đơn thuần sẽ tạo thành bức tường tách Đảng, Chính phủ với nhân dân. Thứ sáu, chống bệnh quan liêu. Tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách quần chúng Hồ Chí Minh, ở một góc tiếp  cận khác chính là phải “tò trong quần chúng ra, trở  lại nơi quần chúng”. Thực hiện phong cách quần chúng đồng thời   chống cách quan liêu với các biểu hiện xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ  nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu   biết nhân dân, không thương yêu nhân dân. Quan liêu là gốc rễ, cội nguồn đẻ ra tham ô, lãng phí. Làm theo cách quan liêu   là hỏng việc, là thất bại.  Tác phong tập thể ­ dân chủ.
  17. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh Điều có ý nghĩa lớn nhất từ thắng lợi của cách mạng do Đảng lãnh đạo là đưa nhân dân từ  thân phận nô lệ lên   địa vị làm chủ. Nước ta là nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trường, ủy   viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ  cho nhân dân, chứ  không phải là làm quan cách mạng. Đó chính là điểm   xuất phát của việc rèn luyện, tu dưỡng theo phong cách dân chủ Hồ Chí Minh. Phong cách dân chủ có nội dung dân chủ trong Đảng và dân chủ với nhân dân. Về thực hành dân chủ trong Đảng, mỗi cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu cần thực   hiện những nội dung cơ bản sau đây: Thứ  nhất, phát huy sức mạnh trí tuệ  của tập thể. Học tập và làm theo tấm gương Hồ  Chí Minh, mỗi cán bộ  đảng viên phải nhận thức đúng đắn rằng một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể  nhìn khắp được sự  vật, biết   hết mọi việc. “Khôn bầy hơn khôn độc”. Vì vậy phải chú ý phát huy trí tuệ của tập thể, gắn bó với tập thể, tôn trọng   tập thể, đặt mình trong tập thể. Có dân chủ, bàn bạc tập thể  mới cùng thông suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực   hiện, tránh được “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Thứ hai, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Người lãnh đạo phải khuyên cán bộ, đảng viên mạnh bạo, cả  gan nói, cả gan đề ra ý kiến, phê bình. Đó là cách tốt nhất để người lãnh đạo biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình   và tỏ ra thật thà dân chủ trong Đảng. Người lãnh đạo phải hiểu rằng, trong sinh hoạt mà cán bộ không nói năng, không   đề xuất ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có   gì nói, mà vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên   những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản. Để không xảy ra t ình trạng  này, người lãnh đạo không được chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ  quan, mà phải thật sự mở rộng dân chủ để  tất cả   đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình. Thứ  ba, nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ  được giao và tuyệt đối tuân thủ  nguyên tắc tập   trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Về  phát huy quyền làm chủ  của nhân dân. Trên cơ  sở  nhận thức dân chủ  là giá trị  lớn nhất, là chìa khóa vạn  năng có thể giải quyết mọi khó khăn, người cán bộ, đảng viên phải làm cho nhân dân có năng lực làm chủ, biết hưởng   quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Dân  là chủ là nói đến địa vị, vị thế của người dân   trong một nước dân chủ. Dân làm chủ  là nói đến năng lực, bổn phận làm chủ  của người dân. Một điều quan trọng là  phải coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và t ính tích cực của công dân,  khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước, giám sát, phê bình Chính phủ, phê bình lãnh đạo, khắc  phục mọi thứ dân chủ hình thức.  