intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐỀ TÀI: PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM

Chia sẻ: Bluesky_12 Bluesky_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

286
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tại VN quản trị tài chính trong các DN có những lúc bị xem nhẹ. Việc lựa chọn nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu hoạt động kinh doanh đôi khi được hình thành một cách tự phát, không dựa trên những nguyên lý cơ bản của một chiến lược quản trị tài chính hiện đại, kết hợp với tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và không đúng sở trường và chức năng hoạt động như: chứng khoán, địa ốc trong bối cảnh biến động khó lường của những thị trường này thì tình trạng thua...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐỀ TÀI: PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM

  1. CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” NĂM 2009 Tên công trình: PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM Nhóm ngành: XH2b Hà Nội, tháng 8 năm 2009
  2. i MỤC LỤC Trang TÓM TẮT CÔNG TRÌNH................................................................................................1 LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................................2 Chƣơng I. PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN ............................................................................................................................7 1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp .........................7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản .........................................................................7 1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp .............................11 2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ..............................................................................................................................16 2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ....................................................................................................17 2.2. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của phá sản đối với xã hội ...........................................................................................................18 2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận thức về phá sản ...........................................................................................................................18 3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ....................................................................................................................20 3.1. Pháp luật về phá sản...............................................................................................20 3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật phá sản ......22 Chƣơng II. NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN ..........................................................................................................................24 1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp ..............................................24 1.1. Sự hình thành và phát triển ....................................................................................24 1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn của Pháp ..................................................................................29 2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ................................................................................................................................32 http://svnckh.com.vn ii
  3. ii 2.1. Đối tượng áp dụng .................................................................................................32 2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ..........................33 2.3. Các bước tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ..................................................................................................................37 3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phƣơng án phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ....................................................................................................47 3.1. Vấn đề tài chính .....................................................................................................47 3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp ................................................................................48 3.3. Vấn đề xã hội .........................................................................................................49 4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp ....................................................................................................................50 Chƣơng III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP .....................................................................52 1. Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới ......52 1.1. Cơ sở để dự báo .....................................................................................................52 1.2. Các con số dự báo ..................................................................................................54 2. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam ...............................56 2.1. Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp .......56 2.2. Việc thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn .....................................................64 3. Đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp ..........................69 3.1. Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt động của doanh nghiệp .................................................................. Error! Bookmark not defined. 3.2. Các giải pháp sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật Phá sản năm 2004 về phục hồi doanh nghiệp ...................................................................................................69 3.3. Các giải pháp tăng cường thi hành các quy định về phục hồi doanh nghi ệp trong Luật Phá sản năm 2004 ..................................................................................................71 KẾT LUẬN .......................................................................................................................76 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................78 PHỤ LỤC............................................................................................................................ I Phụ lục 1 .......................................................................................................................... I http://svnckh.com.vn ii
