intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên trong mô hình đào tạo tín chỉ

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:56

1.411
lượt xem
250
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài "Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên trong mô hình đào tạo tín chỉ" là: Nghiên cứu lý luận về vấn đề tự học và khảo sát thực trạng tự học của sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Nông Lâm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên trong mô hình đào tạo tín chỉ

  1. ĐỀ TÀI : NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ TỰ HỌC 1
  2. MỤC LỤC Trang Ký hiệu và viết tắt ……………………………………………………………..         2 Lời nói đầu…………………………………………………………………...…       Phần I. Mở đầu                       2 Phần II. Cơ sở lý luận.                                                                                                 2.1. Một số khái niệm trong đề tài ………………………………………… 3 2.2. Cơ sở lý luận về vấn đề tự học …………………………………………..            5 2.2.1. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề tự học……………………………………….      5   2.2.1.1. Vấn đề tự học trên thế giới……………………………………………….      5 2.2.1.2. Vấn đề tự học ở Việt Nam……………………………………………….       6 2.2.2. Các quan niệm về vấn đề tự học………………………………………….         7 2.2.3. Một số đặc điểm của hoạt động tự học trong phương thức đào tạo tín chỉ          8 2.2.4.  Định nghĩa, nguyên tắc, điều kiện và cách tự học .........................................    9 2.2.5. Đặc điểm tự học ở trường Đại học.                                                                     11 Phần III. Nội dung và phương pháp nghiên cứu. 3.1. Nội dung nghiên cứu……………………………………………………….         12 3.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………..          12 Phần IV. Kết quả nghiên cứu.             4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học của sinh viên ………………..           13 2
  3. 4.2. Thực trạng vấn đề tự học của sinh viên………………………………….             16 4.2.1. Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học……………………………… 4.2.2. Các hình thức tự học của sinh viên ……………………………………. 4.2.3. Những khó khăn trong quá trình tự học ………………………………. 4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tự học ……………………………………. 4.3.1. Về phía giảng viên ……………………………………………………. 4.3.2. Về phía sinh viên ………………………………………………………. 4.3.3. Các điều kiện phục vụ tự học khác. ……………………………………. Phần v. Kết luận – Tồn tại và đề nghị. 5.1. Kết luận. …………………………………………………………………. 5.2. Tồn tại. …………………………………………………………………… 5.3. Đề nghị. ………………………………………………………………… Phần phụ lục Phụ lục 1. Mẫu phiếu điều tra về tình hình nhận thức của sinh viên. Phụ lục 2. Kết quả khảo sát qua phiếu điều tra. Các tài liệu tham khảo 3
  4. Kí hiệu và viết tắt CNSH …………………………………………   Công nghệ sinh học GS.TSKH………………………………………  Giáo sư, Tiến sĩ khoa học KHCNMT ……………………………………… Khoa học Công nghệ môi trường PGS.TS ………………………………………… Phó giáo sư, Tiến sĩ SGK …………………………………………….Sách giáo khoa SPKT …………………………………………..  Sư phạm kĩ thuật Th.S ……………………………………………. Thạc sĩ TY ……………………………………………… Thú y 4
  5. LỜI NÓI ĐẦU              Đào tạo theo học chế  tín chỉ  là phương thức đào tạo tiên tiến trên thế  giới.   Chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế  sang học chế tín chỉ  là bước chuyển tất   yếu khách quan của hệ thống giáo dục đào tạo đại học của Việt Nam theo xu thế hội  nhập khu vực và quốc tế. Ngày 15 tháng 8 năm 2007, Bộ  trưởng Bộ Giáo dục và Đào   tạo đã ra quyết định số 43/2007/QĐ­BGD&ĐT về việc ban hành “Quy chế đào tạo đại  học và cao đẳng hệ  chính quy theo hệ  thống tín chỉ”.  Bản chất của phương pháp đào  tạo này là phát huy tính tích cực chủ động của sinh viên trong đó tự học là yếu tố quyết   định đến kết quả  học tập của sinh viên theo học chế  tín chỉ. Tự  học là hình thức học  tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Tổ chức   hoạt động tự  học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả  là trách nhiệm   không chỉ ở người học mà còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường. Đề tài nghiên cứu   tập trung tìm hiểu về nhận thức cũng như các khó khăn gặp phải của sinh viên trường   Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trong quá trình tự hoc theo học chế tín chỉ, từ đó đề ra   các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả  của việc tự  học cho sinh viên theo   học chế tín chỉ. PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một mô hình còn khá   mới mẻ  với Việt Nam. Trước mắt nó đang là một thách thức lớn đòi hỏi các trường   Đại học Việt Nam nói chung và trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nói riêng phải  vượt qua, thách thức trước hết  ở  yêu cầu ngày càng cao của xã hội, sức  ỳ  của thói  5
