intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp”

Chia sẻ: Le Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

291
lượt xem
83
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Trong đó, thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế mới, tiến bộ mới được áp dụng vào Việt Nam trong thời gian gần đây. Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp phần tăng thu ngân sách và đóng góp tích cực vào quá trình hiện đại hóa ngành thuế cũng như quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp”

  1. Luận văn Đề tài: Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp
  2. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2 Chương 1. Thưc trạng công tác thu thuế GTGT tẠi Việt Nam ............................... 3 1.1. Kết quả thu thuế ............................................................................................... 3 1.2. Cơ cấu thu thuế GTGT ..................................................................................... 3 1.3. Cơ chế quản lý thuế ......................................................................................... 3 1.4. Các hình thức, thủ đoạn gian lận thuế phổ biến .............................................. 4 Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế GTGT ... 6 2.1. Thành tựu ......................................................................................................... 6 2.1.1. Đối với nền kinh tế quốc dân ........................................................................ 6 2.1.2. Đối với việc hoàn thiện chính sách thuế ....................................................... 8 2.1.3. Đối với một số lĩnh vực khác ........................................................................ 9 2.2. Hạn chế .......................................................................................................... 10 2.2.1. Gian lận, thất thu thuế còn nhiều ............................................................... 10 2.2.2. Phối hợp các ngành còn lỏng lẻo ............................................................... 11 2.2.3. Cơ chế quản lý còn chưa hợp lý ................................................................. 12 2. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập .................................................... 13 2.3.1. Nhìn từ góc độ nhà nước............................................................................ 13 a. Đối tượng chịu thuế .......................................................................................... 13 b. Về thuế suất ....................................................................................................... 13 c. Chế độ hóa đơn chứng từ .................................................................................. 14 d. Quy định khấu trừ và hoàn thuế ....................................................................... 15 e. Thủ tục thành lập công ty còn chưa chặt chẽ ................................................... 15 f. Thời hạn kiểm tra gian lận thuế còn ngắn ......................................................... 16 g. Tổ chức bộ máy, cán bộ ngành thuế còn chưa hoàn thiện ............................... 16 h. Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ .................................................................... 17 2.3.2. Nhìn từ góc độ doanh nghiệp ...................................................................... 18 a. Xuất phát từ động cơ lợi nhuận của các doanh nghiệp .................................... 18 b. Do những bất cập trong thủ tục nộp thuế GTGT .............................................. 18 c. Doanh nghiệp chưa nhận thức đúng nghĩa vụ nộp thuế ................................... 19 2.3.3. Từ góc độ người tiêu dùng .......................................................................... 19 Chương 3. Giải pháp ............................................................................................ 20 3.1. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ ........................................................................................................ 20 3.2. Về cơ chế chính sách ...................................................................................... 20 3.3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hoá đơn ........................................ 21 3.4. Ngăn chặn gian lận và hoàn thiện công tác quản lý trong hoàn thuế GTGT 22 3.5. Hoàn thiện công tác quản lý và tổ chức hạch toán thuế GTGT .................... 22 3.6. Tăng cường xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm ............................................ 23 3.7. Đẩy mạnh việc hình thành dịch vụ tư vấn thuế.............................................. 23 3.8. Tuyên truyền, giáo dục về thuế GTGT ........................................................... 24 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 25 Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 1
