intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho "

Chia sẻ: Nguyen Hong Thai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:85

539
lượt xem
104
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia có nền văn hóa lớn, đặc biệt là thơ ca phát triển từ rất sớm, với hai tác giả tiêu biểu là Lý Bạch và Basho cùng với hai thể thơ tứ tuyệt và thơ Haiku là đỉnh cao của thi ca nhân loại. Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của một thời đại văn chương có một không hai không chỉ với Trung Hoa mà với toàn thế giới. Còn thơ haiku cũng được xem là viên ngọc quý của...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho "

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia có nền văn hóa lớn, đặc biệt là thơ ca phát triển từ rất sớm, với hai tác giả tiêu biểu là Lý Bạch và Basho cùng với hai thể thơ tứ tuyệt và thơ Haiku là đỉnh cao của thi ca nhân loại. Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của một thời đại văn chương có một không hai không chỉ với Trung Hoa mà với toàn thế giới. Còn thơ haiku cũng được xem là viên ngọc quý của xứ sở hoa anh đào. Cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng giữa hai nhà thơ cũng có nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Haiku là một thể thơ rất ngắn nên chúng tôi chọn thể thơ tứ tuyệt của Lý Bạch để trước hết so sánh sự tương đồng về mặt thể loại trong hai loại thơ này. Sau cùng là đối chiếu về góc độ thiên nhiên trong hai thể thơ này của hai nhà thơ để thấy sự giống nhau và khác nhau. Từ đó, ta sẽ hiểu hơn về vẻ đẹp thơ ca của hai đất nước này và có thái độ trân trọng đối với những giá trị tinh thần cao quý c ủa nhân loại. Đồng thời, đóng góp vào kho tàng lí luận văn học một cách nhìn, một cách cảm nhận, khám phá mới về thơ ca. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi chọn đ ề tài : Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho để nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu: Nền văn học Nhật Bản, Trung Quốc nói chung, thơ haiku và thơ tứ tuyệt nói riêng cũng từ khá lâu rồi được nhiều dịch giả, giới nghiên cứu và bạn đọc trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi với những điều kiện có thể cũng đã tiếp thu và tìm hiểu một số công trình nghiên cứu của các tác giả như Nguyễn Khắc Phi – Trương Chính, Nguyễn Bích Thuận, Trần Trung Hỷ, Nhật Chiêu, Nguyễn Sĩ Đại,…và một số bài viết khác có liên quan trên trang web: http//google.com.vn.
  2. 2 Tài liệu thứ nhất mà chúng tôi tiếp cận là “Văn học Trung Quốc, tập một” của Nguyễn Khắc Phi và Trương Chính. Ở tài liệu này, hai tác giả có đề cập đến Lý Bạch nhưng chỉ là về thân thế, sự nghiệp và nội dung tư tưởng trong thơ ông. Cuốn “Thơ Đường” của Nguyễn Bích Thuận giới thiệu, phân tích một số bài thơ của Lý Bạch và nêu lên tính chất lãng mạn trong thơ Lý Bạch. Cuốn “Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc” của Trần Trung Hỷ bàn về giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của thơ sơn thủy. Cuốn “Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868” của Nhật Chiêu nói về con đường đến với thơ ca của Basho và một số vẻ đẹp trong thơ haiku của ông. Cuốn “Nhật Bản trong chiếc gương soi” của Nhật Chiêu có nội dung cơ bản gần như tài liệu trên đã được đề cập (Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868). Và tài liệu “Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đ ường” của Nguyễn Sĩ Đại nói một cách khái quát về cấu trúc của thơ tứ tuyệt, biện pháp ngôn ngữ thơ tứ tuyệt… Qua một số tài liệu chính kể trên, chúng tôi nhận thấy rằng thiên nhiên trong thơ Lý Bạch và Basho đều được tác giả này hoặc tác giả khác nói tới nhưng chỉ là cái nhìn khái quát, chưa có sự khám phá sâu sắc và nhất là chưa so sánh giữa hai nhà thơ này. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi qua việc tiếp thu các công trình nghiên cứu của các tác giả này, cộng với sự tìm tòi, nghiên cứu sẽ đưa ra được những điểm giống và khác nhau về mặt nội dung cũng như nghệ thuật trên cơ sở so sánh thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: a. Mục đích: Giới thiệu đến độc giả một hướng nhìn, một cách tiếp cận, khám phá mới về thơ Tứ tuyệt đời Đường và thơ Haiku. Khám phá cái hay, cái đẹp của thơ ca Trung Quốc và Nhật Bản thông qua hai nhà thơ tiêu biểu là Lý Bạch và Basho.
  3. 3 Giúp người đọc nhận ra sự khác biệt trong cách miêu tả thiên nhiên của Lý Bạch và Basho. Khơi gợi lòng yêu mến thơ ca của mọi người đối với thơ Đường (đặc biệt là thơ Tứ tuyệt) và Haiku qua mối giao cảm giữa con người và thiên nhiên. b. Nhiệm vụ: Tìm ra điểm tương đồng và khác biệt về thiên nhiên trong thơ Tứ tuy ệt của Lý Bạch và Haiku của Basho. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: a. Đối tượng: Thiên nhiên trong thơ tứ tuyệt của Lý Bạch và haiku của Basho. b. Phạm vi: Thơ viết về thiên nhiên của Lý Bạch và Basho, đối với thơ Lý Bạch chúng tôi chỉ khảo sát thơ tứ tuyệt. Xét trên bình diện thiên nhiên dưới nhiều góc độ. 5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Nếu đề tài nghiên cứu thành côngchúng tôi sẽ: - Đóng góp vào kho tàng lí luận văn học hướng nhìn, một cách khám phá mới về nội dung cũng như hình thức của thơ ca. - Giúp hiểu sâu hơn về thơ Đường (thơ Tứ Tuyệt) và thơ Haiku. - Mở rộng và trải lòng mình với thế giới thế giới thiên nhiên. - Vận dụng vẻ đẹp tinh túy của thơ Đường (thơ Tứ Tuyệt) và thơ Haiku. trong quá trình sáng tác văn học của bản thân - Biết tìm hiểu và khai thác giá trị của một bài thơ Đường luật, thơ Haiku. - Là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy trong chuơng trình Ngữ văn phần văn học Trung Quốc. - Ngòai ra còn là định hướng gợi mở đối với việc tìm hiểu và nghiên cứu… 6. Phương pháp nghiên cứu: -Tập hợp tài liệu - Phân loại
  4. 4 - Quan sát - nhận diện - Khái quát hóa vấn đề - Tóm tắt khoa học - So sánh - đối chiếu - Phân tích và tổng hợp 7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn gồm có 3 phần: Chương 1: Con đường thơ của Lý Bạch và Basho. Chương 2: Sự gặp gỡ giữa thơ thiên nhiên của Lý Bạch và thơ thiên nhiên của Basho. Chương 3: Những nét khác biệt trong việc thể hiện thiên nhiên trong thơ Lý Bạch và Basho.