Tác phong khoa học. Mỗi cán bộ phải ý thức được rằng ở những mức độ khác nhau, người Việt Nam đều bị chi phối bởi tư duy tiểu   nông, tác phong làm việc thiếu khoa học. Noi theo tấm gương Hồ Chí Minh, chủng ta phải khắc phục thói quen tự  do,   tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu kế  hoạch, thiếu điều tra nghiên cứu, chậm chạp, lề  mề. Đồng thời phải xây dựng   một tác phong khoa học trong công tác, trong lãnh đạo. Làm việc cần phải đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu, nắm người, nắm việc, nắm tì nh hình cụ  thể. Phải nắm  thông tin và xử  lý thông tin một cách khoa học. Nếu sử dụng bộ máy những người giúp việc thì phải khách quan, t ỉnh  táo. Phải có cách kiểm ữa các báo cáo, nắm chắc vấn đề, tuyệt đối không để lọt những báo cáo dối trá, “phải sáng suốt   mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây”. Trên cơ sở kết quả điều tra, nghiên cứu chính xác, phải nắm chắc và hiểu thấu vấn đề   đi đến kết luận và quyết định vấn đề cho đúng. Làm việc phải có mục đích rõ ràng; chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát họp theo phương châm: “Kế  hoạch   một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi”. Nêu ra mục đích, đặt kế  hoạch không phải cho kêu, cho oai mà để  thực   hiện. Một kế hoạch nhỏ thực hiện tốt còn hơn kế hoạch lớn mà không thực hiện được. Theo tinh thần lời dạy của Lênin, “lãnh đạo mà không kiểm tra, có nghĩa là không lãnh đạo”, cán bộ  lãnh đạo   phải kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới, kiểm  ữa việc thực hi ện các kế  hoạch đề  ra. Việc kiểm tra có ý nghĩa lớn,   giúp người lãnh đạo biết những nghị quyết, chính sách thực hành đến đâu, có khó khăn, trở  ngại gì, dân chúng có ra sức  tham gia hay không. Kiểm tra là một cách để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, nghị quyết cho đúng đắn hơn. Theo lời dạy và tấm gương Hồ Chí Minh, tác phong khoa học đòi hỏi lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải   thiết thực, phải có trọng điểm và có điển hình. Người cán bộ, nhất là lãnh đạo phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân  đi, miệng nói, tay làm”, cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể; phải cẩn thận mà nhanh nhẹn, kịp thời, làm đến nơi, đến  chốn. Phải loại bỏ căn bệnh “hữu danh vô thực”, không từ cái gốc, cái chính, làm qua loa, đại khái, “đầu voi đuôi chuột”,  làm ít xuýt ra nhiều, để làm một cái báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ thì rỗng tuếch. Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm. Theo lời dạy của Hồ Chí Minh, mồi cán bộ phải ý thức sâu sắc rằng  sau mỗi công việc cần phải rút  kinh nghiệm. Kinh nghiệm lãnh đạo, tổ  chức; kinh nghiệm cá nhân, từng địa phương,  ngành. Kinh nghiệm thành công và thất bại. Những kinh nghiệm đó phải được phổ  biến rộng rãi cho tất cả  các bộ, các  địa phương để học những kinh nghiệm hay và tránh những kinh nghiệm dở. + Rèn luyện phong cách diễn đạt Diễn đạt thể hiện ở nói và viết. Hồ Chí Minh nói và viết cho nhiều đối tượng, ngoài nước và trong nước bằng   nhiều ngôn ngữ. Người kết hợp được cái dân gian với cái bác học, cái cổ điển và cái hiện đại, phương Đông và phương   Tây. Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh có sức lôi cuốn lớn đối với tất cả mọi tầng lớp nhân dân. Hiện nay, cán bộ, đảng   T r a n g  17 | 19
  18. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh ­­­­­­­­­­­­­­­­­­Đinh Huy viên cần phải học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về cách diễn đạt trên những khía cạnh chủ yếu sau. Phải xác định rõ chủ đề, đối tượng, mục đích của việc nói và viết, từ  đó tìm ra cách nói, cách viết phù hợp với   đối tượng, rõ chủ đề và đạt mục đích đề  ra. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng, phải nắm được nội dung, tức là viết, nói cái   gì? Phải nắm được đối tượng, tức là viết, nói cho ai? Phải nắm vững mục đích, tức là nói, viết để  làm gì? Phải nắm  được phương pháp, tức là nói, viết như thế nào? Viết và nói phải chân thực, không nên nói ẩu, không được bịa ra. Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ,   chớ nói, chớ viết. Điều gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết. Viết và nói đúng sự thật tức là nói cả những sai  lầm khuyết điểm. Công khai thừa nhận và sửa chữa sai lầm khuyết điểm càng làm cho uy tín của người lãnh đạo tăng   lên và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Viết, nói ngắn gọn không có nghĩa là cụt, mà phải có đầu, có đuôi, có nội dung, thiết thực, thấm thìa, chắc   chắn. Ngắn gọn nhưng phải cô đọng, hàm súc, mồi câu, mỗi chữ có mục đích, có ý nghĩa. Một cách viết và nói phải đạt  được tối đa về  ý tối thiểu về  lời, những vấn đề  phức tạp cần được chuyển tải bằng những lời lẽ  ngắn gọn, rõ ràng.   Viết và nói ngắn gọn đi liền với chống thói ba hoa, viết nói vừa dài vừa rỗng. Tuy nhiên không nên máy móc. Chống thói   rỗng tuếch, đã rỗng lại dài nhưng như thế không có nghĩa cứ  ngắn mới tốt. Dài ngắn còn tùy thuộc vào nội dung, thời   gian, đối tượng. Điều quan trọng là phải làm rõ được vấn đề, đi thẳng vào vấn đề, những điều mà quần chúng đang   quan tâm. Diễn đạt phải trong sáng, giản dị, dễ  hiểu, dễ  nhớ  và dễ  làm. Tuyên truyền quần chúng là phải học cách nói  của quần chúng theo tinh thần câu tục ngữ “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Học cách nói của quần chúng là phải tùy   đối tượng mà dùng chữ, dùng lời cho hợp, để  người nghe, người đọc có thể  hiểu được, được quần chúng chấp nhận.   Muốn vậy, phải tránh lạm dụng chữ nước ngoài và tránh bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ. + Rèn luyện phong cách ứng xử Hồ Chí Minh có cách ứng xử ở tầm nghệ thuật, gần như hoàn thiện. Phong cách ứng xử tuy thể hiện bằng ngôn   ngữ, cử chỉ, thái độ, phong thái, phong độ, nhưng nó chính là bắt nguồn từ nhân cách, từ  cuộc đời của chủ  thể  đối với   đối tượng và của chủ thể đối với bản thân mình trong quan hệ với đối tượng. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh rất độc   đáo, chứa đựng cả  giá trị  của dân tộc, Đông phương và Tây phương, được nhiều nhà khoa học đánh giá, ca ngợi đó là  kiểu  ứng xử  văn hóa, có lý, có tình, hài hòa, nhuần nhị. Hồ  Chí Minh am tường năm cái biết trong  ứng xử  của người   phương Đông: Tri kỷ (biết mình), tri bỉ (biết người), tri thời (biết thời thế), tri túc (biết chừng mực), tri biến (biết biến  đổi ­ dĩ bất biến ứng vạn biến). Hiện nay, tu dưỡng theo phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải chú ý ứng xử với các đối  tượng khác nhau, trước hết và quan trọng nhất là với các tầng lớp nhân dân. Đối với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em,   Hồ  Chí Minh có cách ứng xử  rất tự  nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ  động, linh hoạt, vừa ân cần tế  nhị. Một   điều rất cần thiết với cán bộ chủng ta hiện nay là phải chân thực, luôn luôn xem mình là người bình thường. Đó chính là   thái độ nhân văn, thương yêu, quý trọng, quý mến con người. Học Hồ Chí Minh trong cách ứng xử với nhân dân là phải có thái độ ân cần, niềm nở, vừa thân ái vừa nhiệt tình,   thể hiện tấm lòng độ lượng, khoan dung nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, vùi dập con người. Đặc biệt, đối   với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, tuyệt đối không được dùng sức mạnh của quyền lực trong ứng xử với quần chúng  nhân dân. “Thánh nhân cao hơn thiên hạ vì biết đứng sau thiên hạ” là vì vậy. Nó làm cho Người càng được quần chúng  tín nhiệm bởi vì đó là phong cách vừa hiểm có vừa rất đáng tin. Bài học lớn của Hồ Chí Minh là mặc dù đứng ở đỉnh cao   của quyền lực 24 năm trời, nhưng chưa bao giờ Người  ứng xử với nhân dân, với cấp dưới, với những người phục vụ  như một người có quyền. Ngược lại, Người ứng xử như một người bạn, một người lính phục vụ  Tổ  quốc, một người   công bộc phục vụ nhân dân. Trong  ứng xử  cần có thái độ  khiêm nhường, khiêm nhường thật sự. Đó là một phẩm chất văn hóa và càng có   văn hóa càng phải khiêm nhường. Câu chuyện Bác Hồ xưng cháu với cụ Phụng Lục, một phụ lão cứu quốc ở huyện ứng   Hòa (5­1948) được coi là một thái độ khiêm nhường “vô tiền khoáng hậu”.  