intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Thực hiện tăng trưởng vì người nghèo”

Chia sẻ: Kusudo Nicky | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:71

159
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu này thuộc một bộ tài liệu nghiên cứu về 14 quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ Latin và Đông Âu. Bộ nghiên cứu này là một phần của chương trình làm việc về “thực hiện tăng trưởng vì người nghèo” (OPPG), một sáng kiến chung của AFD, BMZ (GTZ, Ngân hàng Phát triển KfW ), DFID và Ngân hàng Thế giới. Chương trình làm việc về OPPG nhằm tư vấn tốt hơn cho các chính phủ về những chính sách hỗ trợ cho sự tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng. Các sản phẩm khác của sáng kiến...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Thực hiện tăng trưởng vì người nghèo”

  1. Thực hiện tăng trưởng vì người nghèo Nghiên cứu chung của AFD, BMZ (GTZ, Ngân hàng phát triển KfW ), DFID, và Ngân hàng Thế giới Nghiên cứu trường hợp của Việt Nam Rainer Klump và Thomas Bonschab Tháng 10/2004 1
  2. Mục lục CHƯƠNG 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHUNG VÀ KHUÔN KHỔ CHO VIỆC PHÂN TÍCH TĂNG TRƯỞNG VÌ NGƯỜI NGHÈO 1.1 Điều kiện lịch sử cho các cuộc cải cách kinh tế đổi mới năm 1986 1.2 Xu hướng chung về phát triển, giảm nghèo và bất bình đẳng 1.3 Khuôn khổ nghiên cứu cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam CHƯƠNG 2 SỰ PHÂN BỐ CỦA TÌNH TRẠNG NGHÈO VÀ CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG VÌ NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM 2.1 Sự phân bố tình trạng nghèo ở Việt Nam 2.2 Đo lường sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam 2.3 Động lực của sự tăng trưởng ở Việt Nam CHƯƠNG 3 CÁC YẾU TỐ VÀ CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG TỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 3.1 Các chính sách về yếu tố thị trường và các yếu tố sản xuất 3.2 Các ngành sản xuất và chính sách đối với các ngành sản xuất 3.3 Sự phát triển nông thôn và sự tăng trưởng ở thành thị 3.4 Chi tiêu vì người nghèo 3.5 Các chính sách vĩ mô 3.6 Những thay đổi về cơ chế CHƯƠNG 4 SỰ ĐÁNH ĐỔI GIỮA TĂNG TRƯỞNG VÀ TĂNG TRƯỞNG VÌ NGƯỜI NGHÈO 4.1 Tự do hoá thương mại hơn nữa 4.2 Sự tăng trưởng không đồng đều giữa các khu vực 4.3 Chi tiêu công cho các khu vực nông thôn 2
  3. CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN CHO CHÍNH SÁCH 5.1 Đầu tư vào nguồn nhân lực 5.2 Hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân 5.3 Xử lý vấn đề di dân nội bộ 5.4 Thực hiện quá trình phân quyền TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
  4. Tài liệu này thuộc một bộ tài liệu nghiên cứu về 14 quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ Latin và Đông Âu. Bộ nghiên cứu này là một phần của chương trình làm việc về “thực hiện tăng trưởng vì người nghèo” (OPPG), một sáng kiến chung của AFD, BMZ (GTZ, Ngân hàng Phát triển KfW ), DFID và Ngân hàng Thế giới. Chương trình làm việc về OPPG nhằm tư vấn tốt hơn cho các chính phủ về những chính sách hỗ trợ cho sự tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng. Các sản phẩm khác của sáng kiến về OPPG bao gồm một báo cáo tổng hợp chung, một ghi nhận về các phương pháp nghiên cứu khi phân tích tác động phân phối của sự tăng trưởng, các nghiên cứu kinh tế lượng đa quốc gia, các tóm tắt nghiên cứu trong lĩnh vực này và sáu tài liêu tổng hợp về: các chính sách cơ cấu và kinh tế vĩ mô, thể chế, thị trường lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, chi tiêu vì người nghèo, và giới. Các nghiên cứu trường hợp về các quốc gia và các tài liệu tổng hợp sẽ được công bố vào năm 2005. Toàn bộ các nghiên cứu trường hợp về các quốc gia có thể tìm thấy trên trang web của các tổ chức tham gia: BMZ www.bmz.de, DFID www.dfid.gov.uk, GTZ www.gtz.de, Ngân hàng Phát triển KfW www.kfw- entwicklungsbank.de/EN/Fachinformationen và Ngân hàng Thế giới www.worldbank.org. Để biết thêm thông tin, xin liên hệ: AFD: Jacky Amprou Amprouj@afd.fr BMZ: Birgit Pickel Pickel@bmz.bund.de DFID: Manu Manthri M-manthri@dfid.gov.uk và Christian Rogg C- rogg@dfid.gov.uk GTZ: Hartmut Janus Hartmut.Janus@gtz.de Ngân hàng Phát triển KfW : Annette Langhammer Annette.Langhammer@kfw.de Ngân hàng Thế giới: Louise Cord Lcord@worldbank.org và Ignacio Fiestas Ifiestas@worldbank.org 4