  3. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp MỞ ĐẦU Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Trong đó, thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế mới, tiến bộ mới được áp dụng vào Việt Nam trong thời gian gần đây. Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp phần tăng thu ngân sách và đóng góp tích cực vào quá trình hiện đại hóa ngành thuế cũng như quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Để các tác dụng trên có thể trở thành hiện thực, đòi hỏi phải triển khai công tác thu thuế trên thực tiễn. Cũng như nhiều sắc thuế khác, việc triển khai công tác thu thuế trên thực tiễn bên cạnh những thành tựu còn có nhiều hạn chế cần khắc phục. Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận của nhà trường, giúp các bạn sinh viên khác có thêm kiến thức cho môn học Thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam, nhóm chúng em nghiên cứu đề tài: “Thực trạng công tác thu thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam và giải pháp”. Để đạt được mục đích trên, đề tài được nghiên cứu dựa trên Phương pháp luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp chuyên gia, tổng hợp số liệu, so sánh… Đề tài được chia làm 3 phần: Chương 1. Thực trạng công tác thu thuế GTGT tại Việt Nam Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế GTGT Chương 3. Giải pháp Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 2
  4. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp Chương 1. Thực trạng công tác thu thuế GTGT tại Việt Nam 1.1. Kết quả thu thuế Có 3 yêu cầu mà Chính phủ đã đề ra khi đưa luật thuế GTGT vào thực tế ở Việt Nam, đó là: không gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, không gây biến động giá cả và không làm giảm nguồn thu cho ngân sách. Số thu về thuế GTGT không giảm so với thuế doanh thu trước đây (theo số liệu báo cáo của Bộ Tài chính tính toán khi đưa thuế GTGT vào áp dụng thì: Số thuế GTGT khâu nhập khẩu tăng 9000 tỷ, bố trí để hoàn thuế cho hàng xuất khẩu là 4000 tỷ, đưa vào ngân sách khoảng 5000 tỷ, trong khi đó thu thuế GTGT nội địa giảm khoảng 5000 tỷ; vậy thu thuế GTGT tương đương với thuế doanh thu). Tổng số thu cho Ngân sách nhà nước từ thuế, phí và lệ phí hàng năm tăng rõ rệt, tỷ trọng thuế GTGT trên tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí cũng tăng. Năm 1999 số thu từ thuế GTGT là 17.113 tỷ đồng, chiếm 23% trong tổng thu NSNN tổng thu từ thuế, phí và lệ phí, đến năm 2007, các con số này là 72.022 tỷ đồng tương ứng là 30,6%. Số thu thuế GTGT năm sau so với năm trước tăng bình quân là 19,13%. Dự báo trong những năm tới, số thu từ thuế GTGT vẫn giữ vai trò quan trọng cho ngân sách quốc gia. 1.2. Cơ cấu thu thuế GTGT Theo xu hướng hiện nay, chúng ta đang cố gắng giảm tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế. Theo đó, số thuế GTGT thu vào tăng lên nhưng lại giảm được tỷ trọng thuế gián thu trong cơ cấu thuế nói chung. Số thu thuế GTGT được tập trung thu ở khâu sản xuất, khâu nhập khẩu hàng hóa. Trước đây, khi chưa áp dụng luật thuế GTGT thì cơ cấu giá hàng nhập khẩu bao gồm: Giá hàng nhập khẩu = Giá CIF + thuế nhập khẩu + thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Khi áp dụng thuế GTGT thì cơ cấu giá hàng nhập khẩu lúc này còn có thêm cả phần thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu. Thuế GTGT thu được từ nội địa chiếm phần lớn trong tổng thu của thuế GTGT. Cùng với quá trình tăng dần của kim ngạch nhập khẩu, thuế GTGT hàng nhập khẩu cũng tăng. 1.3. Cơ chế quản lý thuế Về cơ chế quản lý thuế, từ năm 2003, nước ta cũng đã bắt đầu áp dụng cơ chế quản lý tự khai, tự nộp thuế. Tuy nhiên do chưa đủ các điều kiện cần thiết nên chưa thể thực hiện một cách đồng bộ, mà phải thực hiện từng bước một. Ngày 23/9/2003, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 127/2003/QĐ - Ttg về thực hiện thí điểm cơ chế mới đối với một số doanh nghiệp ở Cục thuế TP. Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh bắt đầu từ năm 2004 và mở rộng Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 3
  5. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp đối với Cục thuế Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu trong năm 2005. Qua hơn 5 năm thực hiện, đã thu được nhiều kết quả tốt, phát huy tính tự giác chấp hành và tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế. Việc thực hiện cơ chế mới đã giúp cho năng lực hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế được nâng cao. Bộ máy quản lý thuế được tổ chức chuyên sâu theo chức năng, các nghiệp vụ quy trình quản lý thuế mới được xây dựng và vận hành. Các Cục thuế đã thực hiện được việc nhận và xử lý nhanh chóng, chính xác các tờ khai thuế, theo dõi được các lỗi kê khai của đối tượng nộp thuế: trong tháng đầu thực hiện cơ chế mới, số tờ khai lỗi rất lớn, chiếm tỉ lệ khoảng 61%. Đến kỳ kê khai tháng 12/2005 số tờ khai lỗi đã giảm xuống chỉ còn khoảng dưới 10%... Cho đến nay, cơ chế quản lý tự khai, tự nộp thuế đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc và hình thức cũng đổi mới hơn. Nếu