  5. 5 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CON ĐƯỜNG THƠ CỦA LÝ BẠCH VÀ BASHO 1. Cơ sở để so sánh Lý Bạch và Basho: 1.1. Sự tương cận giữa hai nền văn hóa, hai nền thơ ca Nhật Bản và Trung Quốc: Trong ba nền văn hóa lớn của phương Đông, nếu Ấn Độ được coi là duy linh, Trung Quốc thực tiễn, thì Nhật Bản lại rất duy mĩ, duy tình. Nếu Trung Quốc được biết đến như một trong những cái nôi của văn minh nhân loại thì Nhật Bản được biết đến bởi trang phục truyền thống là Kimono và hoa Anh Đào. Nếu người Trung Quốc tự hào rằng họ có Vạn lí trường thành dài vô tận thì người dân Nhật cũng biết cúi mình trước ngọn núi Phú Sĩ cao sừng sững. Trung Quốc là một quốc gia có bề dày lịch sử và văn hóa. Nền văn hóa ấy rất phong phú và đa dạng. Về triết học có chư tử bách gia, trong đó đáng chú ý nhất là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. Về nghệ thuật có thư pháp (nghệ thuật viết chữ Hán), hội họa, kiến trúc, điêu khắc… Còn Nhật Bản là một quần đảo xa xôi nơi đại lục, với các đ ảo chính nh ư Hokkaido, Shikoku, Kyushu,…nơi lưu giữ nhiều danh lam thắng cảnh đã khiến người ngoại quốc luôn nhớ đến Nhật Bản như sông Shinano, hồ Biwa,…Những vẻ đẹp lộng lẫy mà huyền ảo ấy đã hun đúc nên tâm hồn bao thế hệ văn nhân. Về văn hóa, có thể nói rằng Nhật Bản hay Trung Quốc đều giữ một vị trí cho riêng mình nhưng điều mà chúng ta có thể thấy là hai quốc gia này mang trong mình nhiều nét đẹp văn hóa từ xa xưa và có sức ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa chung của nhân loại. Ở khía cạnh văn học, Trung Quốc có thơ, từ, tiểu thuyết, hý khúc…Có thể thấy triết học cổ đại Trung Quốc là thành tựu tiêu biểu của văn hóa Trung Quốc, nhưng văn học lại là biểu hiện rực rỡ nhất mang tính dân tộc độc đáo của văn hóa Trung Quốc. Văn chương Nhật tuy không có cơ sở triết lí như văn học Trung Quốc có Bách gia chư tử, nhưng đó là một nền văn chương của tình cảm và thiên nhiên. Người ta
  6. 6 biết đến văn chương Nhật với các thể loại như Tanka, Haiku, kịch Nô và các loại văn xuôi đầy chất thơ. Cho đến ngày nay, sức ảnh hưởng lớn của Trung Quốc đến văn chương nhân loại vẫn là thơ Đường và Nhật Bản là thơ haiku. Và đại diện tiêu biểu c ủa nó là Lý Bạch và Basho. Như vậy, ta có thể thấy rằng văn hóa và văn chương của Trung Quốc và Nhật Bản có nhiều nét rất gần gũi, đó là cơ sở để ta so sánh giữa hai nhà thơ Lý Bạch và Basho. 1.2. Sự tương ngộ giữa hai tâm hồn thơ ca: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa TrungQuốc và Nhật Bản một phần nào đó đã làm nên nét tương cận trong tính cách của Lý Bạch và Basho. Cả hai nhà thơ đều có một tâm hồn cao đẹp, hướng về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người. Song, do sống ở hai thời đại khác nhau đã làm nên nét khác biệt trong tính cách, tâm hồn của hai nhà thơ. Lý Bạch là một con người có tâm hồn phóng khoáng,cởi mở, còn Basho thì dạt dào, sâu lắng. Ta có thể bắt gặp điều đó qua nội dung và tư tưởng thơ ca của Lý Bạch và Basho. 1.2.1. Tâm hồn phóng khoáng của Lý Bạch: Có thể nói rằng từ lúc thiếu thời cho đến lúc về già, trước sau Lý Bạch vẫn giữ vẹn một tâm hồn phóng khoáng, không thích bị ràng buộc. Điều đó ta có thể thấy qua thơ ca của ông và cả trong cách sống của ông nữa. Là một con người có tâm hồn phóng khoáng nên ông thích “rày đây mai đó” chứ không thích ngồi yên một chỗ. Năm 16 tuổi, ông cùng Đông Nham Tử đi ẩn tại phía nam núi Dân. Lúc 20 tuổi bắt đầu sống cuộc đời hiệp khách. Lý Bạch đi du lịch khắp nơi : viếng Thành Đô, thăm núi Nga Mi, Thanh Thành, rong chơi hồ Động Đình, lưu vực Tương giang, Hán giang, qua Giang Hạ đ ến Kim Lăng, Dương Châu, Nhữ Hải, vào Ngô Việt…Năm 726, ông đến An Lục (nay thuộc Hồ Bắc), thăm đầm Vân Mộng. Tại đây ông cưới vợ là cháu gái quan tể tướng hồi hưu Hứa Ngữ Sư, rồi tạm dừng chân phiêu lãng và bắt đầu nổi tiếng văn chương giữa tuổi 30.