  5. Thomas Bonschab* và Rainer Klump* Thực hiện tăng trưởng vì người nghèo: Nghiên cứu trường hợp Việt Nam Bản dự thảo cuối cùng 9/2004 (sửa đổi) Chương 1 Giới thiệu Ba mươi năm sau chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc, Việt Nam được coi là một “con hổ” Châu Á tiềm năng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và những thành công nổi bật trong việc giảm nghèo. Tuy nhiên, những thành tựu này chỉ có được sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản nắm quyền thực hiện những cải cách kinh tế cơ bản từ giữa những năm 80 để đối phó với sự khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Dưới tên gọi « đổi mới », các chính sách cải cách nhằm vào việc tự do hoá kinh tế trong nước và tái hội nhập với bên ngoài để bắt kịp với các nước Châu Á láng giềng đã thành công dù những cải cách này chưa được hoàn tất. Trong tài liệu này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về những vấn đề sau: - Cách thức đo lường sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam. - Các nhân tố và chính sách tác động tới sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam. - Tại sao sự chênh lệch tăng trưởng vì người nghèo phân bố theo khu vực địa lý có thể phát sinh - Những triển vọng cho sự tăng trưởng vì người nghèo tiếp theo ở Việt Nam trong bối cảnh đang thay đổi liên tục. * Trường Đại học Tổng hợp Frankfurt. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn Julie Litchfield và Phạm Thái Hưng (Đại học Tổng hợp Sussex) và Patricia Prüfer (Đại học Tổng hợp Frankfurt) cho sự hỗ trợ trong việc xử lý các số liệu về các hộ gia đình ở Việt Nam và Lê Đăng Doanh (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Hà Nội), Nguyễn Thị Tuệ Anh (Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương, Hà Nội) vì đã chia sẻ với chúng tôi những kinh nghiệm sâu rộng về số liệu và các ảnh hưởng của cải cách kinh tế Việt Nam. 5
  6. 6
  7. Các phụ lục Phụ lục 1: Các khái niệm về chuẩn nghèo ở Việt Nam Phụ lục 2: Diễn biến tình trạng nghèo ở Việt Nam Phụ lục 3: Tính toán số liệu điều tra các hộ gia đình Phụ lục 4: Tính toán sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng Phụ lục 5: Các phương pháp được sử dụng trong việc tính toán mức độ đánh đổi 7
  8. Danh sách các bảng Bảng 1.1: Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với các nước láng giềng quan trọng Bảng 1.2 (a) Các chỉ số tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ 1980-2001 Bảng 1.2 (b) Các chỉ số về nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1990-2002 Bảng 1.2 (c) Các chỉ số về sự bất bình đẳng ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 Bảng 2.1 (a): Sự phân bố theo không gian của tình trạng nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam Bảng 2.1 (b) Sự phân bố theo dân tộc và giới tính của tình trạng nghèo ở Việt Nam Bảng 2.2 (a) Tốc độ tăng trưởng chung vì người nghèo Bảng 2.2(b) Mức độ co giãn của tình trạng nghèo với tăng trưởng Bảng 2.2 (c) Phân tích sự thay đổi tình trạng nghèo (hiệu ứng trung bình) của Datt-Ravallion Bảng 2.2(d) Phân tích kết quả giảm nghèo theo phân bố không gian (theo vùng và khu vực) của Huppi và Ravallion Bảng 2.2 (e) Tốc độ tăng trưởng vì người nghèo ở thành thị và nông thôn Bảng 2.2(f) Tỷ lệ tăng trưởng vì người nghèo theo các vùng Bảng 2.3 (a) Hạch toán tăng trưởng cho Việt Nam giai đoạn 1980-2002 Bảng 2.3(b) Những thay đổi cơ cấu trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986- 2001 Bảng 2.3 (c) GDP và vốn đầu tư theo hình thức sở hữu giai đoạn 1991-2000 Bảng 3.1 (a) Tỷ lệ lao động trên diện tích đất trong nông nghiệp ở một số nước Châu Á 1980-2000 Bảng 3.1 (b) Tỷ lệ đến trường và mức độ đầu tư vào nguồn nhân lực ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 Bảng 3.2 Sự co giãn theo lao động của các ngành và năng suất lao động giai đoạn 1986-2001 8
  9. Bảng 3.3 Tình trạng di dân theo giới và trình độ học vấn Bảng 3.5 Hàm lượng các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1981-1998 Bảng 4.6 Đại diện của phụ nữ trong hệ thống chính trị của Việt Nam giai đoạn 1994-1999 Bảng 4.1 Tác động của tự do hoá thương mại đến tình trạng nghèo (với giả thiết Chính phủ tăng thuế nội địa để giữ nguyên nguồn thu) Bảng 4.3 Tác động của chi tiêu công tới tăng trưởng và tình trạng nghèo ở khu vực nông thôn Việt Nam Danh sách các hình Hình 1.1 Những xu hướng chính về tăng trưởng, giảm nghèo và sự bất bình đẳng Hình 1.2 Khuôn khổ nghiên cứu chung cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo Hình 2.1 (a): Sự chênh lệch về tốc độ giảm nghèo giữa các vùng (tính theo tỷ lệ %) Hình 2..1 (b): Tỷ lệ nghèo giữa các dân tộc năm 2002 Hình 2.2 (a) Đường cong về tác động của tăng trưởng Hình 3.2 Sản lượng gạo và lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam 1986-2001 Hình 4.2 Dự báo về tình trạng nghèo giai đoạn 2000-2010 9