  4. iii Phụ lục 2 ....................................................................................................................... IV DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Giải nghĩa STT Tổ chức Tổ chức quản lý chế độ bảo hiểm các khoản nợ 1. AGS công nhân (Association pour la gestion du régime d’assurance des créances des salariés) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) 2. FDI Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) 3. GDP Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for 4. OECD Economic Co-operation and Development) Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade 5. WTO Organization) Đô la Mỹ 6. USD VNĐ Đồng Việt Nam 7. Trách nhiệm hữu hạn 8. TNHH http://svnckh.com.vn iii
  5. 1 TÓM TẮT CÔNG TRÌNH Ngày nay, pháp luật phá sản ở hầu hết các nước phát triển đều coi việc phục hồi và tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng. Điều này lại không tồn tại ở Việt Nam. Trải qua 16 năm thi hành, cho đến nay vẫn chưa có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nào được phục hồi và tái tạo lại theo luật phá sản. Chính điều này đã làm giảm sức sống của luật phá sản Việt Nam. Để làm rõ nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp cho thực trạng này, vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam” đã được lựa chọn làm đề tài tham dự cuộc thi “Sinh viên Nghiên cứu Khoa học năm 2009”. Với tổng số 78 trang, nội dung của công trình gồm 3 chương: Chương I trình bày những vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm của phá sản và pháp luật phá sản; sau khi phân tích tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp là chủ nợ và doanh nghiệp là con nợ, cũng như đối với nền kinh tế, chương I đã làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp và khẳng định tính ưu việt và xu thế chung của pháp luật phá sản ngày nay là cố gắng hướng về mục tiêu tái tạo doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Chương II phân tích những nỗ lực của Cộng hòa Pháp trong việc hoàn thiện các quy định trong luật phá sản về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Để thấy rõ điều này, chương II tóm lược một số nét cơ bản về luật phá sản của Pháp từ thời Cổ đại mà điểm nổi bật là trong giai đoạn này luật của pháp không coi trọng vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Qua thời gian, với nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã trở thành mục tiêu chính của luật phá sản của Pháp với nhiều quy định có tính ưu việt nhằm tạo cơ sở để các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản tìm đường trở lại. Điều này đã được giới doanh nghiệp Pháp đón nhận và đây cũng chính là những kinh nghiệm tốt để Việt Nam học tập. Chương III, sau khi đưa ra dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, đã nêu rõ những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam. Đó là 7 bất cập của Luật phá sản năm 2004 và 4 khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp, Chương III đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm loại bỏ bất cập và tăng cường sức sống của các quy định về phục hồi doanh nghiệp trong Luật phá sản năm 2004, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vì sao Việt Nam cần khẳng định rằng mục tiêu quan trọng nhất của Luật phá sản sửa đổi tới đây là phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
  6. 2 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng lớn, sự rút lui, phá sản của một bộ phận doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt, do những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tình trạng khó khăn của nền kinh tế đã và đang dẫn tới sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp ở các nước phát triển và các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Giới doanh nghiệp thế giới đã phải sửng sốt và bàng hoàng khi hay tin General Motor - một đại gia trong ngành xe hơi Hoa Kỳ phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản vào ngày 1/6/2009, với tổng trị giá tài sản là 82,3 tỷ USD trên số nợ tồn đọng là 172,81 tỷ USD 1. Còn ở Việt Nam, vào ngày 19/12/2008 Công ty TNHH Orion Hanel - một công ty liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Hàn Quốc được thành lập năm 1993 và từng là một trong các doanh nghiệp FDI dẫn đầu tại Hà Nội trong việc sản xuất đèn hình màu và phụ kiện tivi, đã nộp đơn lên Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội xin mở thủ tục phá sản 2. Doanh nghiệp bị phá sản sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực cho xã hội. Để hạn chế và giảm thiểu các tác động đó, pháp luật về phá sản đã được ban hành với nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp như thế nào? Luật pháp của các nước khác nhau quy định không hoàn toàn giống nhau về vấn đề này. Luật phá sản đầu tiên của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có tên gọi là Luật phá sản Doanh nghiệp, được thông qua ngày 30/12/1993 (có hiệu lực từ ngày 1/7/1994) nhằm hình thành khung pháp lý bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu quan trọng nhất của Luật này là nhắc nhở, cảnh báo các doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động kinh doanh và hướng dẫn thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. 1 Website: http://money.cnn.com/2009/06/01/news/companies/gm_bankruptcy/index.htm 2 Website: http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/12/3BA09C61/
  7. 3 Những quy định trong Luật thiên về bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và hầu như không đặt ra mục tiêu tái tạo lại doanh nghiệp. Vì vậy, Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 không có quy định nào về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Ngày 15/6/2004, Luật phá sản mới được ban hành. Luật này có tên gọi là Luật Phá sản năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 15/10/2004). Một trong những điểm mới của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993 là Luật Phá sản năm 2004 đã bổ sung những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Với 10 điều khoản cụ thể trong luật (xem phụ lục 1), tưởng như Luật Phá sản năm 2004 sẽ được áp dụng tốt trong thực tế. Nhưng thực tiễn lại không như vậy. Kể từ ngày 15/10/2004 - ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2008 Tòa án đã thụ lý 195 vụ phá sản 3, nhưng lại không có trường hợp nào trong số đó được phục hồi hoạt động. Vì sao lại như vậy? Phải chăng vì các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành vẫn tỏ ra chưa phù hợp? Pháp luật của các nước phát triển quy định như thế nào về vấn đề này? Những câu hỏi này đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu sâu về vấn đề này theo quy định của pháp luật một nước phát triển. Nhưng tìm hiểu pháp luật nước nào? Là những sinh viên chuyên ngành Pháp ngữ, chúng tôi quyết định chọn Cộng hòa Pháp là nước để nghiên cứu. Đó là lý do để vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học tham dự Cuộc thi “Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2009”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Luật phá sản của Việt Nam đã được khá nhiều tác giả phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Trong số đó có các công trình tiêu biểu như:  Cuốn sách “Những nội dung cơ bản của Luật Phá sản” do Vụ Công tác lập pháp của Bộ Tư pháp biên soạn (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2005). Cuốn sách này tổng hợp những nội dung cơ bản của Luật Phá sản năm 2004 trên cơ sở 3 Bộ Tư Pháp, Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004 , ngày 29/12/2008.