  6. quen, trong khi các phương tiện và thiết bị hỗ trợ học tập còn hạn chế. Hơn nữa, với   sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm thứ  nhất khi còn chưa quen với môi trường sống  cũng  như cách giảng dạy ở trường Đại học ­ một môi trường khác hoàn toàn với môi  trường  ở  phổ  thông của các em thì việc làm quen với mô hình này lại càng khó khăn   hơn. Một số sinh viên còn chưa ý thức cũng như chưa xác định được rõ ràng con đường  đi của mình, chưa có một phương pháp học hợp lý, trong khi yêu cầu về tính chủ động   trong học tập là rất cao. Để nắm bắt toàn diện những kiến thức chuyên môn ở bậc Đại  học đòi hỏi sinh viên phải có nhiều nỗ lực trong hoạt động học tập, đặc biệt phải dành  nhiều thời gian cho việc tự học và tự nghiên cứu và cần có một phương pháp học đúng  đắn, phù hợp và hiệu quả. Trong đó phương pháp tự học đóng một vai trò vô cũng quan   trọng. Tự học có vai trò ý nghĩa rất lớn, không chỉ trong giáo dục nhà trường mà cả trong cuộc  sống. Trong nhà trường bản chất của sự học là tự học, cốt lõi của dạy học là dạy việc   học, kết quả của người học tỉ lệ thuận với năng lực tự học của người học. Ngoài việc  nâng cao kết quả học tập, tự học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện khả  năng  hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi người, trên cơ sở đó tạo điều kiện và cơ hội học   tập suốt đời.  Tự học là nhu cầu, một năng lực cần có của mọi người trong thời đại ngày nay, do đó  mục tiêu quan trọng nhất của nhà trường không phải trang bị cho người học tri thức mà  là phương pháp tự học.  Trên thực tế hiện nay, hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái  Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó nhiều sinh viên chưa dành nhiều thời gian cho   việc tự học, chưa xây dựng và rèn luyện kỹ năng tự học cho bản thân, hình thức tự học   chưa hợp lý… Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề  tự học của sinh viên trường Đại  học Nông Lâm Thái Nguyên hiện nay và đề  xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu   quả  của hoạt động tự  học của sinh viên góp phần nâng cao kết quả  học tập và chất  6
  7. lượng đào tạo là có tính cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài:   “Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên trong mô hình đào   tạo tín chỉ” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận về  vấn đề  tự  học và khảo sát thực   trạng tự học của sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trong phương thức   đào tạo theo học chế tín chỉ, trên cơ  sở  đó đề  xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tự  học của sinh viên trường Đại học Nông Lâm. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tự  học của sinh viên trường Đại học Nông  Lâm Thái Nguyên. 1.4. Giả thiết nghiên cứu: Sinh viên trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên có nhận  thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tự học trong phương thức đào tạo theo học  chế  tín chỉ  nhưng chưa có kĩ năng, phương pháp tự  học hiệu quả. Nếu áp dụng các  phương pháp nhằm nâng cao kĩ năng tự học, sinh viên có thể tích cực, chủ động tự học   hiệu quả và đạt kết quả cao. 1.5. Phạm vi nghiên cứu: Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 1.6. Đóng góp của đề tài. 1.6.1. Ý nghĩa lý luận: Bổ  sung them cơ  sở  lý luận và thực tiễn của vấn đề  tự  học   trong học tập nói chung và trong đào tạo theo tín chỉ nói riêng. 1.6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Làm rõ thêm thực trạng vấn đề  tự học của sinh viên trường   Đại học Nông Lâm Thái Nguyên hiện nay và khả  năng thích  ứng với yêu cầu tự  học  trong đào tạo theo học chế tín chỉ từ đó xây dựng được phương pháp tự học hiệu quả  cho sinh viên trong mô hình đào tạo theo tín chỉ. PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Một số khái niệm trong đề tài 7