  10. Chương 2 Bối cảnh lịch sử, xu hướng phát triển chung và khuôn khổ cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo 1.1 Điều kiện lịch sử cho các cuộc cải cách kinh tế đổi mới năm 1986 Việt Nam có diện tích 331.000 km2 trải dài từ Trung Quốc ở phía Bắc xuống Vịnh Thái Lan ở phía Nam. Với dân số 79,7 triệu người năm 2002, mật độ dân số bình quân là 240 người/km2. Việt Nam được chia làm 3 miền Bắc, Trung, Nam với 64 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương với 7 khu vực là: Miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, (bao gồm cả Hà Nội), duyên hải bắc trung bộ, duyên hải nam trung bộ, Tây Nguyên, đông nam bộ (bao gồm cả trung tâm tài chính lớn nhất là TP. HCM- trước đây là Sài Gòn) và đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam có nhiều dân tộc với dân tộc Kinh chiếm đa số. Dân tộc Kinh có khoảng 65 triệu người và sống ở tất cả các tỉnh dù họ tập trung đặc biệt là vùng đồng bằng và các trung tâm thành thị. Hơn 10% dân số còn lại trên 50 dân tộc thiểu số, chủ yếu là sống ở vùng nông thôn (Bhushan và các công sự, 2001). Nhìn chung, 20% dân số sống ở thành thị và 80% sống ở nông thôn. Việt Nam giành được độc lập từ Pháp, được công nhận chính thức bằng hiệp định Geneva năm 1954. Tại thời điểm đó, mức độ phát triển của Việt Nam cũng tương tự như các nước Châu Á láng giềng. Thu nhập đầu người không bị bỏ cách quá xa so với các nước láng giềng và cao hơn 50% so với thu nhập đầu người ở Trung Quốc, nước láng giềng quan trọng và cũng là đối phương trong quá khứ (xem hình 1.1). Bảng 1.1.a: Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với các nước láng giềng quan trọng Thu nhập bình 195 196 197 197 198 199 199 199 199 199 quân đầu người 0 0 0 5 0 0 8 8 5 9 của Việt Nam so với (%) Thái Lan 80.5 74.1 43.4 36.2 29.7 22.4 21.1 27.0 22.5 30. 1 Hàn Quốc 85.5 72.3 37.6 22.5 18.4 11.9 11.8 13.8 11.2 13. 2 Indonesia 78.3 78.4 61.6 47.2 40.5 41.3 42.1 54.6 41.8 55. 5 Trung Quốc 149. 118. 93.9 81.2 71.0 56.0 52.9 52.8 54.0 57. 9 7 3 Nguồn: Số liệu từ 1950-1998 được lấy từ nghiên cứu của Van Arkadie và Mallon (2001), các số liệu bổ sung cho năm 1995 và 1999 được lấy từ cơ sở dữ 10
  11. liệu tăng trưởng vì người nghèo của Ngân hàng Thế giới. Cũng giống như nhiều nước Đông Á khác, Việt Nam có đặc điểm là nhiều lao động giản đơn và thiếu đất. Việt Nam có điều kiện địa lý thuận lợi với khả năng tiếp cận biển và các cảng tốt dọc bờ biển dài của mình. Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc và đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam có các khu vực trồng lúa màu mỡ. Trong hàng thế kỷ, Việt Nam có quan hệ văn hoá và kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc ở phía bắc và với nhiều quốc gia quanh vịnh Thái Lan ở phía nam. Tuy nhiên, Việt Nam đã không thể tận dụng những tiền đề thuận lợi của mình do đất nước bị chia cắt thành 2 miền Bắc, Nam từ năm 1955 đến 1975 với hai hệ thống chính trị và kinh tế khác nhau. Cả hai miền đều được sự hỗ trợ của các đồng minh đã xung đột trong một cuộc chiến đẫm máu và chỉ kết thúc vào năm 1975 khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Từ năm 1955, miền Bắc đã áp dụng những nguyên tắc cộng sản. Nông dân và thợ thủ công được tập hợp lại, khu vực tư nhân bị loại bỏ và một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung có trọng tâm là công nghiệp nặng với các doanh nghiệp nhà nước lớn được xây dựng. Đồng thời chính sách của chính phủ nhằm vào chăm sóc sức khoẻ và giáo dục ở trình độ cao. Đến đầu năm 1958, nạn mù chữ đã thực sự được giải quyết xong ở miền Bắc. Một cuộc cải cách ruộng đất sớm tạo ra sự phân phối đất đai tương đối bình đẳng giữa các hộ gia đình1. Ngược lại, miền Nam vốn được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Hoa Kỳ đã xây dựng một cơ chế tư bản chủ nghĩa gắn với các thị trường quốc tế với sự tập trung mạnh mẽ vào công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Dù con đường đi của mỗi miền đều có ưu nhược điểm song nhìn chung Việt Nam đã thụt lùi đáng kể so với các nền kinh tế Đông Á trong giai đoạn này (xem hình 1.1) do quá nhiều nguồn lực đã được sử dụng cho chiến tranh. Việc áp dụng một chiến lược phát triển cho Việt Nam chỉ có thể được thực hiện khi đất nước tái thống nhất năm 1975. Cho dù có những quan ngại, thậm chí ngay cả trong nội bộ Đảng Cộng sản, nhưng chiến lược phát triển này đã