  7. 7 Nhưng không ở yên được lâu, Lý Bạch đến Tương Dương, làm quen với nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên, người lớn hơn ông 10 tuổi. Từ đó ông tha thiết muốn đ ược hoạt động “kinh bang tế thế”. Lý tưởng của ông là “làm rõ l ời bàn c ủa Quản Trọng, Án Anh, tính mưu chước của đế vương, đem tài năng, trí tuệ nguyện giúp nhà vua để cho thiên hạ yên ổn, bốn bể thanh bình” (Đại Thọ sơn đáp Mạnh thiếu phủ di văn). Nhưng ông thường tự phụ, ví mình với Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng, thái độ “không chịu khom mình”, “không cầu cạnh ai”, “giao thiệp ngang hàng với chư hầu” nên ông không được giới chính trị hoan nghênh. Năm 741, ông đưa gia quy ến đến ở Duyện Châu (Sơn Đông). Năm đầu Thiên Bảo, Lý Bạch rời nhà xuống miền nam, đi chơi Cối Kê (Chiết Giang), ngụ tại Thiểm Trung với đạo sĩ Ngô Quân. Ngô Quân được vua triệu về kinh, đem Lý Bạch theo. ). Hạ tiến cử ông, vua Huyền Tông vời vào bệ kiến. Vua mến tài, cho ông vào điện Kim Loan, phụ trách việc thảo thư từ. Tuy nhiên, Trường An chỉ giữ gót chân của ông được ba năm. Từ giã Trường An, Lý Bạch đến Lạc Dương gặp Đỗ Phủ rồi gặp Cao Thích ở Biện Châu. Ba nhà thơ cùng đi chơi với nhau mấy tháng trời. Sau khi từ biệt Đỗ Phủ tại quận Lỗ, Duyện Châu (Sơn Đông), Lý Bạch lại đi du lịch các nơi. Phía Bắc ông lên Triệu, Ngụy, Tề; phía tây qua Bân, Ký, Thương, U; phía nam ông đặt chân đến song Hoài, sông Tứ, xuống tận Cối Kê... Những năm về sau Lý Bạch cũng phiêu bạt t ứ x ứ do hoàn cảnh chứ không phải do tâm muốn. Nhưng có thể nói rằng trong hơn nửa đời người thì Lý Bạch có cuộc sống tự tại và ít dừng chân lại bất kì nơi nào trong thời gian dài. Về tư tưởng thơ ca, Lý Bạch không chịu gò bó bởi quy luật ngôn từ. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho rằng: “Trong khi Lý Bạch phóng bút một cách phiêu diêu với những thể thơ tương đối tự do như cổ phong, nhạc phủ, ca hành thì Đỗ Phủ công phu trau chuốt những bài luật thi”[3; tr.163]. Nội dung thơ ca của Lý Bạch cũng một phần nào thể hiện được tâm hồn phóng khoáng của nhà thơ. Ông có thể làm thơ mọi lúc, mọi nơi và cả trong khi đang say rượu. Nhà thơ không tự trói buộc mình vào một đề tài hay bất cứ hình thức nào
  8. 8 của thơ ca. Đối với ông, bất cứ những gì của đời sống đều có thể đem vào thơ được, từ cây cỏ, hoa lá,…cho đến rượu, trăng đều là nguồn cảm hứng để Lý Bạch làm thơ. Và đặc biệt hễ rượu vào là thơ ra. Chính vì thế, ta có thể thấy trong thơ ca cũng như cách sống của Lý Bạch toát lên một tâm hồn phóng khoáng, tư tưởng dễ hòa hợp với đời. 1.2.2. Tâm hồn dạt dào của Basho: Cuộc đời Basho là những cuộc hành hương vô tận. Những con đ ường gió bụi qua các thị trấn, những đồng không mông quạnh, những hẻm núi và vực thẳm… Chính vì lẽ đó, mà người đời thường gọi ông là “thi sĩ lang thang”. Ông đi khắp đất nước Nhật và ở mỗi chỗ dừng chân ông đều trải lòng mình ra với mọi người. Có lần, trên đường du hành, Basho đi qua một thôn làng. Đó là một đêm trăng rằm – một nhóm dân làng ngồi ngoài trời uống rượu sake, ngắm trăng và cùng nhau soạn thơ haiku. Thấy Basho lại gần, họ mời khách lạ nhập bọn và làm một bài thơ về trăng rằm. Basho không ngần ngại, thế là bài thơ tuyệt tác về trăng ra đời: Vầng trăng non dại Theo tôi từ độ ấy Ai có ngờ đêm nay! Trong suốt hành trình thơ của Basho, người đọc có thể thấy ở Basho một nét đẹp của sự giản dị nhưng rất phong phú và đặc sắc. Ông thấu hiểu con người và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Từ những sự vật nhỏ bé, bình thường như chiếc lá, ánh trăng, phiến đá,…đều được đi vào thơ ông một cách rất tự nhiên. Rồi những kiếp người trôi nổi, những số phận bi thảm đã được nhà thơ cảm thông và chia sẻ. Trong suốt cuộc đời của mình, Basho luôn đi tìm vẻ đẹp cho thơ ca và khám phá ra nhiều điều mới lạ. Nhưng điều đáng quý nhất ở ông đó chính là một tâm h ồn dạt dào, luôn hướng về cuộc sống của con người – nơi mà vẻ đẹp thơ ca luôn hội tụ ở đó. Có thể nói rằng, Lý Bạch và Basho tuy là hai tác giả sống trong hai thời đ ại khác nhau nhưng tâm hồn và tính cách của hai thi nhân có nhiều đi ểm t ương đ ồng.