  8. ­ Seminar có thể hiểu đơn giản là một hình thức học tập, mà trong đó người học chủ  động hoàn toàn tư  khâu chuẩn bị tài liêu, trình bày nội dung đưa dẫn chứng, trao đổi ,  thảo luận với các thành viên khác và cuối cung tự  rút ra nội dung bài học hay vấn đề  khoa học cũng như đề xuất các ý kiến để mở rộng nội dung.  ­ Mind mapping (Bản đồ  tâm trí) là một sơ  đồ được sử  dụng để  phác thảo thông tin  trực quan. Một bản đồ  tâm trí thường được tạo ra xung quanh một từ  hoặc một văn  bản, đặt ở trung tâm, mà những ý tưởng, lời nói và các khái niệm liên quan được thêm  vào. Từ  khóa, hoặc ý chính được tỏa ra từ một nút trung tâm, các ý phụ  sẽ  được phát   triển và trở  thành nhánh nhỏ  của các ý chính và thể  hiện những vấn đề  cần chú ý và  ghi nhớ của ý chính (nhiệm vụ, yêu cầu, ý nghĩa...). Mindmaps (tức mind mapping) có thể  được vẽ  bằng tay, hoặc như  là "ghi chú thô"  trong một bài giảng hay hội họp, hoặc có thể sử dụng chất lượng hình ảnh cao hơn khi  có nhiều thời gian hơn. ­ SQR3 (Survey Question Read Recite Review) là một kĩ thuật vô cùng hữu ích cho việc  tiếp thu đầy đủ thông tin trong văn bản. Nó giúp bạn hình thành một dàn ý thích hợp để  bạn có thể sắp xếp các dữ liệu vào đó một cách chính xác, giúp bạn thiết lập được các   mục tiêu nghiên cứu, học tập của mình. SQR3 còn nhắc nhở  bạn dung các kĩ thuật  duyệt lại nhằm khắc sâu kiến thức vào tâm trí của bạn. Sử  dụng SQR3 sẽ  giúp bạn  đọc tài liệu hiệu quả hơn, bạn có thể tận dụng được tối đa hiệu quả từ thời gian học   của mình 2.2. Cơ sở lý luận về vấn đề tự học 2.2.1. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề tự học: 2.2.1.1. Vấn đề tự học trên thế giới. 8
  9. Tự  học đã được con người thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi GD chưa trở thành một  nghành khoa học thực sự. Ở thời kỳ đó, người ta đã biết quan tâm đến việc làm sao cho   người học chăm chỉ, tích cực ghi nhớ  được những giáo huấn của thầy và hành động  theo những điều ghi nhớ đó. Montaigne từng khuyên rằng:  “Tốt hơn là ông thầy để  cho học trò tự  học, tự  đi lên   phía trước, nhận xét bước đi của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp   với sức học của trò”. Từ thế kỷ XVII, các nhà giáo dục như: J.A Comensky (1592­1670); G.Brousseau (1712­ 1778); J.H. Pestalozzi (1746­1872); A.Disterweg (1790­1866) trong các công trình nghiên  cứu của mình đều rất quan tâm đến sự phát triển trí tuệ tính tích cực, độc lập, sáng tạo   của học sinh và nhấn mạnh phải khuyến khích người đọc giành lấy trí thức bằng con   đường tự khám phá, tìm tòi và suy nghĩ trong quá trình học tập. Vào những năm đầu của thế  kỷ  XX, trên cơ  sở  phát triển mạnh mẽ  của tâm lý học  hành vi, tâm lý học phát sinh, nhiều Phương pháp dạy học mới ra đời: “phương pháp  lạc quan”,” phương pháp trọng tâm tri thức”, “phương pháp montessori”…Các phương   pháp dạy học này đã khẳng định vai trò quyết định của học sinh trong học tập nhưng   quá coi trọng “con người cá thể” nên đã hạ thấp vai trò của người giáo viên đồng thời   phức tạp hóa quá trình dạy học. Mặt khác, những phương pháp này đòi hỏi các điều  kiện rất cao kể cả từ phía người học lẫn các điều kiện giảng dạy nên khó có thể triển   khai rộng rãi được. Từ  giữa những năm 1970 đã có sách hay bài viết về  vấn đề  này   (Benn, S. I. viết bài “Freedom, Autonomy and the  Concept  of  the  Person”  năm  1976;   Holec  H.  viết   quyển   “Autonomy  in  Foreign   Language Learning” năm 1981, NXB   Oxford) Sau chiến tranh thế giới thứ II, bên cạnh sự tiến bộ rất nhanh của các nghành khoa học  cơ bản, khoa học giáo dục cũng có nhiều tiến bộ đáng kể. Một trong những tiến bộ đó   là: sự  xích lại gần nhau hơn giữa dạy học truyền thống (Giáo viên là nơi phát động  9