  8. 4 so sánh với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, tài liệu này không phân tích cụ thể những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và cũng không so sánh với luật của Pháp.  Bài viết của tác giả Trần Minh Sơn đăng trên tạp chí Nghề Luật (số 4/2007) có tựa đề “Luật Phá sản có nguy cơ tiếp tục phá sản”. Bài viết này chỉ nêu lên những bất cập cơ bản nhất của Luật Phá sản năm 2004 nhưng cũng chưa phân tích những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.  Bài viết của PGS.TS.Dương Đăng Huệ: “Luật Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh”, đăng trong Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3 năm 2005. Bài viết này phân tích Luật Phá sản năm 2004 từ góc độ môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, không phân tích vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Có thể khẳng định đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản nói chung và những quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật Cộng hoà Pháp về vấn đề này nói riêng. 3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành của Việt nam và của Cộng hoà Pháp. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả những vấn đề khó khăn phát sinh khi thực thi pháp luật phá sản của Việt Nam nói chung và thực thi các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 nói riêng. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu  Làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong nền kinh tế thị trường hiện nay;  Phân tích những quy định của luật phá sản Pháp về phục hồi hoạt động của
  9. 5 doanh nghiệp để thấy rõ những ưu điểm trong luật phá sản của Pháp về vấn đề này;  Nêu bật những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề xuất giải pháp loại bỏ những bất cập của Luật phá sản năm 2004 trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của Pháp về quy định và thi hành các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, các phương pháp nghiên cứu tổng hợp dưới đây đã được áp dụng:  Phương pháp đọc, dịch tài liệu để hệ thống hoá, tổng hợp và phân tích những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu;  Phương pháp thống kê, luận giải và đưa ra những nhận xét, những bình luận;  Phương pháp dẫn chiếu luật để phân tích, đối chiếu và so sánh;  Phương pháp so sánh luật học để làm rõ những điểm khác biệt, những điểm khuyết và bất cập trong luật phá sản hiện hành của Việt Nam. 5. Phạm vi nghiên cứu  Về mặt không gian: phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong khoảng thời gian từ khi pháp luật phá sản đầu tiên của Việt Nam được ban hành (Luật phá sản Doanh nghiệp), tức là từ năm 1993 cho đến nay và tầm nhìn xa hơn.  Về mặt nội dung: khi nghiên cứu những quy định của pháp luật phá sản, đề tài không phân tích mọi nội dung của luật phá sản mà đặt trong tâm phân tích những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và những quy định hiện hành trong luật phá sản của Pháp năm 2009. Việc phân tích tình hình thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản năm 2004 cũng là nội dung nghiên cứu của đề tài.
  10. 6 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chƣơng I: Phá sản, pháp luật về phá sản và sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Chƣơng II: Những quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Chƣơng III: Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp
  11. 7 Chƣơng I PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN 1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp 1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản 1.1.1. Khái niệm về phá sản Phá sản là một khái niệm được sử dụng để chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả của một thương gia, một nhà buôn (theo cách quan niệm truyền thống) và của công ty, của doanh nghiệp (theo quan niệm hiện nay). Về mặt ngôn ngữ, phá sản hay bị phá sản là thuật ngữ được dùng để chỉ sự chấm dứt hoạt động kinh doanh do làm ăn thua lỗ đi kèm với thanh lý tài sản và nghĩa vụ trả nợ của một chủ thể cụ thể trong nền kinh tế. Nó được đánh dấu bởi việc chủ thể đó không có khả năng thanh toán cho các chủ nợ những khoản nợ mà người này đã và đang vay. Về mặt kinh tế, phá sản là khái niệm được dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi (giữa tài sản có và tài sản nợ) của một doanh nghiệp mà điều nhận thấy rõ nhất là doanh nghiệp này lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán những khoản nợ đến hạn. Tình trạng mất khả năng thanh toán này không phải là tình trạng nhất thời, không phải chỉ mất khả năng thanh toán đối với một chủ nợ mà ngược lại, mất khả năng thanh toán đồng loạt đối với tất cả các chủ nợ. Về mặt pháp luật, phá sản là một chế định vừa liên quan đến nghĩa vụ, vừa liên quan đến quyền của doanh nghiệp, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và được luật pháp bảo vệ. Nghĩa là doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh thì cũng có nghĩa vụ thực hiện các quy định liên quan đến mở thủ tục phá sản. Không chỉ có nghĩa vụ, doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán có quyền được pháp luật bảo vệ bằng cách đưa ra các biện pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, muốn được pháp luật bảo vệ thì doanh nghiệp gặp thua lỗ trong kinh doanh, phải tuân theo những quy định liên
  12. 8 quan đến phá sản. Vì vậy, dưới góc độ pháp luật, phá sản không chỉ là một khái niệm, một thuật ngữ mà là một thủ tục pháp lý gồm nhiều bước, nhiều quy trình, liên quan đến chủ nợ, con nợ, đến Tòa án, đến tổ quản lý, thanh lý tài sản…và trong nhiều trường hợp, liên quan đến cả chính sách của Nhà nước với hàng hoạt quy định, quy tắc hết sức phức tạp. Về mặt xã hội, phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội có nhiều đặc điểm, chi phối nhiều mối quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích của nhiều người. Vì vậy, cần phải tìm hiểu đặc điểm của phá sản để xem xét mọi góc độ của nó. 1.1.2. Đặc điểm của phá sản Phá sản có ba đặc điểm cơ bản: Phá sản mang tính lịch sử, phá sản mang tính khách quan và phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật.  Tính chất lịch sử của phá sản Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị trường, bởi vậy nó mang tính chất lịch sử rất rõ rệt. Trong những giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người, khi xã hội không tồn tại nền kinh tế thị trường thì phá sản cũng không có cơ sở để tồn tại. Ngay cả khi có nền kinh tế hàng hóa là mức độ thấp của kinh tế thị trường thì phá sản cũng không tồn tại. Chẳng hạn phá sản không phát sinh ở nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp của các nước phương Tây thời kỳ tiền Tư bản. Với nền sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp dẫn tới cầu luôn cao hơn cung, các nhà sản xuất hầu như không gặp bất cứ khó khăn nào trong quá trình tiêu thụ hàng hóa và vì vậy, việc họ bị phá sản là không thể xảy ra. Hoặc như trong thời kỳ đầu sau giải phóng, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Về bản chất, đây vẫn là nền kinh tế hàng hóa tuy nhiên do sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình sản xuất cũng như phân phối dẫn đến tình trạng các khoản nợ đối với doanh nghiệp gần như “biến mất”. Lỗ đâu nhà nước bù đó, doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn và sự chỉ đạo từ phía nhà nước. Không có thị trường với đúng nghĩa của nó và không có cạnh tranh. Phá sản cũng không tồn tại trong nền kinh tế như vậy.  Tính chất khách quan của phá sản Đặc điểm này muốn nói rằng phá sản không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
  13. 9 của bất cứ ai trong xã hội. Ngược lại, nó là kết quả của quá trình kinh doanh không hiệu quả kéo dài của doanh nghiệp. Quá trình kinh doanh không hiệu quả đó lại được lý giải bởi hai nguyên nhân cũng mang tính khách quan sau đây: Nguyên nhân đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết về vòng đời của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào cũng có một vòng đời trải qua 3 giai đoạn: khởi nghiệp (lancement), chín muồi (maturité) và khủng hoảng (crise). Ba giai đoạn này được hình tượng hóa trong sơ đồ 1 (xem thêm sơ đồ 1). Sơ đồ 1: Sơ đồ vòng đời của doanh nghiệp Phục hồi hoạt động Tốc độ phát triển Thanh lý tài sản Giai đoạn 1: Giai đoạn 2: Giai đoạn 3: Khủng hoảng Khởi nghiệp Chín muồi Nguồn: http://www.pax.fr/fr_cycle_vie.php Thời gian Nhìn từ sơ đồ 1 ta có thể thấy rõ vòng đời của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế, doanh nghiệp cũng như một thực thể sống, sinh ra, phát triển rồi chết đi. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn cũng như quy luật biến đổi và tồn tại của sự vật, hiện tượng. Là một phần của giai đoạn khủng hoảng, phá sản vì thế, mang tính khách quan, độc lập với ý chí của con người. Trong thực tế, nguyên nhân dẫn đến phá sản, tức là nguyên nhân khiến một thương gia, một doanh nghiệp lâm vào tình trạng không đủ khả năng thanh toán các khoản nợ thường rất khác nhau. Có trường hợp là do chính sách của Nhà nước thay đổi khiến doanh nghiệp trở tay không kịp: giới ngân hàng thương mại thế giới đã từng chứng kiến hệ thống ngân hàng của Argentina bị phá sản hàng loạt và o năm 2001 mà nguyên nhân là do Chính phủ Argentina đã ban hành Luật Corralito,
  14. 10 theo đó mọi tài khoản ngân hàng trên toàn quốc bị đóng băng trong 12 tháng nhằm giải quyết tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tháo chạy khỏi Argentina 4. Cũng có khi do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở trong nước hoặc ở phạm vi quốc tế; và cũng không loại trừ do doanh nghiệp quản lý kém hiệu quả hoặc xây dựng chiến lược kinh doanh không phù hợp mà điển hình nhất là trường hợp của hãng sản xuất xe hơi General Motor. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng một trong những nguyên nhân làm cho General Motor phá sản là do sự chậm chạp, kém năng động và sự rối rắm về quản trị với những thủ tục phức tạp trong phong cách lãnh đạo của giới lãnh đạo Hãng này 5. Nguyên nhân thứ hai dựa trên đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Kinh t ế thị trường là mức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, nơi mà sự phân công lao động, chuyên môn hóa trong sản xuất đã đạt trình độ cao. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, năng suất lao động tăng lên làm cho của cải sản xuất ra ngày một nhiều hơn và vì thế cạnh tranh giữa các nhà cung ứng sản phẩm và dịch vụ cũng ngày càng trở nên khốc liệt. Đã có thời gian “thương trường là chiến trường” trở thành câu nói cửa miệng, bài học nhắc nhở cho mọi nhà quản lý doanh nghiệp. Trong cuộc chiến sống còn như vậy, việc có những doanh nghiệp yếu thế hơn, làm ăn kém hiệu quả hơn dẫn tới thua lỗ và phá sản là điều tất yếu. Ngoài ra, ngày nay, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy một thực tế là chính nền kinh tế thị trường với mục tiêu hướng mạnh về lợi nhuận đã làm cho nhiều doanh nghiệp chỉ chạy theo lợi ích trước mắt mà đem vốn đầu tư vào các hoạt động thương mại ẩn chứa nhiều rủi ro nhưng lại không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Khi thị trường đổ vỡ, những khoản vốn đầu tư ồ ạt đã không thể thu về được, đẩy doanh nghiệp đến tình trạng mất khả năng chi trả và lâm vào tình trạng phá sản. Điều này cũng có nghĩa là kinh tế thị trường khuyến khích doanh nghiệp làm giàu nhưng cũng chính kinh tế thị trường đẩy doanh nghiệp vào tình trạng phá sản. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà kinh tế ở các nước phương Tây cho rằng trong nền kinh tế thị trường, phá sản cũng cũng gắn liền với hoạt động kinh 4 Website: http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Kinh-nghiem/2008/10/3BA0692A/ 5 Website: http://www.vnexpress.net/GL/Oto-Xe-may/2009/06/3BA10102/
  15. 11 doanh như lợi nhuận. Phá sản cùng với lợi nhuận tạo thành “cái gậy” và “củ cà rốt” theo đuổi các thương gia, các doanh nghiệp trong suốt cuộc đời kinh doanh của họ. Điều này cho thấy tính chất khách quan của phá sản.  Phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật Là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị trường, phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật - pháp luật về phá sản. Lúc đầu những quy định về phá sản chỉ là những nguyên tắc pháp lý, những chế định được quy định trong các văn bản pháp luật về thương mại, trong các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sau này, do những tác động và ảnh hưởng mang tính xã hội của phá sản, nhiều nước đã ban hành đạo luật riêng về phá sản. Tuy nhiên, có một thực tế là những nước Xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, do pháp luật phá sản ra đời muộn nên thường gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng và thi hành luật phá sản. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế thị trường sớm phát triển như Hoa Kỳ, Úc, Pháp … là những nước có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực thi luật phá sản, đặc biệt là trong việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ đang diễn ra hiện nay, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng của Hoa Kỳ đã và đang bị phá sản và việc xử lý doanh nghiệp bị phá sản theo chương 7 và chương 11 của Luật Phá sản Hoa Kỳ năm 2005 đang thu hút sự chú ý của giới doanh nghiệp trên thế giới 6. Điều này có nghĩa là, từ thời cổ đại cho đến nay, phá sản luôn luôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Điều này cũng đòi hỏi mọi doanh nghiệp, ngay khi có ý tưởng thành lập, đã phải tìm hiểu những quy định của pháp luật về phá sản song song với việc tìm hiểu những quy định của pháp luật về tự do kinh doanh, tự do thương mại trong cả quá trình tồn tại, phát triển, hưng thịnh và tiêu vong của mình. 1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp Phá sản, như đã phân tích, là hiện tượng gắn liền với sự làm ăn kém hiệu quả của doanh nghiệp.Vì vậy, phá sản có những tác động nhất định đến hoạt động của doanh nghiệp. Những tác động này vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu 6 Chương 7 là chương quy định về đóng cửa doanh nghiệp và chương 11 điều chỉnh việc phục h ồi hoạt động của doanh nghiệp
  16. 12 cực. Những tác động đó là: 1.2.1. Tác động tích cực Trên khía cạnh kinh tế - xã hội, phá sản là quá trình thanh lọc các công ty làm ăn thua lỗ. Bởi vậy nó cho phép xã hội tổ chức lại nguồn lực kinh tế theo hướng ngày càng hiệu quả hơn. Có thể nói các doanh nghiệp bị phá sản là những doanh nghiệp yếu kém không đủ sức đứng vững trên thị trường. Nếu các doanh nghiệp này tiếp tục lay lắt tồn tại, một mặt sẽ chiếm dụng một phần thị trường của các doanh nghiệp khác, mặt khác, người lao động mà đáng ra phải được đào tạo và sử dụng đúng cách thì lại không được giải phóng dẫn tới nghèo đói, thất nghiệp, tay nghề giảm. Cơ hội về mặt bằng, máy móc, các phương tiện sản xuất và cung ứng dịch vụ cũng như cơ hội về các yếu tố đầu vào khác không được các công ty làm ăn tốt tận dụng. Nếu cứ để tình trạng trì trệ như vậy tiếp tục diễn ra thì nền kinh tế sẽ như một cơ thể đau ốm; các nguồn lực không được phát huy tối đa và dần trở nên tụt hậu. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội mà ảnh hưởng tiêu cực đến ngay cả doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp chủ nợ hay bản thân doanh nghiệp bị phá sản. Có thể lấy ví dụ như một số doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam ở thời kỳ bao cấp. Nền kinh tế chỉ đạo tập trung, bao cấp là một nền kinh tế mà ở đó, các doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn chủ quan của nhà nước. Phá sản và các quy định của pháp luật về phá sản không có ý nghĩa gì trong một nền kinh tế như vậy bởi nếu các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nhà nước sẽ có các biện pháp hỗ trợ, bù lỗ. Kết quả là chính sự thiếu vắng những công cụ mạnh tay để gạt bỏ những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả lại chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ỷ lại, thiếu động cơ sáng tạo để đổi mới và vươn lên của chính các doanh nghiệp này, từ đó, dẫn đến sự trì trệ và tụt hậu của cả nền kinh tế trong những năm đầu sau giải phóng. Phá sản và những quy định về phá sản do vậy, đóng vai trò như phương thuốc giúp cho toàn bộ cơ thể là nền kinh tế khỏe mạnh và vận hành trơn tru bằng cách loại bỏ tất cả các tế bào đã chết, tức là các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, hoặc tìm cách tái tạo chúng. Nếu đứng từ góc độ của chủ nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá sản và pháp luật phá sản thì bên cạnh những yếu tố xã hội như đã đề cập ở phần