dựa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa của miền Bắc để được thực hiện tại miền Nam. Toàn bộ đất đai được tập trung lại, thị trường dần bị loại bỏ, giá cả được kiểm soát và nỗ lực xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính thống với việc kế hoạch tập trung cao độ việc sản xuất và đầu tư theo mô hình Liên Bang Xô Viết. Hình 1.1 cho thấy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã thụt lùi thêm so với các nước láng giềng. Rõ nét nhất là Việt Nam đã mất đi sự hỗ trợ từ Trung Quốc vốn đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Sự căng thẳng về chính trị với Trung Quốc và các đồng minh của Trung Quốc trong thời gian này đã dẫn đến nhưng mẫu thuẫn quân sự như Việt Nam đưa quân vào Cam Pu Chia năm 1978 và chiến tranh biên giới với Trung 1 Cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới về hệ số Ginis đối với sự phân phối đất đai cho (Bắc) Việt Nam trong năm 1960 là 0.583 là mức thấp nhất của thế giới vào thời điểm đó. 11
  12. Quốc năm 1979. Những lý do kinh tế và chính trị đã khiến nhiều người gốc Hoa vốn là xương sống của nền kinh tế thị trường ở miền Nam Việt Nam phải di cư. Trong thời gian này, vị thế của Việt Nam so với các nước láng giềng lại tồi tệ hơn và có lẽ điều quan trọng nhất là khoảng cách với Trung Quốc đã tăng lên một cách đáng kể. Việt Nam bị cô lập về kinh tế và chính trị không chỉ từ Hoa Kỳ mà còn từ Trung Quốc và hầu hết các nước láng giềng Châu Á. Việc tiếp cận với các nguồn vốn từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới hay Ngân hàng Phát triển Châu Á bị Hoa Kỳ ngăn chặn cho đến tận năm 1993. Chỉ có Liên Xô, nước vốn đang phải chịu khủng hoảng kinh tế ngày càng tăng có ủng hộ về tài chính và chính trị cho Việt Nam cho dù những hỗ trợ này ngày càng giảm dần. Tình hình này không thể kéo dài nên nhu cầu cần có cải cách kinh tế cơ bản là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam vẫn còn chưa hiểu hết khái niệm cải cách toàn diện. Việc chỉnh sửa cơ chế kế hoạch hoá tập trung được thực hiện một cách rời rạc và từ từ ở mức độ vi mô trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ năm 1981, cơ chế “khoán sản phẩm” cho phép nông dân sử dụng một số khoảnh đất một cách độc lập với chính sách hợp tác xã hoá và vì vậy đó là một thử nghiệm về cơ chế thị trường. Ngoài ra, một số doanh nghiệp nhà nước cũng được hoạt động theo xu hướng thị trường hơn. Tuy nhiên, những cuộc cải cách đầu tiên này không động chạm tới những vấn đề chủ chốt về giá cả, nguyên tắc tài chính và việc quản lý kinh tế vĩ mô. Do đó, thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại tăng một cách báo động, và lạm phát cũng tăng lên tới đỉnh điểm 700% vào năm 1986. Biến động trong sản xuất lúa gạo giữa thập kỷ 80 đã dẫn tới nạn đói tại một số tỉnh nông thôn và làm cho việc nhập khẩu gạo là cần thiết dù đất nước còn thiếu ngoại tệ và sự hỗ trợ từ bên ngoài đang giảm xuống. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã thông qua một kế hoạch cải cách toàn diện hơn dưới cái tên là “Đổi mới” vào năm 1986. Đại hội đã thay thế những người đã lãnh đạo đất nước từ thời kỳ chiến tranh và bầu ra những nhà lãnh đạo mới với ông Nguyễn Văn Linh giữ chức Tổng bí thư của ĐCSVN (cho đến năm 1991) và ông Đỗ Mười là Thủ tướng Chính phủ (từ năm 1988 đến 1991) người sau này trở thành Tổng bí thứ (cho tới năm 1997). Người kế nhiệm vị trí đứng đầu ĐCSVN là ông Lê Khả Phiêu (tới năm 2001) và ông Nông Đức Mạnh (từ 2001 đến nay). Cuộc đổi mới đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của nền kinh tế đa thành phần và có kỷ luật hơn đối với việc quản lý kinh tế vĩ mô. Theo chiều hướng này, chế độ phân phối đối với rất nhiều hàng hoá được bãi bỏ vào năm 1987, và nhiều loại giá cả được điều chỉnh theo giá thị trường tự do. Tính đến năm 1990, hầu hết giá các mặt hàng là do thị trường quyết định. Việc rút quân khỏi Cam Pu Chia vào năm 1989 và việc Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận năm 1993 đã mở ra một con đường cho sự tái hội nhập về kinh tế và chính trị của Việt Nam với 12