  9. 9 Cuộc đời của hai người đều trải qua những cuộc du hành và gặp nhiều trắc trở, thăng trầm. Song, những trở ngại đó không làm cho Lý Bạch và Basho chùng bước mà trái lại, càng thôi thúc họ tiến về phía trước. Chính điều này đã làm nên một Lý Bạch có tâm hồn phóng khoáng, cởi mở và một Basho có tâm hồn dào dạt, luôn khát khao giao cảm với đời. 1.3. Sự tương đồng của tinh thần phương Đông: Lý Bạch và Basho là hai đại diện tiêu biểu cho nền văn học Trung Quốc và Nhật Bản. Đến từ nơi xứ tuyết, nhưng tâm hồn Basho không hề giá lạnh, trái lại trong ông luôn dào dạt tình thương đối với mọi kiếp người trong xã hội. Thơ Basho có thể ví như một viên đá quý mà chỉ có những chuyên gia mới thẩm định được giá trị của nó. Còn Lý Bạch là người thích ngao du sơn thủy, tinh thần lúc nào cũng mang một hoài bão lớn, mộng “tế thế kinh bang”. Có thể nói rằng Basho là con người của sự trầm lặng, cốt cách mang dáng vẻ thiền, còn Lý Bạch mang dáng vẻ thanh thoát. Thêm vào đó là tính cách ngạo nghễ, phóng khoáng của Lý Bạch đã tạo cho nhà thơ một cái gí đó như thoát khỏi trần thế. Chính vì vậy mà người đời phong tặng danh hiệu cho ông là “thi tiên”. Mặc dù tính cách của hai nhà thơ hoàn toàn trái ngược nhau nhưng về cơ bản, ta có thể bắt gặp giữa hai nhà thơ có một mối giao lưu trên tinh thần c ủa phương Đông: đó là luôn hướng về ánh sáng, tương lai, về con người trong xã hội. 2. Con đường thơ của Lý Bạch: 2.1. Khái quát về thơ tứ tuyệt Đường: 2.1.1. Thơ Đường qua các giai đoạn: Nói đến thơ ca Trung Quốc, người ta nói đến thơ Đường. Đó là một thành tựu hết sức rực rỡ và độc đáo không chỉ của nền thơ ca cổ điển Trung Quốc mà còn của cả nền thơ ca nhân loại. Nếu về mặt lịch sử, đời Đường chia làm ba giai đoạn: Sơ – Thịnh, Trung, Vãn thì về mặt thơ ca được chia làm bốn: Sơ, Thịnh, Trung, Vãn. Sơ Đường (618 – 713) là giai đoạn chuẩn bị cho sự phát triển của thơ Đ ường về mọi mặt. Trong một thời gian, thi đàn thơ Đường còn mang nhiều tính chất ủy mị,
  10. 10 đồi phế của thi phong Lục Triều. Nhưng sau đó với sự đóng góp của bốn gương mặt: Vương Bột, Dương Quýnh, Lô Chiếu Lân, Lạc Tân Vương đã xuất hiện bộ mặt mới. Thịnh Đường (713 – 766) là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thơ Đường. Có thể nói rằng thơ Thịnh Đường đã đạt đến sự thống nhất hoàn mĩ giữa nội dung và hình thức. Các nhà thơ nổi tiếng của thời kì này như Vương Xương Linh, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch, Đỗ Phủ… Trung Đường (766 – 827) tuy không được huy hoàng như thời kì trước nhưng vẫn khá nổi bật với phong trào Tân Nhạc Phủ mà nhân vật trung tâm là Bạch Cư Dị. Thơ thời kì này tập trung phản ánh mâu thuẫn giai cấp và thể hiện sự đồng tình sâu sắc với nhân dân. Các nhà thơ tiêu biểu như Bạch Cư Dị, Lưu Trường Khanh, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên… Vãn Đường (827 – 904) không có những đỉnh cao như Lý Đỗ song vẫn có những nhà thơ tiến bộ và có tài năng. Có thể kể tên một số nhà thơ chính của thời kì này là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục… Xét về mặt giai đoạn, thơ Đường đã trải qua bốn thời kì như đã kể trên. Còn xét về khuynh hướng và phong cách, người ta chia thơ Đường làm bốn phái: 1. Phái biên tái: Đề tài chủ yếu là cuộc sống ở chốn biên cương. Hai nhà thơ tiêu biểu là Cao Thích, Sầm Than. 2. Phái điền viên: Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên là hai đ ại biểu lớn. Đ ề tài chủ yếu là cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã. 3. Phái lãng mạn: Thường thông qua ước mơ táo bạo để đối lập với hiện thực đen tối, phong cách hào phóng bay bổng. Đại diện của trường phái này là thi tiên Lý Bạch. 4. Phái hiện thực: Tiêu biểu là Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Nói như Khang Hữu Vi là “Chủ nghĩa tả thực chi tiết”. Đó là các trường phái chính và các nhà thơ chính. Còn thực ra thơ Đ ường rất phong phú nhiều màu lắm vẻ. Ta có thể lấy nhận định của Ngô Tất Tố để khái quát sự diễn biến của thơ Đường:
  11. 11 “Sơ Đường phần nhiều hay về khí cốt nhưng lối dùng chữ đặt câu chưa được trau chuốt cho lắm. Vãn Đường giỏi về từ tảo, lời đẹp, ý sâu nhưng lại thiếu phần hùng hồn, có khi còn bị cái tội ủy mị là khác. Duy có Thịnh Đường ở vào giữa hai thời kì ấy, cho nên chẳng những không có cái dở của hai thời kì kia, mà còn gồm cả cái hay của hai thời kì ấy nữa” [16; tr.65]. 2.1.2. Thể thơ tứ tuyệt: Trong thơ ca thế giới, ngắn hơn tứ tuyệt, ta đã biết có những câu thơ châm ngôn hai câu khắc trên đá của Ấn Độ cổ. Về thơ ba câu, ta thấy có thơ Haiku Nhật Bản nổi tiếng. Nhưng ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến một thể thơ mà có lẽ ai cũng biết, đó là thể thơ tứ tuyệt. Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn bát cú và ngũ ngôn. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuy ệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có bốn câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi bốn câu thơ đó là tứ tuyệt. Thơ tứ tuyệt không nhất thiết phải có niêm luật chặt chẽ, nhưng phải vận dụng được tối đa các thủ pháp nghệ thuật, phát huy thế mạnh của âm vận, đặc biệt là cách tổ chức hình ảnh để tạo ra một cấu trúc đa chiều vừa đủ sức phản ánh hiện thực, vừa mang tính khái quát cao, vừa ưu tiên cho sự tự thể hiện của sự vật của các quan hệ vừa có chỗ cho tâm trạng cá nhân, cá tính của đối tượng cũng nh ư c ủa tác giả. Thơ tứ tuyệt không chỉ là vốn quý của Trung Hoa mà còn là vốn quý của toàn nhân loại. Nghiên cứu tứ tuyệt Đường, bên vẻ nghiêm trang mĩ lệ của luật tuy ệt, có vẻ đẹp hồn nhiên tươi tắn của cổ tuyệt; không chỉ thấy tài năng độc đáo của mỗi nhà thơ Đường mà còn có thể tìm thấy bản chất của sáng tạo thơ ca. 2.2. Tiểu sử của Lý Bạch: 2.2.1. Thân thế: Lý Bạch (701 - 762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê quán ở Thành Kỉ, Lũng Tây ( nay ờ gần huyện Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc), tổ tiên vì mắc tội đi đày
  12. 12 đến ở Tây Vực. Ông sinh ở Toái Diệp, trưởng thành ở làng Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu ( nay là huyện Miên Dương, Tứ Xuyên), nên Lý Bạch vẫn thường xem Tứ Xuyên là quê hương của mình. Nhiều nhà nghiên cứu đoán định một cách có căn cứ rằng ông là con một thương nhân. Ít nhất, tình hình gia thế đó cũng làm cho Lý Bạch không bi tư tưởng phong kiến chính thống chi phối một cách nặng nề. Lúc nhỏ ông học nhiều, tư chất thông minh. Ngoài ra, còn học đấu kiếm. Từ hai mươi tuổi, nhà thơ xuống núi Nga Mi, “ từ giã cha mẹ, quê hương, chống kiếm viễn du”. Trong mười sáu năm tiếp theo ( 726 – 742 ), ông đi du l ịch r ất nhi ều n ơi. Đi thưởng ngoạn phong cảnh, một phần để tìm tiên học đạo, song chủ yếu là đ ể mở rộng giao du, gây thanh thế, tạo điều kiện cho việc tham dự vào trường chính trị, lập nên công danh sự nghiệp. Vì thế, ông thường chơi thân với những người có thanh thế, nói rõ chí nguyện mình, những mong họ tiến cử. Song ông đã thất vọng. Bọn chúng chẳng những không hiểu hoài bão chính trị của ông mà có lúc, do tính cách ngang tàng phóng túng, ông còn suýt bị hãm hại. Tuy hoạt động trên không đưa lại kết quả gì song đã làm cho ông bước đầu thấy được thấy bộ mặt thật của bọn quan l ại đ ương thời. Năm 742, Lý Bạch được đạo sĩ Ngô Quân tiến cử lên Huyền Tôn. Được triệu về kinh, Lý Bạch rất phấn khởi, những tưởng ước mơ “ đem tài năng trí tuệ giúp nhà vua để cho thiên hạ yên ổn, bốn biển thanh bình” sẽ được thực hiện. Lúc đầu, quả thật Lý Bạch đã được nhà vua đặc biệt ưu đãi và ông cũng đã từng l ấy đó làm điều đắc ý. Dưới sự chi phối của tư tưởng ấy, Lý Bạch đã viết một số bài thơ miêu tả sinh hoạt của cung đình như tám bài “ Cung trung hành lạc từ”. Song, là người có lương tri, Lý Bạch không chìm đắm trong cuộc sống dung tục ấy. Ông dần thấy rõ bộ mặt thực của bọn vua quan trong triều, đặc biệt là thấy rõ Huyền Tôn triệu ông về kinh không phải là vì trọng dụng kẻ hiền tài, chẳng qua là để làm môt thi nhân bồi bút ca công tụng đức mà thôi. Lý Bạch bàng hoàng, có phần vỡ mộng. Tâm tình bi ph ẫn, ông đành phải cùng với các bạn tri âm uống rượu ngâm thơ cho khuây khỏa. Giờ đây,
  13. 13 ông lại càng “ ngông”, “ ngông” để phát tiết nỗi bất bình. Có biết bao giai thoại nói về cái “ ngông” của ông thời kì này. Và Đỗ Phủ, trong một bài thơ dài, đã khắc họa sinh động hình tượng của ông: Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên, Trường An thị thượng tửu gia miên. Thiên tử hô lai bất thướng thuyền, Tự xưng thần thị tửu trung tiên. ( Lý Bạch uống một đấu rượu thì làm trăm bài thơ. Ngủ say trong quán rượu trên chợ Trường An. Thiên tử gọi về vẫn không chịu lên thuyền, còn bảo: Thần là tiên trong làng rượu). Đúng như Lỗ Tấn nhận xét, hẳn là nhà thơ “giả vờ ngông” và giả vờ ngông được là vì “ có những phút ông không ngông tí nào”. Với một sự tỉnh táo đáng khẳng định, chưa đầy ba năm, ông chủ động xin nhà vua ra khỏi triều. Thời gian ở Trường An tuy ngắn song đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tư tưởng Lý Bạch. Mùa xuân năm Thiên Bảo thứ ba (744) rời Trường An đ ến Lạc Dương, lần đầu tiên ông làm quen với Đỗ Phủ, trẻ hơn ông mười một tuổi. Sau đó lại gặp Cao Thích ở Biện Châu, rồi ba người cùng đi chơi với nhau mấy tháng liền ở những vùng lân cận. Mùa thu năm đó, cả ba nhà thơ lại tụ họp ở nhà Lý Ung, thái thú Bắc Hải. Trong bài thơ Dữ Lí thập nhị đồng tầm Phạm thập ẩn cư, Đỗ Phủ đã kể lại quan hệ mật thiết giữa ông với Lý Bạch bấy giờ ra sau: Tôi cũng khách xa quê, Coi bác như anh ruột. Đêm say ngủ chung chăn, Ngày khoác tay dạo bước. Hai nhà thơ vĩ đại sáng chói nghìn năm đó, lần này ở chung với nhau khoảng chừng nủa năm, trở thành đôi bạn keo sơn và trở thành một giai thoại trong l ịch s ử văn học. Trong vòng mười năm sau khi từ biệt Đỗ Phủ, Lý Bạch lại đi du lịch phương Nam như Dương Châu, Kim Lân, Việt Trung, Tuyên Thành, Thu Phố; du lịch phương Bắc như Hàm Đan, U Châu; du lịch miền Tây như Lương Uyển, Cao Sơn, Tương Dương …, cuối cùng ẩn cư ở Bình Phong Điệp thuộc Lư Sơn.
