1<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Khối u tuyến nước bọt mang tai (TNBMT) là loại khối u điển hình về<br />
tính đa dạng hình thái mô học giữa các khối u khác nhau cũng như trong cùng<br />
một khối u [126]. Hơn nữa, các khối u hỗn hợp, sự biệt hóa và xu hướng ác<br />
tính hóa các u lành có thể làm cho các chẩn đoán mô học bị mất giá trị theo<br />
dõi trong một thời gian dài [126]. Phần lớn số u là lành tính chiếm tỷ lệ từ<br />
85% đến 90% nhưng có thể thoái hoá ác tính lại khá cao [3], [32]. Tổng số<br />
ung thư TNBMT nói chung chiếm 2% đến 4% các ung thư vùng Đầu Cổ [4].<br />
Ở Mỹ, ung thư TNBMT chiếm 6% các ung thư đầu - cổ, 0,3% tổng số ung<br />
thư toàn cơ thể [134]. Triệu chứng khối u TNBMT mờ nhạt, khi được chẩn<br />
đoán thì phần lớn các trường hợp khối u đã lớn, mức độ tổn thương rộng,<br />
chức năng, thẩm mỹ bị ảnh hưởng gây khó khăn cho việc tiên lượng, điều<br />
trị phẫu thuật và điều trị sau phẫu thuật, đồng thời làm tăng nguy cơ biến<br />
chứng và tái phát.<br />
Ở nước ta, việc chẩn đoán xác định trước mổ đang dừng lại ở kỹ thuật<br />
chọc hút tế bào và kết quả giá trị thu được chưa cao do lượng bệnh phẩm<br />
thu được ít, lại thiếu sự hướng dẫn chọc hút của Chẩn đoán hình ảnh<br />
(CĐHA) [32].<br />
Với những lí do trên, việc sinh thiết khối u qua kim trước mổ là rất cần<br />
thiết để đạt chẩn đoán xác định [116]. Sinh thiết qua kim sẽ được khối lượng<br />
bệnh phẩm đảm bảo đủ để xác định được bản chất mô bệnh học, tuy nhiên tai<br />
biến lưỡi kim cắt phải dây thần kinh VII và mạch máu là khó tránh khỏi. Do<br />
vậy, ngoài việc khảo sát hình thái, gợi ý chẩn đoán [57], [158] và chẩn đoán<br />
giai đoạn khối u, một số kỹ thuật CĐHA như siêu âm (SA), cắt lớp vi tính<br />
(CLVT)… cũng được dựng kết hợp để dẫn đường cho kim sinh thiết nhằm<br />
giảm thiểu tai biến và tăng giá trị chẩn đoán xác định [125].<br />
<br />
2<br />
<br />
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính, được lựa chọn đầu tay, xạ trị<br />
đóng vai trò bổ trợ chính, hóa trị có vai trò khi bệnh di căn xa.<br />
Cho đến nay, ở nước ta chưa có nhiều công trình nghiên cứu đóng góp<br />
cho thực tiễn thực hành về chẩn đoán xác định trước mổ và điều trị phẫu thuật<br />
u TNBMT. Thực tiễn công việc đòi hỏi cần có thêm hiểu biết đầy đủ và hệ<br />
thống hơn nữa về chẩn đoán, điều trị phẫu thuật. Do vậy, chúng tôi tiến hành<br />
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị phẫu thuật u tuyến<br />
nước bọt mang tai” nhằm hai mục tiêu:<br />
1. Xác định giá trị chẩn đoán một số u TNBMT bằng lâm sàng, SA,<br />
CLVT và sinh thiết qua kim dưới hướng dẫn của SA.<br />
2. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật.<br />
<br />
3<br />
<br />
CHƯƠNG 1<br />
TỔNG QUAN<br />
1.1. GIẢI PHẪU, MÔ HỌC CỦA TUYẾN NƯỚC BỌT MANG TAI<br />
<br />
1.1.1. Giải phẫu học [12], [13], [24]<br />
Tuyến mang tai (Hình 1-1) [24] là một tuyến nước bọt to nhất, nặng 2530 gam. Nằm ở dưới ống tai ngoài, giữa quai hàm và mỏm chũm, mỏm châm.<br />
1.1.1.1 Khu mang tai<br />
Khu mang tai là một trong hai khu của vùng trước trâm. Có thể coi như<br />
hình lăng trụ tam giác có 3 mặt và 2 đầu.<br />
1.1.1.1.1. Mặt ngoài<br />
Gồm có ba lớp: da, tổ chức tế bào dưới da và lá nông của cân cổ nông, lá<br />
này khi tới bờ trước của cơ ức đòn chũm thì chia ra làm hai lá:<br />
+ Lá nông chạy tới xương hàm và liên tiếp với cân của cơ cắn<br />
+ Lá sâu quặt vào trong, đi tới tận hầu<br />
<br />
E<br />
<br />
C<br />
<br />
H<br />
G<br />
D<br />
F<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
A<br />
B<br />
<br />
A: Tuyến NBMT B: Cơ ức đòn chũm<br />
D: Cơ cắn<br />
E: Bao cảnh (ĐM & TM)<br />
G: Cơ mút<br />
H: Khoang hàm hầu<br />
<br />
C: Thần kinh mặt<br />
F: Ống tuyến<br />
<br />
Hình 1.1: Giải phẫu tuyến mang tai<br />