  13. cộng đồng quốc tế. Sau một thập kỷ cải cách, Việt Nam đã có thể đuổi kịp với những nước láng giềng đi trước và ít nhất thì cũng chấm dứt sự tiếp tục tụt hậu so với Trung Quốc. Thành công này là điều quan trọng cho sự hỗ trợ chính trị đang tiếp diễn của lãnh đạo ĐCSVN cho quá trình đổi mới. Chiến lược phát triển bền vững mới được áp dụng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên, nó có thể tính tới kinh nghiệm của Trung Quốc nơi mà các cải cách kinh tế đã cho thấy những thành công từ cuối những năm 1970 cũng như những “con rồng Châu Á” tại khu vực đông bắc và đông nam Á. Các nhà lãnh đạo của Việt Nam đã thu được nhiều bài học từ các nước láng giềng thành công (Leipziger và Thomas 1993): (1) sự tăng trưởng bền vững trong một nền kinh tế thị trường phải dựa trên xu hướng hướng ngoại, sự ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư vào con người, (2) nền kinh tế thị trường có thể phù hợp với việc kiểm soát xã hội, tức là nhà cầm quyền có thể cho rằng sự thành công về kinh tế là thành tựu riêng của họ và (3) tăng trưởng đi kèm với công bằng là khả thi theo nghĩa là nền kinh tế thị trường không nhất thiết phải tạo ra tình trạng nghèo đói và bóc lột. Ngoài ra, những điều kiện bên ngoài và điều kiện lịch sử sau đây cũng góp phần vào sự mở đầu thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế: (1) sự kế thừa nền kinh tế thị trường ở miền Nam và sự linh hoạt và tính thực tế với cơ chế quản lý kinh tế tập trung là đặc trưng của hệ thống kinh tế của miền Bắc trong những năm chiến tranh (2) Gần ba triệu người Việt sống ở các nước phát triển hơn trên khắp thế giới đã hỗ trợ tài chính cho gia đình của mình cùng với sự chuyển giao kiến thức và mạng lưới kinh doanh quốc tế, (3) sự thống trị của nông nghiệp, khu vực mà sự cải cách kinh tế có thể diễn ra nhanh và đơn giản hơn so với các nhà máy công nghiệp lớn thuộc sở hữu nhà nước (4) về mặt địa lý, Việt Nam nằm trong khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Những điều kiện thuận lợi này giúp Việt Nam có khả năng bắt kịp các nước Châu Á láng giềng về kinh tế từ một vị trí bị bỏ cách khá xa như được nêu ở Bảng 1.1. 1.2 Xu hướng chung về phát triển, giảm nghèo và bất bình đẳng Do sự khởi đầu mạnh mẽ của công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có được những thành công đáng kể về mặt phát triển và tăng trưởng kinh tế. Bảng 1.2(a) tóm tắt một số thành tựu chính. Với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7% trong cả giai đoạn, Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á và dịch SARS gần đây cũng không chấm dứt được thành tựu nổi bật này cho dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đầu những năm 1990 không quá cao. Trong cả giai đoạn, tốc độ tăng dân số đã giảm đáng kể (White và các công sự, 2001) nên tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người trung bình trong cả giai đoạn là 5% còn ấn tượng hơn. Ngoài ra, chỉ số HDI cũng tăng lên cho thấy những dấu hiệu phát triển tích cực. 13
  14. Bảng 1.2.a (a) Các chỉ số tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ 1980- 2001 Các chỉ số 1980- 1987- 1992- 1988- 1987- 1986 1991 1997 2001 2001 Tăng trưởng GDP 4.88 5.05 8.77 6.04 6.8 thực tế hàng năm (%) Tốc độ tăng dân số 2.2 1.9 1.9 1.5 1.8 hàng năm (%) Tăng trường GDP 2.66 3.15 6.87 4.54 5 theo đầu người (%) GDP theo đầu người 1045,986 1190,056 1521,767 1957,481( tính theo sức mua (1984) (1990) (1995) 1999) tương đương và giá cố định năm 1996 (nghìn VND) Dân số (triệu người) 54 (1980) 66 (1990) 72 (1995) 78 (2000) HDI 0,582 0.603 0.646 0.688 (1985) (1990) (1995) (2000) Nguồn: Tổng cục Thống kê, Cơ sở dự liệu tăng trưởng vì người nghèo của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng thế giới (2003) và UNDP. Để đơn giản hoá, kinh nghiệm tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới có thể được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (1986-1991) kết thúc với sự ổn định kinh tế vĩ mô tạo đà cho sự tái hội nhập với thị trường quốc tế. Sự hội nhập này diễn ra trong giai đoạn thứ hai với những thành công rực rõ và tốc độ tăng trưởng cao nhất (1992-1997) kéo dài cho tới cuộc khủng hoảng Châu Á. Từ năm 1998, một giai đoạn tăng trưởng mới đã bắt đầu trong đó tận dụng nguồn nội lực cho tăng trưởng là chủ yếu trong khi việc tự do hoá khu vực đối ngoại vẫn tiếp diễn. Việt Nam đã ra nhập khu vực tự do mậu dịch của ASEAN (AFTA) năm 1995, trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào tháng 12/2001 và hiện đang đàm phán đề trở thành thành viên của WTO. Những đặc trưng cụ thể hơn của ba giai đoạn phát triển này sẽ được phân tích chi tiết dưới đây Bảng 2.2 (b) Các chỉ số về nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1990-2002 Các chỉ số về nghèo và bất bình đẳng (%) 1990 1993 1998 2002 Tỷ lệ nghèo quốc gia (GSO) 65 58.1 37.4 28.9 Tỷ lệ nghèo lương thực (GSO) 24.9 15.0 10.9 Chênh lệch nghèo (GSO) 18.5 9.5 6.9 14