  14. 14 Năm đầu Chí Đức (756) đời Đường Túc Tông (Lý Hanh), tức năm thứ hai sau khi An Lộc Sơn nổi loạn, em Lý Hanh và Vĩnh vương Lý Lân chống lại lệnh anh, dẫn thủy quân từ Giang Lăng đi về phía đông, lúc qua Tầm Dương (nay là Cửu Giang, Giang tây), hâm mộ tải danh Lý Bạch, y bẻn mời ông ra làm liêu tá. Bấy giờ Lý Bạch chưa biết giả tâm của Lý Lân định gây nội chiến và cướp ngôi vua của Túc Tông, cho rằng Lý Lân kéo quân từ vùng Giang Hoài lên miền Bắc chống giặc. Vả lại, sau khi rời Trường An, Lý Bạch vẫn còn ham hoạt động chính trị, gặp cơ hội như thế, tất nhiên ông nhận lời. Mùa xuân năm sau, quân Lý Lân bị quân của Túc Tông đánh tan ở Đan Dương, Lý Bạch từ Đan Dương chạy về Túc Tùng, rồi bị bắt gaim ở Tầm Dương. Sau khi bị ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư và một số người nửa thẩm vấn xong, cho rằng tội nhẹ, nên thả ra và mời ông làm tham mưu quân s ự; nh ưng chính quyền trung ương của Túc Tông vẫn bắt ông đi đày Dạ Lang ( nay thuôc huyên Đồng Tử, Qúy Châu). Lúc này, Lý Bạch đã năm mươi tám tuổi. Đỗ Phủ ở Tần Châu ( nay là Thiên Thủy) khi biết tin này, lần lượt làm nhiều bài thơ tưởng nhớ Lý Bạch, như các bài Mộng Lý Bạch nhị thủ, Thiên mạt hoài Lý Bạch…không những tình cảm chân thành, xót xa rung độn lòng người, mà còn nói lên cảnh ngộ không may của ông nữa. Năm Càn Nguyên thứ hai ( 759 ), Lý Bạch dọc theo Trường Giang đi về phía tây đến lưu đày ở Dạ Lang nhưng vừa đến Vu Sơn, Tứ Xuyên thì được lệnh đại xá; ông cũng ở trong số đó, lại trở về Tầm Dương. Năm Thượng Nguyên thứ hai (761), ông ở Đương Đồ, nghe nói thái úy Lý Quang Bật dẫn quân trăm vạn đến Lâm Hoài truy kích Sử Triều Nghĩa, tin đó lại khuấy động nhiệt tình lòng yêu nước và ý chí hoạt động chính trị của ông, nên ông quyết định tham gia quân đội của Lý Quang Bật. Nhưng mới đến Kim Lăng thì bị ốm phải quay về. Năm Bảo Ứng thứ nhất, Lý Bạch sáu mươi hai tuổi, ông chết vì bệnh ở nhả chú họ là Lý Dương Băng, huyện lệnh Đương Đồ, kết thúc cuộc đời cùng khổ và phiêu bạc của ông. 2.2.2. Sự nghiệp: Lý Bạch là nhà thơ lớn đời Đường, là một ngôi sao sang chói trên thi – văn – đàn Trung Quốc. Người ta gọi ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch), Lý Dương Băng trong “Thảo đường tập tự ” đã có câu nói bất hủ về tài Lý Bạch “Thiên tài đ ộc bộ,
  15. 15 duy công nhất thân” (hàng ngàn năm chỉ có một mình anh mà thôi ) Lý Bạch đã để lại hơn một ngàn bài thơ có ảnh hưởng sâu rộng trong văn học Trung Quốc. Và được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, cũng như nhiều học giả trong nhân gian, cũng như nhiều học giả trên thế giới đã dày công nghiên cứu thi ca Lý Bạch. Thơ của ông r ất tự nhiên, không chải chuốt, gọt dũa mà ý thơ sâu sắc, có sức truy ền c ảm quy ến rũ một cách lạ lùng. Lý Bạch là thiên tài của những bài thơ Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ), ngắn gọn, nhưng dô đọng, hàm súc, là những tuyệt tác bất hủ được lưu truyền trong nhân gian từ đời này qua đời khác. Khi ông mất, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì nhà thơ làm khoảng 20.000 bài, nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1.800 bài. Thơ ông viết đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi đau khổ của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của ngươi cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng…Đề tài nao cũng là tuyệt tác. Lý Bạch là người có tài, nhưng lại ít may mắn trên đường công danh sự nghiệp. 2.3. Quá trình đến với thơ ca của Lý Bạch: Quê hương Lý Bạch là nơi có phong cảnh hùng vĩ nhất Trung Quốc, là nơi tụ họp của các hảo hán hiệp khách xưa kia, là nơi sản sinh những truyện truy ền kì nổi tiếng. Đó là nhân tố ảnh hưởng đến tâm hồn phóng khoáng của ông ngay từ nhỏ. Năm 25 tuổi ông từ giã cha mẹ “chống kiếm đi viễn du”. Ông ngao du kh ắp nơi, chính vì vậy trong thơ, ông miêu tả cảnh hùng vĩ tráng lệ của Trung Quốc r ất hay. Thời gian này thơ Lý Bạch mang dáng vẻ thanh cao và thoát tục. Năm 42 tuổi, nhờ Ngô Quân tiến cử, ông được chức Hàn lâm học sĩ nhưng chỉ được nhà vua sử dụng với mục đích ca ngợi công đức, ca ngợi mỹ nhân. Sau ba năm chán ngán, Lý Bạch rời cung tiếp tục hành trình của mình.