Ứng xử phải rất tế nhị, nhất là đối với các nhân sĩ, trí thức. Câu chuyện Bác tặng bốn câu thơ cho Nguyễn Sơn   năm 1948 khi được phong quân hàm thiếu tướng mà Nguyễn Sơn tỏ ý không bằng lòng là một bài học lớn về sự tinh tế,   chứa đựng một nhân cách lớn. + Rèn luyện phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh là một con người bình thường nhưng rất vĩ đại, vĩ đại từ  những chuyện bình thường. Những câu   chuyện trong cuộc sống riêng,  trong phong cách sinh hoạt hàng ngày của Người đã trở  nên huyền thoại ngay khi còn  sống. Nó không chỉ có ý nghĩa đem lại giá trị lớn trong cách sinh hoạt cho mỗi cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay,   mà còn đem lại một cách xem xét mới, đó là người ta không thể chỉ vĩ đại ở những việc lớn mà còn phải vĩ đại ở những  việc nhỏ trong cuộc sống hàng ngày. Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh thể hiện triết lý nhân sinh lấy khiêm tốn giản dị  làm nền, lấy chừng mực điều độ làm chuẩn, lấy trong sạch thanh cao làm vui, lấy gắn bó với con người, vói thiên nhiên   làm niềm say mê vô tận. Noi theo tấm gương Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng, rèn luyện phong cách  trong sinh hoạt  từ cái ăn, cái mặc đến sử dụng trang thiết bị vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày trong đi lại, ở phòng làm việc. Ở đây đòi  hỏi một sự trọn vẹn và toàn vẹn đến tận cuối đời. Không theo chủ  nghĩa khắc kỷ hay “an bần lạc đạo” mà phải phấn   đấu cho tự do, hạnh phúc trong một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, dân giàu, nước m anh. Chính Hồ Chí  Minh đã nói rằng: Người chỉ có một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn  
  19. Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Cả đời Người chỉ có một mục đích là: phấn đấu cho   quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Từ di sản dân tộc, Người dạy “con hơn cha là nhà có phúc”, nhưng  khi dân ta còn nghèo, đất nước còn nhiều khó khăn, còn nhiều thân phận khổ  đau thì mỗi cán bộ, đảng viên phải tự  ý  thức sống khiêm tốn, chất phác, đời tư  trong sáng, nếp sống riêng giản dị. Hồ  Chí Minh khuyên cán bộ, đảng viên “ít   lòng tham muốn về  vật chất” nhưng lại ham học, ham làm, ham tiến bộ. Người nói: ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp,   nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Phải noi gương Bác thực hiện cách sống chừng mực, điều độ, ngăn   nắp, yêu lao động, quý trọng thời gian, không có ham muốn danh lợi cho riêng mình. Học Bác rèn luyện một đời sống  riêng thanh đạm, thanh cao, chan chứa tình yêu thương con người, gắn bó với tình yêu thiên nhiên, luôn luôn tin tưởng,   lạc quan, yêu đời. Trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt cho mình một kỷ  luật chặt chẽ, giữ  nếp trật tự,   ngăn nắp, gọn gàng, chú ý rèn luyện sức khỏe, sắp xếp thời gian tiến hành mọi việc thật họp lý và có hiệu quả nhất. Những việc cá nhân  trong sinh hoạt hàng ngày, Bác tự  làm là chính, không muốn làm phiền người khác khi  không cần thiết. Đó là tấm gương lớn cho cán bộ nói chung, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hiện nay. Một khi cán bộ  không chú ý rèn luyện đời sống hàng ngày theo tấm gương Lênin ­ Hồ Chí Minh: coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao   động, đời tư  trong sáng, nếp sống giản dị, mà lại say sưa chạy theo danh lợi, quyền lực thì sớm muộn sẽ  làm cho con   người hư hỏng, biển chất. ­ Ý nghĩa đối với cuộc sống hôm nay: Tư tưởng HCM về cán bộ mãi mãi là bài học tư tưởng sâu sắc đối với mỗi một cán bộ, đảng viên và đối với công   tác cán bộ cũng như đối với công tác xây dựng chính quyền cách mạng trong thời kỳ đổi mới đất nước. + Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương thật đúng đắn về việc xây dựng, bồi dưỡng cán bộ. + Các cấp ủy Đảng cần coi đây là bài học thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. + Mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần đạo đức cách mạng, nỗ lực xây dựng tài năng, tác phong và phong cách   làm việc, xứng đáng là những tấm gương mẫu mực để  quần chúng nói theo, góp phần vào công cuộc kiến thiết đất   nước... ________________________ T r a n g  19 | 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2