  15. Chênh lệch nghèo bình phương 8.3 3.6 2.6 Tỷ lệ nghèo của Bộ LĐ-TB-XH (cả 25 16 12.4 nước) Tỷ lệ 1$/ngày theo quốc tế 50.8 39.9 16.4 13.6 Tỷ lệ 2$/ngày theo quốc tế 87 80.5 65.4 58.2 Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003), Uỷ ban lãnh đạo của CPRGS (2003) và MPI Bảng 1.2 (b) cho thấy công cuộc đổi mới đã mang lại kết quả khá ấn tượng cho việc giảm nghèo ở Việt Nam. Sự khác biệt giữa các định nghĩa về tiêu chuẩn nghèo được giải thích ở Phụ lục 1. Ước tính trước năm 1986, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam là từ 74 đến 78% (Dollar và Litvack 1998). Dù chuẩn nghèo nào được áp dụng thì tất cả các số liệu trên đều cho thấy là sau khi thực hiện các cải cách kinh tế, tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm hơn một nửa chỉ trong một thập kỷ. Mức độ và sự nghiêm trọng của tình trạng nghèo thậm chí còn giảm xuống nhanh hơn. Sự giảm nghèo của ở các nước đang phát triển khác trên thế giới gần như không thể so sánh với Việt Nam (xem nghiên cứu của Ngân hàng thế giới 2003). Thành tựu này không hề bị giảm sút ngay cả khi so sánh với các nước Châu Á khác mà còn cho thấy mức độ cần thiết của sự cải thiện nhanh chóng lạ thường này nếu Việt Nam muốn bắt kịp với các nước láng giềng. Ví dụ, Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nghèo tuyệt đối (được tính bằng thu nhập bình quân $1/ngày) từ 32% năm 1990 xuống còn khoảng 2% năm 1999 trong khi Thái Lan giảm từ 11% năm 1985 xuống còn khoảng 2% và Malaysia đã xoá bỏ nghèo sau khi giảm từ mức khá thấp 5,6% năm 1989 xuống mức thấp kỷ lục là 1% năm 1995. Tỷ lệ nghèo ở Lào là gần nhất so với Việt nam với lần đầu đạt mức 26.3% vào năm 2001. Trong chiến lược Tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện (CPRGS) vừa mới được công bố gần đây, Chính phủ Việt Nam muốn đạt tỷ lệ nghèo thấp hơn 20% vào năm 2010 (Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2002). Việc mục tiêu đầy tham vọng này có đạt được hay không chỉ phụ thuộc vào việc có tiếp tục tăng trưởng hay không mà còn dựa vào xu hướng chung về sự bất bình đẳng trong tương lai. Số liệu ở Bảng 1.2 (c) cho thấy hệ số Gini của Việt Nam là tương đối thấp trong thời kỳ đầu cải cách, rõ ràng là hậu quả một thời kỳ xã hội chủ nghĩa dài. Tuy nhiên, hệ số GINI đã tăng đáng kể đặc biệt là từ 1998. Ngoài ra, khoảng cách ngày càng tăng giữa chi tiêu của người giàu và người nghèo đã cho thấy những dấu hiệu của sự mất cân đối trong phân phối ngày càng tăng mà theo một số nhà quan sát là đáng báo động (Fritzen 2002). Bảng 2.2 (c) Các chỉ số về sự bất bình đẳng ở Việt Nam giai đoạn 1993-2002 CHỈ SỐ BẤT BÌNH ĐẲNG (Tỷ lệ %) 1993 1998 2002 15
  16. Hệ số Gini (GSO) 0.34 0.35 0.42 Tỷ lệ chi tiêu của người giàu và người nghèo 4.97 5.49 6.03 (WB/GSO) Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003), GSO Hình 1.2 tóm tắt những xu hướng chính trong sự tăng trưởng, giảm nghèo và bất bình đẳng của Việt Nam giai đoạn 1986 đến 2002. Nó cho thấy việc có đạt được những thành tựu trong tương lai hay không phụ thuộc chủ yếu vào xu hướng tăng trưởng và bất bình đẳng. Mục tiêu đầy tham vọng của Việt Nam về chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện chỉ có thể được thực hiện nếu tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức cao như trong quá khứ và sự Hình 1.2 Những xu hướng chính về tăng trưởng, giảm nghèo và sự bất bình đẳng gia tăng về bất bình đẳng có thể được hạn chế. Nguồn: xem Bảng 1.2 (a)-(c) 1.3 Khuôn khổ nghiên cứu cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam Từ cách nhìn chung, sự tăng trưởng vì người nghèo xuất phát từ những cách thức cụ thể để tạo và (tái) phân phối thu nhập ưu đãi cho người nghèo. Ngoài những chỉ số tổng hợp, diễn biến nghèo ở các nước đang phát triển có thể được phân tích và đánh giá theo sự phân bố về không gian, giới tính và dân tộc. Để có thể xác định đúng khả năng can thiệp bằng chính sách, chúng ta cần chia quá trình tăng trưởng vì người nghèo làm những thành phần nhỏ hơn và phân biệt ba giai đoạn khác nhau thành sản suất, tạo thu nhập và (tái) phân phối thu nhập có ảnh hưởng tới kết quả phát triển vì người nghèo (xem hình 1.3). Những 16