  16. 16 Sau lần bị bắt trong cuộc loạn An Sử, Lý Bạch nhận ra bản chất thối nát c ủa triều đình và càng hiểu thêm về đời sống xã hội. Thơ ông lúc này có chuyển biến lớn về mặt nội dung, ông hướng về con người của những tầng lớp dưới đáy trong xã hội. Tuy vậy, những yếu tố tiêu cực như tư tưởng chán đời, bất mãn cũng nảy sinh và phát triển. Ở góc độ nào đó, nó có ảnh hưởng tới thơ ông. Có thể nói rằng quá trình đến với thơ ca của Lý Bạch là vô cùng phức tạp. Nhưng tổng quát thì tư tưởng của thơ ông vẫn là cảm xúc lãng mạn của một con người phóng khoáng.
  17. 17 3. Con đường thơ của Basho: 3.1. Khái quát về thơ haiku: 3.1.1.Thơ haiku là gì? Dân tộc Nhật Bản có hai thể thơ chính là tanka và haiku. Thơ haiku là một thể thơ rất Nhật Bản, là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang. Cho nên, nói đến văn học Nhật Bản người ta không quên nói đến thơ haiku. Ngày nay, thơ haiku không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà nó trở thành thể thơ của quốc tế - một thể thơ của mọi người cảm nhận và sáng tác. Vậy từ đâu có tên gọi là haiku ? Haiku có nghĩa là gì ? Như chúng ta đã biết thể thơ khởi đầu của dân tộc Nhật bản là thể tanka (tức Đoản ca hay còn gọi là Wa-ka hay Hòa ca) với 31 âm tiết, ngắt nhịp theo kiểu: 5-7-5-7-7 và bài thơ tanka sau đây được xem là bài thơ mở đầu cho thơ ca Nhật Bản: Tám tầng mây dựng Ở xứ Izumo Ta làm tám tầng mây xa Tám tầng mây ấy Che chở người vợ ta. Là bài thơ mà thần Susanoo làm tặng người vợ yêu quý của mình là nàng Kushinada. Theo H. H. Honda thì một bài thơ tanka tựa như "Hoa anh đào ẩn hiện trong sương mờ mùa xuân". Còn thơ haiku thì ngắn hơn nữa. Từ haiku theo âm Hán Việt là "hài cú". Tên gọi này không xuất hiện vào thời Basho mà về sau mới có. Th ử nhìn vào một bài thơ haiku sau đây sẽ dễ hiểu hơn: Dậy đi thôi Cùng ta kết bạn Cánh bướm ngủ say ơi ! Đấy là một bài thơ rất ngắn. Trong tiếng Nhật, cả bài chỉ có 17 âm ti ết (17 onji), đôi khi cũng không nhất thiết phải thế. Một bài thơ 17 âm tiết như thế, trước đây người ta gọi là hokku (phát cú) tức là thơ khởi xướng của một bài renga (liên ca). Thơ renga được giải thích như sau:
  18. 18 Thơ renga là thơ xướng họa có từ rất lâu đời trong văn học Nhật. Từ một bài tanka 31 âm tiết, 5 dòng được tách ra hai phần để cho mọi người xướng thơ với nhau (phần ba câu đầu gọi là thượng cú, phần hai câu sau gọi là hạ cú). Renga ra đời là như thế. Ví dụ như một bài thơ trong Shui shu (Thập di tập 997). Qua rồi nửa đêm Chờ nhau chi nữa Cho thêm ưu phiền Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka với ba câu như trên với ý trách móc người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn. Muốn gặp em trong mộng Nhưng rồi anh ngủ quên. Một bài tanka được sáng tác như trên gọi là renga. Giới quý tộc thời Heian rất thích lối sáng tác như thế và trở thành cuộc vui xướng thơ của họ. Sang thời Mạc Phủ Kamakura thì thể renga từ một bài tanka như thế được nối dài ra thành một chuỗi thơ vô tận với hàng chục đoạn, hàng trăm đoạn... do các nhà thơ họa nối theo nhau. Đến thế kỷ XIV, lý luận về thơ renga ra đời với quy tắc chặt chẽ do nhà thơ tanka Nijo Yoshimoto nổi tiếng lúc bấy giờ biên soạn. Bước sang thế kỷ XV thì thơ renga đã vươn lên đến đỉnh cao thực sự c ủa mình. Thơ renga trở thành niềm say mê đế mức được tôn thờ như một tín ngưỡng "thiêng liêng hóa". Người ta mua các bài thơ renga từ các nhà thơ đem đến vườn chùa để cầu phúc trước khi đi chiến đấu hay sinh nở. Cũng trong giai đoạn này các trường phái renga ra đời. Đó là phái Ushin (hữu tâm) theo phong cách tao nhã của thơ ca truyền thống và phái Mushin (vô tâm) của sự dung tục và đùa cợt trong thơ. Ban đ ầu phái Ushin chiếm ưu thế với đỉnh cao là Sogi. Lúc này, đoạn thơ khởi xướng phần thượng cú gọi là hokku viết với hình thức 17 âm tiết (5-7-5) đã chiếm một vị trí đ ặc biệt thường do các nhà thơ nổi tiếng soạn trước. Phần còn lại dành cho các đối tác khác thích xướng họa. Về sau đến thời Edo thì phái Mushin lại tạo được danh thế với thể renga trào lộng còn gọi là haikai no renga (bài hài liên ca), gọi tắt là haikai, do tầng