  10. thông tin, học sinh là nơi tiếp nhận thông qua diễn giảng trên lớp) và các quan điểm   dạy học hiện đại (học sinh là chủ thể tích cực, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn). Các nhà giáo dục học ở Mỹ và Tây Âu ở thời kỳ này đã đều thống nhất khẳng định vai   trò của người học trong quá trình dạy học, song bên cạnh đó cũng khẳng định vai trò   rất quan trọng của người thầy và các PP, phương tiện dạy học. Khái niệm người học trong giai đoạn này cũng không còn được quan niệm cá thể  hóa  cực đoan như trước đây, tuy nó vẫn được chú ý. Theo J.Dewey: “  học sinh là mặt trời,   xung quanh nó quy tụ  mọi phương tiện giáo dục”. Tư  tưởng “lấy học sinh làm trung   tâm” đã được cụ thể hóa thành nhiều phương pháp cụ thể như: “Phương pháp hợp tác”  (cooperative methods), “phương pháp tích cực” (active methods), “Phương pháp cá thể  hóa”, “Phương pháp nêu vấn đề”, … trong đó “Phương pháp tích cực” được nghiên cứu  triển khai rộng hơn cả. Theo phương pháp này, giáo viên đóng vai trò gợi sự chú ý kích   thích, thúc đẩy học sinh tự hoạt động. Vì thế, người học đóng vai trò trung tâm của quá  trình dạy học, còn người dạy là chuyên gia của việc học. Nhìn chung tư  tưởng “lấy  học sinh là trung tâm trong quá trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung đòi hỏi có  sự phối hợp của nhiều phương pháp, trong đó “phương pháp tích cực” là chủ đạo mang   tính nguyên tắc. Đây chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp bồi dưỡng năng lực tự  học cho học sinh, sinh viên. Đồng tình với quan điểm trên, các nhà giáo dục Xô Viết đã khẳng định vai trò tiềm  năng to lớn của hoạt động tự  học trong giáo dục nhà trường. Đặc biệt, nhiều tác giả  còn nghiên cứu sâu sắc cách thức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của người   học , trong đó nêu lên những biện pháp tổ chức hoạt động độc lập nhận thức của học   sinh trong quá trình dạy học. 2.2.1.2. Vấn đề tự học ở Việt Nam Vấn đề tự  học ở Việt Nam cũng được chú ý từ lâu. Ngay từ thời kỳ phong kiến, giáo  dục chưa phát triển nhưng đất nước vẫn có nhiều nhân tài kiệt xuất. Những nhân tài  10
  11. đó, bên cạnh yếu tố được những ông đồ tài giỏi dạy dỗ, thì yếu tố quyết định đều là tự  học của bản thân. Cũng chính vì vậy mà người ta coi trọng việc tự học, nêu cao những   tấm gương tự  học thành tài. Nhưng nhìn chung, lối giáo dục còn rất hạn chế  “người   học tìm thấy sự bắt chước, đúng mà không cần độc đáo, người học học thuộc lòng …” Đến thời kỳ  thực dân Pháp đô hộ, mặc dù nền giáo dục Âu Mỹ  rất phát triển nhưng   nền giáo dục nước ta vẫn chậm đổi mới. Vấn đề  tự  học không được nghiên cứu và  phổ biến, song thực tiễn lại xuất hiện nhu cầu tự học r ất cao trong nhi ều t ầng l ớp xã   hội. Vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền giáo  dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng vừa   nêu tấm gương về tinh thần và phương pháp dạy học. Người từng nói: “còn sống thì   còn phải học”, và cho rằng: “về cách học phải lấy tự học làm cốt”. Có thể nói tự học  là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, về phương pháp học tập. Những lời chỉ dẫn quý  báu và những bài học kinh ngiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm gương tự  học bền bỉ và  thành công của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng về tự học đã được nhiều tác giả  trình bày  trực tiếp và gián tiếp trong các công trình tâm lý học, giáo dục học học, phương pháp  dạy học bộ  môn. Một số  công trình tiêu biểu là: Nguyễn Cảnh Toàn (Nguyễn Cảnh   Toàn (1995), luận bàn và kinh nghiệm về  tự  học), Trần Kiều, Nguyễn Bá Kim, Thái  Duy Tuyên, Bùi Văn Nghị,… GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn là một tấm gương sáng về  tự  học  ở  nước ta. Từ  một  giáo viên trung học (1947), chỉ bằng con đường tự học, tự nghiên cứu ông đã trở thành   nhà toán học nổi tiếng. Không chỉ nghiên cứu khoa học cơ bản, ông còn có nhiều công   trình, bài viết về  khoa học giáo dục, về  vấn đề  tự  học. Ông cho rằng: “Học bao giờ  cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách của mình. Người dạy giỏi là   người dạy cho học sinh biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự giáo dục”. 11