  17. 13 trên, chúng ta còn thấy nhiều lợi ích thiết thực khác. Phá sản cũng đồng nghĩa với việc con nợ phải thanh lý tài sản để trả nợ. Vì vậy, đứng ở góc độ của người cho vay, phá sản giúp họ có thể thu hồi lượng vốn tồn đọng từ quá lâu ở chỗ con nợ. Qua đó, có thể chọn một khu vực đầu tư được đánh giá là hiệu quả để đầu tư mới. Như vậy, phá sản không những góp phần đẩy nhanh quá trình lưu chuyển vốn của các doanh nghiệp có vốn - các doanh nghiệp chủ nợ - đang tồn đọng ở các doanh nghiệp bị phá sản mà còn giúp cho lượng vốn này có thể được sử dụng hiệu quả hơn nhờ những kinh nghiệm đánh giá hiệu quả đầu tư cũng như kinh nghiệm dự báo, dự đoán tích lũy được. Như vậy có thể thấy phá sản và những quy định về phá sản sẽ trở thành một công cụ hữu ích và hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Từ góc độ của con nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá sản, có thể thấy rằng mặc dù không một doanh nghiệp nào thích phá sản nhưng phá sản thực sự là một lối thoát cho các doanh nghiệp này. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì việc kéo dài sự tồn tại lay lắt của doanh nghiệp là không hiệu quả bởi vì kết cục của việc kéo dài là những nguồn chi phí bị đội lên, những khoản nợ không thể thanh toán, những khoản tiền không thể chi trả, sự quẫn bách không lối thoát và đặc biệt là lòng tự hào nghề nghiệp có thể đẩy các nhà lãnh đạo của các doanh nghiệp này tới các hành vi tiêu cực như lừa đảo, gian lận hoặc thậm chí có thể tự vẫn. Phá sản sẽ là một cánh cửa mở, là cứu cánh cho doanh nghiệp trong tình thế như vậy. Thông qua việc mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có thể thoát hoàn toàn khỏi tình trạng nợ nần chồng chất. Phá sản và các quy định về phá sản trong trường hợp này đóng vai trò là một công cụ bảo vệ hoàn hảo cho con nợ bởi sau khi thủ tục thanh lý kết thúc, mọi khoản nợ sẽ biến mất và con nợ thật sự được tự do. Tất nhiên, đứng ở vị trí của nhà quản lý doanh nghiệp bị phá sản, cái giá phải trả là bị tước quyền làm giám đốc hoặc quyền quản lý một doanh nghiệp khác trong một khoảng thời gian nào đó. Nhưng lợi ích đem lại còn lớn hơn nhiều: Bên cạnh sự giải phóng về tinh thần cho chủ doanh nghiệp, phá sản còn cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ cơ hội bắt đầu lại từ đầu thay vì tiếp tục lún sâu vào sai lầm và nợ nần ngày một tăng thêm.
  18. 14 1.2.2. Tác động tiêu cực Phá sản có thể đem lại nhiều lợi ích cho xã hội cũng như bản thân doanh nghiệp bị phá sản. Song trên thực tế, các doanh nghiệp vẫn thường trốn tránh mở thủ tục phá sản. Điều này được giải thích một phần bởi những tác động tiêu cực cả về kinh tế - xã hội mà phá sản gây ra. Về mặt xã hội, phá sản một doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc sẽ có một bộ phận người lao động của doanh nghiệp đó không có việc làm, nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Mặc dù phá sản không phải là nguyên nhân giải thích toàn bộ tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế nhưng nó vẫn là một trong những nguyên nhân trực tiếp và có ảnh hưởng nhanh nhất tới người lao động. Có thể lấy ví dụ về vụ phá sản trong năm 2008 vừa qua của Ngân hàng Lehman Brothers của Hoa Kỳ (thành lập năm 1850 bởi ba anh em Henry, Emanuel và Mayer Lehman - người Do Thái từ Đức di cư sang). Đây là ngân hàng lớn thứ 4 và là ngân hàng tư nhân lâu đời nhất của Hoa Kỳ với 158 năm tồn tại cho đến khi bị phá sản. Lĩnh vực chính của Lehman Brothers là tín dụng tư nhân, buôn bán cổ phiếu, trái phiếu, nghiên cứu thị trường, quản lý đầu tư … Ngày 15 tháng 9 năm 2008, Lehman Brothers bị tuyên bố phá sản với khoản nợ 613 tỷ USD sau khi không có công ty nào chấp nhận mua lại. Đây là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Lehman Brothers phá sản đã tác động tiêu cực đến xã hội Hoa Kỳ vì có đến 26.200 nhân viên bị mất việc chưa kể hàng loạt chủ nợ và các dự án đầu tư khác cũng bị đổ bể7. Doanh nghiệp dừng hoạt động thì điều tất yếu là lao động của doanh nghiệp mất việc làm và nền kinh tế luôn đòi hỏi phải có thời gian mới có thể hấp thụ và giải quyết được tình trạng này. Nghĩa là tình trạng thất nghiệp nảy sinh và trong một khoảng thời gian tìm việc nhất định, cuộc sống của người lao động cũng như gia đình của họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đối với bất kỳ n ền kinh tế nào, thất nghiệp là một mối lo lắng thường trực không chỉ của các nhà quản trị doanh nghiệp mà còn của nhà nước, của toàn xã hội. Thất nghiệp là bạn đường của nghèo đói, của bất bình đẳng và của các tệ nạn xã hội - những vấn đề nóng bỏng của tất cả các nền kinh tế - dù là nền kinh tế phát triển hay kém phát triển. 7 Website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml
  19. 15 Về mặt kinh tế, phá sản gây ra nhiều tác động xấu đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn hàng của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền - không bán được hàng, không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất (nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ) … Một doanh nghiệp phá sản còn là tác nhân gây ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu dùng, nhà đầu tư, từ đó làm toàn bộ thị trường trở nên bất ổn. Tác động đó sẽ càng trầm trọng nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn. Ví dụ, vụ phá sản của ngân hàng Lehman Brothers không chỉ khiến hàng ngàn người lao động mất việc mà nghiêm trọng hơn là tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn cầu. Ngay sau khi có tin Lehman Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị trường chứng khoán London giảm 3%; các thị trường chứng khoán Pháp và Đức cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường Nga đã phải tạm ngừng giao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16% 8. Chỉ số chứng khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của hàng loạt các công ty khác và tiếp tục đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng thất nghiệp. Từ góc độ của chủ nợ để quan sát, sự phá sản của con nợ mặc dù đồng nghĩa với việc chủ nợ có thể thu hồi được khoản nợ đó nhưng lại là một khoản tiền dưới giá trị. Việc giảm giá trị của khoản nợ bị tồn đọng tại doanh nghiệp bị phá sản có thể được giải thích bởi hai nguyên nhân sau: Thứ nhất, con nợ khi phá sản không chỉ mắc nợ với một chủ nợ. Có nghĩa là khi tình trạng không thể thanh toán nợ xảy ra, con nợ đã mắc nợ với rất nhiều chủ nợ và buộc lòng phải thanh lý tài sản để trả nợ. Khi đó, giá trị thu được từ tài sản bị chia cho nhiều chủ nợ dẫn đến một hiện trạng là khoản nợ phải thu lớn hơ n các khoản nợ nhận về của các chủ nợ. Hơn nữa, sau khi phá sản, việc phát mại thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản là không dễ dàng. Thường thì trong các phiên 8 Website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2008/09/080916_lehman_bankruptcy.shtml
  20. 16 phát mại như vậy, tài sản được định giá rất rẻ so với giá trị thực và làm cho số tiền thu về dùng để trả nợ là rất thấp. Ví dụ như trường hợp phá sản Công ty thủy sản khu vực II Đà Nẵng: Số nợ phải thu là 10.479.775.313 VNĐ; số nợ phải trả 50.498.514.864 VNĐ; số nợ đã thu là 100.000.000đ đạt tỉ lệ 0,95% 9. Nếu số nợ thu về chỉ đạt tỉ lệ chưa đầy 1% so với số phải thu thì khoản tiền mà các doanh nghiệp chủ nợ phải chia nhau sẽ ít ỏi đến thế nào. Thứ hai, nguồn vốn đọng tại doanh nghiệp của con nợ không những không sinh lời mà còn bị trượt giá. Với tình hình biến đổi giá tiêu dùng như hiện nay, mặc dù chính phủ đã có những biện pháp để kiềm chế lạm phát và ổn định môi trường đầu tư nhưng độ trượt giá qua thời gian làm cho đồng tiền mất giá là điều không thể tránh khỏi. Hơn nữa, vốn cho vay còn tồn đọng tại doanh nghiệp phá sản không phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là có thể lấy lại được. Bao giờ cũng vậy, khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, điều đầu tiên mà con nợ nghĩ tới không phải là tuyên bố phá sản mà là làm sao đó để kéo dài “sự sống” cho mình. Có nghĩa là dù có trả được nợ hay không, con nợ vẫn sẽ bằng mọi giá trì hoãn thời gian, khất lần để tìm phương án trả hoặc trốn nợ. Chưa kể, quá trình phá sản kéo dài cũng khiến cho chủ nợ càng bị thiệt hại về kinh tế nhiều hơn. Theo kết quả công bố trong Doing Business Ranking 2008, Việt Nam xếp thứ 124 trên tổng số 178 nước trên thế giới do có thời gian giải quyết phá sản rất dài với mức trung bình là 5 năm 10. Thời gian giải quyết một vụ phá sản lâu như vậy, chưa kể khoảng thời gian trước khi mở thủ tục phá sản, thực sự là một khoản “thất thu” rất lớn đối với bất cứ một doanh nghiệp chủ nợ nào. 2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản Những tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với doanh nghiệp cũng như đối với nền kinh tế cho thấy sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Sự cần thiết này được giải thích bởi các lý do dưới đây: 9 Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 20 04”, ngày 29/12/2008 10 Website: http://www.doingbusiness.org/EconomyRankings/
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2