  19. 19 lớp thị dân thích đùa cợt phóng túng. Đồng thời thể haikai cũng dễ sa vào sự dung tục chắp nối, gượng ép thiếu tâm hồn thơ. Chính Soin (1605-1682) đã góp phần đưa haikai ra khỏi sự dung tục và giải trí đơn thuần. Rồi định mệnh lại an bài haikai cho Basho. Thiên tài Basho đã đưa haikai thoát khỏi lối chơi tầm thường bằng sự dung hợp cả cái vô tâm lẫn hữu tâm, sự trào lộng đời thường của haikai hiện đại với sự tao nhã tâm linh của renga cổ điển vào trong 17 âm tiết của một bài hokku. Từ đ ấy, hokku không phụ thuộc vào renga nữa, nó trở thành một thể thơ độc lập và có tên là haikai hay haiku. Tên gọi này có từ thời nhà thơ Shiki (1867-1902) trở đi. Haiku là do cách ghép thu gọn của hai từ haikai và hokku lại thành. Có thể nói renga đã làm nảy sinh một thể thơ độc đáo là haiku. Thơ haiku là một thể thơ độc đáo mang phong vị Thiền. Mỗi bài thơ được ví như một chiếc gương soi rọi thiên nhiên của bốn mùa và tâm hồn của nghìn đời. Từ đấy, thơ haiku phổ biến trên khắp thế giới nên các bài thơ 17 âm tiết như thế của Basho và người cùng thời với ông vẫn gọi tên ấy. Tên gọi haiku rất phổ biến trên sách báo tiếng Anh. Các từ haiku, hokku, haikai vẫn dược dùng lẫn lộn. Khi đ ến Việt Nam cũng thế, đặc biệt, ở trường Phổ thông gọi là haiku. Thơ haiku khi dịch ra tiếng nước ngoài thường được xếp thành ba dòng trông như ba câu. Còn trong chữ Nhật thì một bài haiku thường nằm gọn trên một dòng. Đây là nét riêng bi ệt c ủa th ơ haiku không thể lẫn với bất cứ thể thơ nào khác. Thơ haiku là khúc ca của bốn mùa. Mỗi bài thơ haiku đều có quí ngữ (kigo hay từ ngữ báo hiệu mùa). Nội dung thơ cô đọng trong cái cực ngắn. Thơ haiku chỉ miêu tả những cái gì ở thực tại và lặng thinh. Khoảng lặng ấy là "khoảng trống" của "chân không". Ở thực tại là sự vật xuất hiện ngay thời khắc tinh khôi nhất như một đóa hoa triêu nhan: A ! Hoa asagao Chiếc gàu vương hoa bên giếng Đành xin nước nhà bên. (Chiyo)
  20. 20 Thơ haiku lấy thiên nhiên làm chủ đề và bộc lộ cảm xúc cô tịch (sabi), aware (bi ai), wabi (đà), karumi (khinh). Thơ haiku còn thể hiện triết lí về "thiên nhiên". Tác giả Nhật Chiêu cảm nhận về thơ haiku như sau: "Một bài thơ haiku có thể chứa ba chiều của vũ trụ. Còn chiều thứ tư để dành cho người đọc". Hay nhà thơ Paul (Pháp) cũng nói: "Tôi viết nửa bài thơ. Người đọc viết phần còn lại." Đó là những nội dung mà thơ haiku diễn đạt. Vậy, thơ haiku có nguồn gốc từ thơ ca truyền thống Nhật Bản. 3.1.2. Hình thức và sự phát triển của thơ haiku: Thơ haiku có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển thật mạnh mẽ. Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII, nó đạt tới đỉnh cao với Basho. Sau Basho còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn haiku làm "con đường" để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một lối sống, vào một "đạo" và mang những triết lí sâu sắc gọi là "hài cú đạo" (haikudo) hay "haiku no michi". Đó là các nhà thơ Buson (1716-1784), Issa (1762-1826), Shiki (1867-1902), Onitsura (1660-1738),... Đối với họ sáng tác thơ haiku không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ haiku đến với họ bằng "con đường", tức cái đạo mà thơ haiku chứa ở trong nó. Đấy là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc đời như Tagore đã từng nói: "Trong vội vã, ta bỏ quên những bông hoa bên hàng giậu ven đường...". Hiện nay, Nhật Bản "tiếp tục" phát triển thơ haiku. Bài thơ haiku sau do Tiến sĩ Đoàn Lê Giang dịch từ thơ của tác giả Ozakihosai trong báo Tài hoa trẻ số 325: Chỉ một tiếng ho thôi Cũng một con người. Thay vì haiku cổ điển gồm ba câu nhưng ở đây tác giả chỉ dùng hai câu như để thể nghiệm cho thơ ở bước hiện đại. Xét đến cùng thì thơ haiku vẫn đến với mọi người bằng tinh thần Thiền tông đề cao thiên nhiên, đề cao cái đẹp thô sơ, mộc mạc, tầm thường, nhỏ bé nhưng chẳng tầm thường chút nào. Thơ haiku được mọi người đón nhận nồng nhiệt. Người ta dịch thơ haiku từ tiếng Nhật, rồi nghiên cứu, khám phá những gì mà linh hồn thơ haiku chất chứa. Ở
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2