  12. Các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường đã khẳng định:   Năng lực tự học của trò dù còn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định sự phát triển   của bản thân người học. Thầy là ngoại lực, là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn   cho trò tự học. Nói cách khác quá trình tự học, tự nghiên cứu cá nhân hóa việc học của   trò phải kết hợp với việc dạy của thầy và quá trình hợp tác của bạn trong cộng đồng   lớp học, tức là quá trình xã hội hóa việc học. Bước vào thời kì đổi mới hiện nay, việc tự học nói chung, và vấn đề  tự  học của sinh   viên nói riêng ngày càng được quan tâm và nghiên cứu vì vai trò quan trọng của tự học  trong quá trình dạy và học theo hướng đổi mới lấy người học là trung tâm. Chúng ta có   thể tham khảo bài viết của Nguyễn Nghĩa Dán “Vì   năng lực tự học sáng tạo của học  sinh” (Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số  2/1998); hay Giáo  sư   Cao  Xuân  Hạo  đã   có   những  phân  tích thấu  đáo  và  ý   kiến  sâu   sắc   trong  bài  “Bàn   về chuyện tự  học” (Kiến thức ngày nay, số 396, năm 2001). Và giáo viên ở các trường đại học cũng   có những nghiên cứu để  giúp dần đưa việc tự  học thành một hoạt động không thể  thiếu trong quá trình dạy và học hiện nay. (Diệp Thị  Thanh, trường Đại học Ngoại   ngữ, Đại học Đà Nẵng với bài “Phương pháp Tự  học – Cầu nối giữa học tập và  Nghiên cứu Khoa học”) Tự học là vấn đề quan trọng và cần thiết hiện nay đối với sinh  viên.  2.2.2. Các quan niệm về vấn đề tự học Hồ  Chí Minh là một tấm gương sáng về  tự  học. Quan niệm về  tự  học, Người cho   rằng: “Tự học là cách học tự động” và “phải biết tự động học tập”. Theo Người: “tự  động học tập” tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở,   không chờ  ai giao nhiệm vụ  mà tự  mình chủ  động vạch kế  hoạch học tập cho mình,  rồi tự  mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự  giác, tự  mình làm chủ  thời   gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình”. 12
  13. Trong quyển Học và dạy cách học, GS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng:  “Tự  học là tự   mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm   chất khác của người học, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan thế giới quan để chiếm   lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính mình”. Theo Nguyễn Kỳ  cho rằng:  “Tự  học là đặt mình vào tình huống học, vào vị  trí của   người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra: nhận biết vấn   đề xử lý thông tin, tái hiện kiến thức, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử  lý   tình huống…”.A GS – TSKH Thái Duy Tuyên khẳng định: “Tự học là môt hoạt động độc lập chiếm lĩnh   tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự  mình động não, suy nghĩ, sử  dụng các năng lực trí tuệ   (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để   chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử xã hội   của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học” (Chuyên đề  Dạy   tự  học cho sinh viên trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại   học) Tóm lại, tổng hợp các quan niệm về tự học của các tác giả có thể đưa ra khái niệm về  tự  học như  sau: “Tự  học là tự  mình động não suy nghĩ, sử  dụng các khả  năng trí tuệ   (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả  cơ  bắp (sử  dụng các công cụ   thực hành), cùng các phẩm chất của cá nhân như: động cơ, tình cảm, nhân sinh quan,   thế giới quan (trung thực, không ngại khó, có ý trí, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa   học, ...) để  chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó   thành sở hữu của riêng mình”.a 2.2.3. Một số đặc điểm của hoạt động tự học trong phương thức đào tạo tín chỉ.            Có thể khẳng định rằng: hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động không  thể  thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình học tập  ở  bậc đại   học. Tuy nhiên, trong các phương thức đào tạo khác nhau, hoạt động này lại có những   13
  14. nét đặc thù riêng. Sự  khác biệt giữa hoạt động tự  học trong học chế  niên chế  so với   học chế tín chỉ được thể hiện ở một số điểm sau:  Trước  hết, trong phương   thức   đào  tạo theo  niên chế, sinh  viên  tuân thủ  theo  một  chương trình do nhà trường định sẵn của từng học kỳ, từng năm học, từng khóa học   căn cứ vào thời khóa biểu. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, kế hoạch   học tập cụ  thể  phụ  thuộc vào chính bản thân người học. Sinh viên có nhiệm vụ  và   quyền được lựa chọn môn học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp   với điều kiện của mình. Phương thức này tạo cho sinh viên năng lực chủ  động trong  việc lập kế  hoạch học tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện, biện pháp để  thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập đó. Khi đó người sinh viên phải ý   thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất.  