<br />
4<br />
<br />
1.1.1.1.2. Mặt sau:<br />
Liên quan với mỏm chũm (trên đó có cơ ức đòn chũm và cơ nhị thân<br />
bám) và với mỏm châm (trên dó có cụm hoa Riolan bám).<br />
Các cơ đó được lá sâu của của cân cổ nông bao phủ và nối liền với<br />
nhau, để tạo nên một phần của hoành đi từ cơ ức đòn chũm đến hầu (hoành<br />
trâm hàm hầu). Hoành này gồm ba khe:<br />
- Khe trong (khe trước trâm móng) ở giữa cơ trâm móng (ở ngoài) và các<br />
cơ hay dây chằng khác của cụm Riolan (ở trong).<br />
- Khe ở giữa cơ trâm móng và cơ nhị thân (khe sau trâm móng), ở khe<br />
này, tuyến liên quan với tĩnh mạch cảnh trong, dây VII cùng lách qua<br />
khe này vào trong tuyến nước bọt mang tai.<br />
- Khe ngoài ở giữa cơ nhị thân và cơ ức đòn chũm. Tại đây có dây XI bắt<br />
chéo tuyến nước bọt (đây là nơi được chọn làm thủ thuật nối dây VII và<br />
XI cho bệnh nhân bị liệt mặt).<br />
1.1.1.1.3. Mặt trước:<br />
Liên quan với quai hàm được đệm ở mặt ngoài bởi cơ cắn và mặt trong<br />
bởi cơ chân bướm trong (điều này giải thích tại sao ung thư tuyến mang tai<br />
giai đoạn muộn lai có khít hàm). Mặt trước có khuyết Juvara (khuyết sau lồi<br />
cầu), chui qua đó có động mạch hàm trong và dây thần kinh thái dương.<br />
1.1.1.1.4. Đầu trên:<br />
Liên quan với khớp thái dương hàm và ống tai ngoài. Tại đây liên quan<br />
với động mạch thái dương nông ở trước, tĩnh mạch và dây thần kinh thái<br />
dương ở sau.<br />
1.1.1.1.5. Đầu dưới:<br />
Nằm trên dải ức hàm đi từ cơ ức đòn chũm tới góc hàm tạo vách ngăn<br />
giữa. Dải này tạo nên một vách ở giữa tuyến mang tai và tuyến dưới hàm.<br />
1.1.1.2. Tuyến mang tai<br />
Tuyến mang tai hình lăng trụ tam giác, nằm trong khu mang tai nhưng<br />
lại lấn cả ra ngoài khu mang tai ra trước, ra sau và nhất là vào trong để tạo<br />
<br />
5<br />
<br />
nên mẩu hầu của tuyến nước bọt mang tai có thể sờ thấy từ phía trong miệng<br />
(Hình 1-2) [24]. Tuyến được bọc trong một vỏ; ở giữa vỏ và khu có tổ chức tế<br />
bào nên tuyến dễ tách khỏi khu, trừ hai chỗ mà vỏ dính vào là: bờ trước cơ ức<br />
đòn chũm và bao khớp thái dương hàm. Những u của tuyến nước bọt mang tai<br />
phát triển trên hai vùng này thường dính và khi mổ lấy tuyến, hai vùng này<br />
không bóc tách được mà phải cắt.<br />
Tuyến mang tai có hai thùy, giữa hai thùy có các cấu trúc cầu nối sang<br />
nhau làm cho hai thùy này tuy áp vào nhau nhưng có một diện bóc tách, dây<br />
thần kinh VII nằm giữa hai thùy này như sợi chỉ đánh dấu nằm giữa hai trang<br />
sách, gáy quay về phía trước. Thùy trên nằm lên trên cả thùy dưới và dây VII<br />
như nắp của một chiếc hộp. Từ các nang tuyến, nước bọt được tiết ra sẽ đổ<br />
vào các ống trong tiểu thuỳ, ống gian tiểu thuỳ, ống bài xuất, ống Stenon.<br />
1.1.1.3. Ống Stenon<br />
Ống Stenon là ống tiết dịch của tuyến nước bọt mang tai, dài độ 4 cm,<br />
phát sinh ở trong tuyến và thoát ra ngoài tuyến ở dưới mỏm tiếp độ 15mm để<br />
chạy ra phía trước. Khi tới bờ trước của cơ cắn (ở dưới mỏm tiếp độ 1 cm),<br />
ông Stenon chạy ở phía trước cục mỡ Bichat, rồi thọc qua cơ mút dể vào<br />
miệng, ở ngang mức cổ của răng hàm lớn thứ hai trên.<br />
1.1.1.4. Liên quan mạch máu-thần kinh-bạch huyết.<br />
Từ ngoài vào trong tuyến nước bọt mang tai có liên quan tới dây thần<br />
kinh mặt, tĩnh mạch và động mạch cảnh ngoài, dây thần kinh tai - thái dương.<br />
1.1.1.4.1. Thần kinh:<br />
Dây thần kinh mặt (VII):<br />
Sau khi ra khỏi lỗ châm chũm (1 tới 2cm) dây VII đi giữa cơ châm<br />
móng và cơ nhị thân, chui vào giữa hai thùy của tuyến mang tai.<br />
Dây thần kinh VII di trong diện bóc tách của hai thuỳ tuyến cùng với<br />
một động mạch nhỏ kề bên với động mạch châm chũm (thắt dộng mạch này<br />
để cầm máu sẽ giúp cho việc phẫu tích dễ dàng hơn nhiều). Ngay trong diện<br />
<br />