  17. yếu tố sản xuất cơ bản như đất đai, lao động (giản đơn hoặc có kỹ năng) và vốn được sử dụng với những tỷ lệ khác nhau trong quá trình sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Điển hình là khu vực nông thôn và thành thị sử dụng những yếu tố sản xuất này theo những cách khác nhau và từ đó mỗi khu vực có một cơ cấu ngành khác nhau và cơ hội thu nhập khác nhau. Do năng suất và thu nhập ở khu vực thành thị thường cao hơn so với vùng nông thôn nên cần có di chuyển giữa các vùng thông qua việc di cư trong nội bộ quốc gia và chuyển tiền tự nguyện để giảm bớt tình trạng nghèo ở các vùng nông thôn. Toàn bộ quá trình từ sản xuất, tạo thu nhập, (tái) phân phối thu nhập chịu ảnh hưởng bởi các chính sách cụ thể trong từng bước, bởi các cơ chế hiện tại và các chính sách kinh tế vĩ mô. Chi tiêu vì người nghèo có tác động ngay tới phúc lợi của người nghèo thông qua hệ thống phúc lợi xã hội trực tiếp nhưng nó cũng có thể ảnh hưởng gián tiếp tới khả năng tiếp cận các yếu tố sản xuất của người nghèo (bằng việc đầu tư vào các chương trình giáo dục và sức khoẻ) cũng như sự phân bố giữa các ngành và các vùng sản xuất. Do sự khởi đầu mạnh mẽ của các cải cách kinh tế trong những năm 80, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc và cải thiện mạnh trình trạng nghèo nói chung. Tuy nhiên, nếu nhìn vào mặt phân bố không gian thì tình trạng phát triển và giảm nghèo lại cho thấy sự mất cân đối nhiều hơn. Sự phân bổ theo dân tộc với mức độ mất cân đối ngày càng tăng và sự phân bổ theo giới với mức độ cân đối hơn nhiều đều có thể liên quan trực tiếp tới cùng nguyên nhân như sự mất cân đối như phân bổ không gian. Những nguyên nhân này hiện đang làm thay đổi hình thái của sự phát triển thành thị và nông thôn trong các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển tại Việt Nam. Phần nhiều sự tăng trưởng đáng kinh ngạc và ảnh hưởng tới tình trạng nghèo trong giai đoạn đầu là do các chính sách nông nghiệp cẩn trọng đã tận dụng triệt để lực lượng lao động giản đơn từ những người nghèo ở nông thôn. Giai đoạn hai chứng kiến một vai trò lớn hơn của các trung tâm thành thị trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch về phía các sản phẩm có hàm lượng vốn và lao động lành nghề cao hơn do FDI hỗ trợ. Dù kênh trực tiếp nối giữa sự tăng trưởng và giảm nghèo bị suy giảm do sự phát triển này song những kênh gián tiếp thông qua sự chuyển tiền tự nguyện trong nội bộ vùng và phúc lợi xã hội có tầm quan trọng cao hơn. Đối mặt với sự mất cân đối về không gian, giai đoạn ba hiện nay cố gắng kết hợp các kết quả của các giai đoạn trước. Những nỗ lực mới cho việc tạo công ăn việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở các khu vực nông thôn được kết hợp với sự hội nhập nhiều hơn vào thị trường thế giới và sự tăng cường các kênh công cộng và tư nhân để tái phân phối thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Khuôn khổ nghiên cứu chung cho các phân tích tăng trưởng vì người nghèo và sự áp dụng vào trường hợp của Việt Nam sẽ cho phép chúng tôi tập trung nghiên cứu vào quốc gia này. Chương 2 sẽ phân tích những thành tựu tăng trưởng chung vì người nghèo của Việt Nam và các khía cạnh của nó. Chương này sẽ phân tích chi tiết sự phân bố về không gian là phù hợp nhất cho những 17
  18. nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi. Chương 3 sau đó sẽ tìm hiểu sự tác động của những yếu tố và chính sách khác nhau đối với sự tăng trưởng vì người nghèo. Chúng tôi sẽ bắt đầu với những chính sách cụ thể có ảnh hưởng tới thị trường các yếu tố sản xuất, các ngành sản xuất và lĩnh vực phát triển. Hình 1.3 Khuôn khổ nghiên cứu chung cho việc phân tích tăng trưởng vì người nghèo Chi tiêu vì người nghèo Tăng trưởng vì người Các yếu tố Các ngành Các khu vưc nghèo Chính sản xuất sản xuất sản xuất sách vĩ Đất đai mô Tăng trưởng và phân Trợ cấp Rural Nông nghiệp Lao động trong khu areas phối thu nhập/ chi tiêu giản đơn v ực Lao động có kỹ Công nghiệp của người nghèo Urban năng Thay areas Dịch vụ đổi cơ Vốn chế Trợ cấp liên khu vực Phân bố tình trạng nghèo Chính sách Chính sách đối Chính sách phát triển Không gian với thị trường đối với các thành thị Dân tộc các yếu tố SX ngành SX /nông thôn Giới Dù phân tích tập trung vào thị trường lao động, diễn biến khu vực nông thôn và nông nghiệp nhưng chúng tôi cũng sẽ tính tới những hiệu ứng của sự phát triển đô thị và dựa vào công nghiệp từ đầu giai đoạn hai. Sau đó, chúng tôi sẽ nghiên cứu các hiệu ứng trực tiếp và gián tiếp của các chi tiêu vì người nghèo . Chúng tôi sẽ kết luận với sự đánh giá các chính sách vĩ mô (bao gồm cả chính sách thương mại) và những thay đổi về cơ chế (tập trung vào các khía cạnh của sự phân quyền), cả hai đều có vai trò quan trọng cho những thành công trong tương lai trong vấn đề tăng trưởng vì người nghèo. Điều cuối cùng này sẽ được tiếp tục xem xét ở Chương 4 khi chúng tôi thảo luận 3 sự đánh đổi chủ yếu giữa các chiến lược vì tăng trưởng và vì người nghèo của Việt Nam. Sự đánh đổi đầu tiên có liên quan đến tốc độ tự do hơn nữa đối với khu vực đối ngoại, sự đánh đổi thứ hai có liên quan tới sự gia tăng mất cân đối về tăng trưởng giữa các khu vực và cuối cùng là những ưu tiên cho chi tiêu phụ vụ người nghèo tại các vùng 18