Thứ  hai, hình thức tổ  chức dạy học trong phương thức tín chỉ  qui định hoạt động tự  học của sinh viên như  là một thành phần bắt buộc trong thời khóa biểu và là một nội   dung quan trọng của đánh giá kết quả học tập. Hoạt động dạy ­ học theo tín chỉ được  tổ chức theo ba hình thức: lên lớp, thực hành và tự học. Trong ba hình thức tổ chức dạy  học này, hai hình thức đầu được tổ  chức có sự  tiếp xúc trực tiếp giữa giảng viên và   sinh viên (giảng viên giảng bài, hướng dẫn; sinh viên nghe giảng, thực hành, thực tập  dưới sự  hướng dẫn của giảng viên,..), hình thức thứ  ba có thể  không có sự  tiếp xúc  trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên (giảng viên giao nội dung để sinh viên tự học, tự  nghiên cứu, tự thực hành và sẵn sàng tư  vấn khi được yêu cầu). Ba hình thức tổ  chức  dạy học tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và  giờ tín chỉ tự học.  Hình thức tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ Lý thuyết Tự học Tổng 14
  15. Thực   hành,  Chuẩn bị Tự   nghiên  thí   nghiệm,  cứu thảo luận Giờ Lý thuyết 1 2 3 Giờ Thực hành 2 1 3 Giờ Tự học 3 3 Tùy thuộc tính chất đặc thù của từng môn học (mục tiêu, nội dung môn học) mà có các  hình thức tổ chức dạy ­ học khác nhau. Có những môn học chỉ có một kiểu giờ tín chỉ,   nhưng có những môn học có hai hoặc cả  ba kiểu giờ  tín chỉ. Trong mọi trường hợp,   công thức tính cho mỗi môn học là không đổi:1+0+2 (môn học thuần lý thuyết); 0+2+1  (môn   học   thuần   thực   hành);   0+0+3   (môn   học   thuần   tự   học).           Cách tổ chức thực hiện một giờ tín chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm rất quan   trọng góp phần tạo nên sự khác biệt với phương thức đào tạo truyền thống. Nếu hoạt   động tự học trong học chế niên chế chỉ mang tính chất tự nguyện thì phương thức đào   tạo theo học chế  tín chỉ  coi tự  học là một thành phần hợp pháp và bắt buộc phải có   trong hoạt động học tập của sinh viên. Để  học được 1 giờ  lý thuyết hay 2 giờ  thực   hành, thực tập trên lớp sinh viên cần phải có 2 hay 1 giờ chuẩn bị ở nhà. Đó là yêu cầu   bắt   buộc   trong   cơ   cấu   giờ   học   của   sinh   viên.   Thứ ba, nội dung một bài giảng trong hệ thống tín chỉ thường gồm 3 thành phần chính:  ­   Phần   nội   dung   bắt   buộc   phải   biết   (N1)   được   giảng   trực   tiếp   trên   lớp.   ­ Phần nội dung nên biết (N2) có thể không được giảng trực tiếp trên lớp mà giáo viên  có   trách   nhiệm   hướng   dẫn   cụ   thể   sinh   viên   tự   học,   tự   nghiên   cứu   ở   ngoài   lớp.   ­ Phần nội dung có thể biết (N3) dành riêng cho tự học, chuẩn bị bài, làm bài tập, thảo  luận   nhóm,   làm   thí   nghiệm…  và   các   hoạt  động  khác   có   liên  quan   đến   môn  học.   15
  16.         Như vây, kiến thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những tìm tòi của   người học dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên. Nếu sinh viên không tự học thì  họ  mới chỉ  lĩnh hội được 1/3 khối lượng kiến thức của môn học và như  vậy đồng  nghĩa   với   việc   họ   không   đạt   được   yêu   cầu   của   môn   học   đó.   Ngoài ra, một điểm rất quan trọng, khác biệt với học chế niên chế là trong học chế tín  chỉ, hoạt động tự học được kiểm tra, đánh giá thường xuyên thông qua các bài kiểm tra,  bài   tập,   các   buổi   thảo   luận   …trong   suốt   cả   quá   trình   học.   Qua các phân tích trên đây, rõ ràng rằng trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hoạt  động tự học của sinh viên trở thành hoạt động bắt buộc với các chế tài cụ thể qui định   cho hình thức học tập này. 2.2.4.  Định nghĩa, nguyên tắc, điều kiện và cách tự học     2.2.4.1. Định nghĩa tự học. Tuy  đã được  nghiên cứu từ  lâu và rất nhiều trên thế  giới nhưng ‘tự  học’ (learner  autonomy) lại là một thuật ngữ gây nhiều tranh luận, và đôi khi các nhà giáo dục học và  ngôn ngữ học không thể thống nhất hoàn toàn với nhau về định nghĩa tự học là thế nào.  Một số nhà nghiên cứu nổi tiếng định nghĩa về tự học như sau:  ­ Tự học là khả năng tự lo cho việc học của chính mình. (Henri Holec).  ­ Tự học là vấn đề về  mối tương quan tâm lý của người học với quá trình và nội   dung học.(David Little)  ­ Tự  học là tình huống trong đó người học hoàn toàn chịu trách nhiệm về  mọi   quyết định liên quan đến việc học và thực hiện những quyết định đó. (Leslie  Dickinson)  ­ Tự học là sự nhận thức về quyền của người học trong hệ thống giáo dục. (Phil   Benson)”          (http://en.wikipedia.org/wiki/learner_autonomy)  16
  17. Tuy có nhiều cách định nghĩa nhưng vấn đề  chính là chúng ta xem tự  học là phương   tiện hay là mục đích cuối cùng. Hai cách nhìn này đan xen lẫn nhau và cả  hai đều có  thể là một phần trong quan điểm của chúng ta về việc học ngôn ngữ hay việc học nói   chung.      2.2.4.2. Nguyên tắc tự học Theo David Little, có 3 nguyên tắc sư  phạm cơ  bản trong việc phát triển khả  năng tự  học. Đó là: (1) Sự tham gia của người học – người học chia sẻ trách nhiệm trong quá   trình học;                    (2) Sự phản ánh của người học – giúp người học biết suy nghĩ manh tính   phê phán khi lên kế hoạch, giám sát và đánh giá việc học của mình.                    (3)Sử dụng ngôn ngữ mục tiêu một cách phù hợp.  Một số nguyên tắc khác về tự học là:  Tự  học có nghĩa là chuyển sự  tập trung từ  việc dạy sang việc học; Tự  học khuyến   khích và cần sự giúp đỡ và hợp tác của bạn cùng học; Tự học là sử  dụng việc tự đánh   giá…  Vai trò của giáo viên trong việc trợ giúp và tạo điều kiện phát triển việc tự học là rất   quan trọng và đòi hỏi nhiều nổ lực. Như vậy, tự học không có nghĩa là học không cần  giáo viên hay giáo viên trở nên dư thừa và từ bỏ  việc kiểm soát những gì đang diễn ra  trong quá trình học. Giáo sư Cao Xuân Hạo trong bài “Bàn về chuyện tự học” đã viết,   “theo lời một nhà văn Pháp mà tôi không nhớ  tên, nói rằng xưa nay chưa có và không  thể có người nào thực sự tự học cả. Và chỉ có những kẻ cực kỳ hợm hĩnh và vô ân mới   có thể  nói khoác rằng mình là người tự  học”. Và theo ông “tự  học  ở  đây chỉ  cái phần  tích cực, chủ  động, quyết đoán của người học. Vai trò quyết định sự  thành công hay  thất bại của quá trình học tập là vai trò của người học, tuy vai trò của người dạy không  phải không quan trọng.”  17
  18. Holmes và Ramos (1991) cũng khẳng định, “để  giúp người học kiểm soát được việc  học của chính mình rất quan trọng phải giúp họ  trở  nên có ý thức và xác định được   chiến lược mà họ  đã từng sử  dụng hoặc có thể  sẽ  sử  dụng”. Và chính giáo viên sẽ  là  người thực hiện vai trò này. Giáo viên trước hết phải giúp sinh viên ý thức được vai trò  và tầm quan trọng của việc tự học, tiếp đến cung cấp cho sinh viên kiến thức về cách  học ngoại ngữ và hướng dẫn họ tự học có hiệu quả.  Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý rằng tự học là một quá trình không phải là một sản phẩm,   và sẽ phải mất rất nhiều  thời gian để phát triển   khả  năng  này. Như vậy, không  thể  trông đợi người học có thể trong một thời gian ngắn chuyển sang cách học tự học mà   không cần thời gian hay không gặp một khó khăn nào.       2.2.4.3 Điều kiện và cách tự học  Dimitrios  Thanasoulas  cho   rằng   việc   tự   học   chỉ  có   thể  đạt  được   khi   có   những  điều   kiện   sau: chiến lược về nhận thức của người học; thái độ; động cơ; và   kiến thức.  Theo O’Malley và Chamot (1990), chiến lược nhận thức tác động trực tiếp lên thông tin  tiếp nhận, đồng thời điều khiển thông tin theo cách thức hỗ trợ việc học. Một số chiến  lược nhận thức trong việc học ngôn ngữ được đề cập là: lập lại, biên dịch, ghi chú, suy  luận, và đặt câu hỏi để  hiểu rõ vấn đề. Hai thái độ  quan trọng trong tự học là thái độ  của người học về  vai trò của họ  trong quá trình học và thái độ  về  khả  năng học của  mình. Nếu người học cho là việc học chỉ  thành công theo cách học truyền thống  và  giáo viên mới   là   người   nắm vai trò chủ  đạo, hay tin rằng   họ  thuộc nhóm người   không có khả  năng học ngoại ngữ  thì người học sẽ  có khuynh hướng không thay đổi   theo cách học lấy người học là trung tâm trong khi cách học mới này giúp hướng đến   việc tự học, và như vậy sự thành công trong tự học là không có cơ sở. Động cơ là một   trong những yếu tố quan trọng  ảnh hưởng đến tốc độ  và sự  thành công khi học. Thái  độ và động cơ của người học có liên quan mật thiết với nhau. Thái độ tích cực sẽ dẫn   18