  19. nông thôn. Các khuyến nghị về chính sách nhằm ngăn chặn sự gia tăng mất cân đối về tăng trưởng theo không gian sẽ được đề cập ở chương cuối. Nó cho thấy phúc lợi trong tương lai của người nghèo ở vùng nông thôn chịu sự tác động tích cực của việc tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp ở các vùng này mà điều này lại phụ thuộc chặt chẽ và sự mở rộng hơn nữa của khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài ra, thông qua việc chuyển tiền về các khu vực nông thôn (với điều kiện là các vấn đề xã hội được kiểm soát tốt), sự di cư nội bộ có thể đóng góp vào việc chia sẻ lợi ích của việc phát triển nhanh hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên, điều không thể nghi ngờ là việc chi tiêu vì người nghèo của khu vực công có vai trò quan trọng và thậm chí còn quan trọng hơn trong tương lai nên việc quản lý sự phân quyền về hành chính tài chính và chính trị sẽ là một yếu tố then chốt cho những thành tựu về tăng trưởng vì người nghèo trong tương lai của Việt Nam. Chương 3 Sự phân bố của tình trạng nghèo và các nguyên nhân của sự tăng trưởng vì người nghèo ở Việt Nam 2.1 Sự phân bố tình trạng nghèo ở Việt Nam Như đã được mô tả ở Bảng 1.2(b) ở phần trên, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những thập kỷ qua đi kèm với sự giảm nghèo tương đối mạnh. Tuy nhiên, các số liệu điều tra về các hộ gia đình cũng chỉ ra những chênh lệch đáng kể trong tỷ lệ giảm nghèo nếu nhìn ở một số khía cạnh. Đầu tiên, chúng ta hay xem kỹ sự phân bố về không gian của tình trạng nghèo (xem Bảng 2.1 (a)). Ba cuộc điều tra các hộ gia đình của Việt Nam cung cấp số liệu về tỷ lệ nghèo tại 7 vùng (không phải theo tỉnh) và tại khu vực thành thị và nông thôn. Ở những vùng và khu vực này, hệ số Gini đối với chi tiêu cũng được tính. Bảng 2.1 (a): Sự phân bố về không gian của tình trạng nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam Tỷ lệ nghèo (chỉ Tỷ lệ % so với Hệ số Gini số đầu người theo dân số %) Năm 199 199 2002 199 199 200 1993 199 200 3 8 3 8 2 8 2 Toàn quốc 58.1 37.4 28.9 100 100 100 0.34 0.35 0.42 Phân Vùng núi 81.5 64.2 43.9 15.6 18 15 0.25 0.26 theo phía Bắc vùng -Đông 86.1 62 38.4 -- -- 12 0.36 Bắc - Tây 81.0 73.4 68.0 -- -- 3 0.37 Bắc ĐB sông 62.7 29.3 22.4 21.6 20 22 0.32 0.32 0.39 Hồng 19
  20. Ven biển 74.5 48.1 43.9 12.8 14 13 0.25 0.29 0.36 Bắc Trung Bộ Ven biển 47.2 34.5 25.2 12.6 11 8 0.36 0.33 0.35 Nam Trung Bộ Tây 70.0 52.4 51.8 3.2 4 6 0.31 0.31 0.37 Nguyên Đông 37.0 12.2 10.6 12.6 13 15 0.36 0.36 0.42 Nam Bộ ĐB sông 47.1 36.9 23.4 22.4 21 21 0.33 0.30 0.39 Cửu Long Phân Thành 25.1 9.2 6.6 19.9 20.9 23. 0.35 0.34 0.41 theo thị 23 khu vực Nông 66.4 45.5 35.6 80.1 79.1 76. 0.28 0.27 0.36 thôn 77 Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003) và GSO. Các vùng được xác định vào năm 2002. Hệ số Gini được tính cho mức chi tiêu. Số liệu trên cho thấy, một số vùng như đông nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long và ven biển nam trung bộ (đều nằm ở phía nam) có tỷ lệ nghèo thấp hơn mức trung bình của quốc gia trong tất cả các giai đoạn. Vùng đồng bằng sông Hồng cũng đạt được mức này từ giai đoạn thứ hai. Vùng ven biển bắc trung bộ, vùng đông bắc và tây bắc (là những vùng quan trọng phía bắc của đất nước) và Tây Nguyên ở miền Nam có tỷ lệ nghèo cao hơn mức trung bình của cả nước trong tất cả các giai đoạn. Vùng đồng bằng sông Hồng, miền đông nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 50% dân số Việt Nam đã có sự bất bình đẳng tăng mạnh trong giai đoạn phát triển gần nhất. Vùng núi phía bắc cũng cho thấy sự gia tăng nhanh của hệ số Gini. Chỉ vùng ven biển nam trung bộ có hệ số gini tăng tương đối chậm. Tỷ lệ nghèo của các vùng liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ nghèo phân theo khu vực thành thị và nông thôn do những vùng có tỷ lệ giảm nghèo cao là những vùng mà khu vực thành thị chiếm tỷ lệ cao hơn trong khi Tây Nguyên và vùng tây bắc thì chủ yếu là vùng nông thôn. Số liệu cho thấy tình trạng nghèo là cao hơn đáng kể trong các hộ gia đình ở nông thôn vốn chiếm đa số ở Việt Nam. Sau khi giảm xuống chút ít vào giữa thập kỷ 90, hệ số Gini lại tăng đáng kể ở cả khu vực nông thôn và thành thị. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2