  19. đến động cơ  học tập được nâng cao và ngược lại. Về  cách tự  học, Quang Huy trong   bài viết “Tự học  ở bậc Đại học” (theo Dạy và Học Ngày Nay, số  10, 2008) phân tích:  “Có nhiều cách tự  học như: tự mình mò mẫm (người học không có điều kiện đi học,  các tri thức họ tìm được là do sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc  sống), tự học không cần thầy hướng dẫn (người học đã có một trình độ  học vấn nhất  định, đã có một thời gian dài học với thầy), tự  học với sự  hướng dẫn của thầy (hoạt   động tự học này gắn với quá trình dạy học). Đối với sinh viên, hoạt động tự  học gắn  liền với sự hướng dẫn của thầy. Hoạt động này sẽ  diễn ra ở hai phạm vi: tự học trên  lớp và tự học ngoài giờ trên lớp.” (http://lib.wru.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=293)  Tự học nhấn mạnh về tính cá nhân và tính độc lập, nhưng tự học không có nghĩa là học  riêng biệt một mình. Tính độc lập trong tự  học vẫn nằm trong sự  tương tác và phụ  thuộc lẫn nhau. Tiến sĩ Chu Hảo, thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ  và Môi trường,   khi được hỏi về kinh nghiệm của riêng ông trong việc tự học, đã trả lời như sau: “Cần   nói rõ về tự học, người ta thường nghĩ rằng tự học là học riêng một mình. Không, cách   tự học tốt nhất là học với nhóm.”  (http://www.chungta.com/Desktop.aspx/GiaoDuc/Cam­Nghi­Ve­Giao­  Duc/Cung_trao_doi_kinh_nghiem_ve_Tu_hoc/)          Như vậy, giáo viên khi hướng dẫn sinh viên tự học cần phải xét đến các điều kiện  tự  học nêu trên và chọn những hoạt động phù hợp để  sinh viên có thể  tự  học trên lớp  và tự học ngoài giờ một cách có hiệu quả. 2.2.5. Đặc điểm tự học ở trường Đại học.           Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu đào tạo của  các  trường  đại  học  là: "Đào   tạo   và   bồi dưỡng đội ngũ cán bộ  khoa học kỹ  thuật nghiệp vụ, có trình   độ, có lý  tưởng cách mạng, có quyết tâm vươn tới những đỉnh cao của văn hoá, khoa học hoặc   19
  20. chỉ đạo việc thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn do mình phụ trách, có tiềm lực để  từng  bước tiến hành giải quyết các vấn đề  thực tiễn do cuộc sống đặt ra trong phạm  vi "nghề nghiệp" của mình và với phương châm "biến quá trình đào tạo thành quá trình  tự đào tạo". Trên ý nghĩa đó, việc tự học của sinh viên không còn giống tự học của học  sinh phổ thông. Học đại học là đi sâu vào một chuyên ngành để chuẩn bị cho một nghề  trong tương lai. Do đó, người sinh viên phải tự  trang bị  cho mình những hiểu biết cơ  bản, vững vàng về nghề đó, đồng thời phải có nhiều hiểu biết khác nữa  theo yêu cầu   của cuộc sống. Giờ  đây, công việc tự  học của sinh viên trở  nên rất quan   trọng, rất   nặng nề, nó trở  thành một bộ  phận cấu thành của giáo dục đại học. Do phương pháp  học tập ở trường đại học khác cơ bản so với phương pháp học ở phổ thong, ở đại học  không có sự kiểm tra hàng ngày của giáo viên nên việc học tập của sinh viên phần lớn   là tự học. Sinh viên tự đề ra kế hoạch và tự thực hiện kế hoạch. Các bài kiểm tra chính  là kết quả học  tập và nghiên cứu của sinh viên. Có nhiều sinh viên cho biết rằng 50%   kiến thức là do tự học. Việc tự học của  sinh viên đại học còn có một đặc điểm; đó là   hoạt động tự học diễn ra liên tục, trong một phạm vi lớn nhằm  lĩnh hội rất nhiều tri   thức. Nếu như học sinh phổ thong được cô giáo ra những bài tập nhất định về  nhà thì  sinh viên đại học phải tự tìm tòi tài liệu, chọn đọc tài liệu sao cho thích hợp với môn   học và phải tỏ ra thật sự khoa học trong công tác tự học mới có kết quả tốt. Thêm vào  đó, việc tự học của sinh viên đại học là sự  nỗ lực cao, tính tự   giác  cao hơn học sinh  phổ thông;  sinh viên thực sự làm chủ thời gian, phương  pháp phải quan tâm đến chất  lượng tự học của bản thân để  từ đó có phương hướng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp  cho mình, chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp bằng sự tự tin tuyệt đối. Tự học  ở nhà ­   một nhân tố quan trọng đối với quá trình lĩnh hội tri thức. Tự học   ở  nhà chính là lần  thứ hai lĩnh hội tri  thức, đó  là  lĩnh hội bằng  sự  tái  tạo  lại  của  bản  thân  sinh viên.   Bước   tái   tạo này giúp   sinh viên nắm chắc hơn  điều   đã được   học,   hoàn   thành  những  chỗ khó, hệ  thống hoá  lại bài học  trên  lớp, nhờ đó  tránh được "học vẹt", học   mà không hiểu. Trong thực tế, việc học ở nhà còn giúp sinh viên mở mang  tri thức, lĩnh  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2