trước đây các n ghiệp vụ kê khai thuế thực hiện trên giấy tờ, tiêu tốn rất nhiều thời gian và công sức thì nay với việc ứng dụng thương mại điện tử, người kê khai chỉ cần một vài thao tác trên máy tính là có thể thực hiện kê khai một cách nhanh chóng, rõ ràng và được ưu tiên hơn rất nhiều. Hiện nay ngành thuế đã xây dựng được mạng máy tính từ tổng cục đến 64 cục thuế và 625 chi cục thuế. Hệ thống máy tính đã phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách thuế. 1.4. Các hình thức, thủ đoạn gian lận thuế phổ biến Tình hình kiểm tra sau hoàn thuế: cơ quan thuế đã tổ chức kiểm tra sau hoàn thuế được 3.521 cơ sở xin hoàn thuế, đã phát hiện 2 loại vi phạm: - Loại vi phạm hành chính thuế có 1.490 trường hợp với số thuế được hoàn là 140 tỷ đồng và đã thu hồi 78 tỷ đồng vào ngân sách nhà nư ớc. Số còn lại được áp dụng nhiều biện pháp để truy thu tiếp. Đây là các sai phạm mang tính chất hành chính. - Loại vi phạm nghiêm trọng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự là trên 300 trường hợp chiếm 0,45% số doanh nghiệp. Nhưng do không có chức năng điều tra, khởi tố vụ án như các nước trên thế giới nên cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ cho các cơ quan pháp luật để điều tra khởi tố vụ án. Theo một phân tích, cứ 1000 tỷ đồng mất từ khâu chi ngân sách, thì kéo theo 420 tỷ nữa mất qua khâu thu! Hãy thử nhẩm tí nh với số tiền chi từ NSNN hằng năm hơn 100 ngàn tỷ đồng, trong đó chi lương từ NSNN chỉ khoảng 30 ngàn tỷ. Còn lại, hơn 70 ngàn tỷ chủ yếu là chi cho hàng hoá. Nếu khâu kiểm soát chi tiêu từ NSNN còn lỏng lẻo như hiện nay (theo đánh giá chung hiện nay, chi cho lĩnh vực đầu tư XDCB có tỷ lệ thất thoát gần 40%) thì thiệt hại hàng năm của NSNN sẽ lên đến bao nhiêu? Con số kết quả sẽ thật đáng sợ! Qua thống kê, hiện có hai hình thức phổ biến gian lận thuế GTGT để xin hoàn thuế: Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 4
  6. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp Thứ nhất, ngụy tạo hồ sơ xuất khẩu. Trường hợp này phải có sự đồng lõa giữa doanh nghiệp và một số cán bộ hải quan cửa khẩu. Hồ sơ xin hoàn thuế phải kèm theo bảng kê chứng từ chứng minh xuất khẩu. Nếu hải quan không xác nhận thì doanh nghiệp không thể nào gian lận và xin hoàn thuế được. Thứ hai, ngụy tạo hồ sơ nộp thuế GTGT đầu vào trong trường hợp có hàng hóa thực để xuất khẩu nhưng không nộp thuế GTGT đầu vào. Những thủ đoạn thường gặp của một số đối tượng gian lận việc hoàn thuế GTGT: - Bán hàng không xuất hoá đơn để che dấu doanh thu đầu ra, làm cơ sở cho việc tính thuế GTGT, nhằm chiếm đoạt số tiền thuế GTGT người mua đã nộp cho người bán. - Giá cả và số lượng khi xuất hoá đơn bán hàng ghi trong liên lưu nhỏ hơn liên giao. - Không có giao dịch, nhưng “bên bán” thông đồng với bên mua vẫn xuất hoá đơn ghi và giao cho “bên mua”, nhằm hợp thức hoá số hàng đầu vào cho “bên mua” khi khấu trừ hoặc hoàn thuế. - Thông đồng với các doanh nghiệp xuất khẩu lập hoá đơn khống để kê khai hoàn thuế khi xuất khẩu, sau đó chi nhau số tiền hoàn thuế. Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 5
  7. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp Chương 2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công tác thu thuế GTGT 2.1. Thành tựu 2.1.1. Đối với nền kinh tế quốc dân Thuế GTGT thu trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở các khâu sản xuất, lưu thông nên khắc phục được nhược điểm cơ bản của Luật thuế doanh thu là thu trùng lặp qua các khâu sản xuất, kinh doanh, tạo sự công bằng hơn về thuế, từ đó góp phần thực hiện hợp tác và chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, khuyến khích phát triển và mở rộng sản xuất, lưu thông hàng hoá. Điều này đã góp phần tích cực vào việc lấy lại đà tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao . Bắt đầu có hiệu lực năm 1999 – năm mà tăng trưởng kinh tế nằm ở điểm đáy so với các năm trước và sau nó. Có ý kiến đã cho rằng nguyên nhân của mức tăng trưởng thấp đó là do việc áp dụng luật thuế GTGT đã gây ảnh hưởng đến cả người sản xuất và tiêu dùng, việc quy định nhiều nhóm hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT khiến cho giá thành sản phẩm của những doanh nghiệp sử dụng đầu vào là những loại hàng hoá dịch vụ này tăng lên, những sản phẩm sử dụng nguyên liệu chủ yếu là hàng nhập khẩu cũng như những mặt hàng nhập khẩu giá cả cũng sẽ tăng bởi vì ngoài thuế nhập khẩu, hàng nhập khẩu còn phải chịu thêm thuế GTGT. Bởi vậy, các mặt hàng này sẽ có sức tiêu thụ kém đi và làm cho doanh thu của các đơn vị kinh tế ít hơn so với trước, làm giảm mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Thực tế, khi phân tích nguyên nhân của tình trạng giảm sút tốc độ tăng trưởng năm 1999 thì người ta thấy rằng nguyên do chủ yếu của hiện trạng trên là do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực năm 1997 - 1998 cộng với sự giảm sút của vốn đầu tư nước ngoài (vốn đăng ký năm 1995 là 6531 triệu USD, năm 1996 là 8497 triệu USD, năm 1997 chỉ còn 4649 triệu USD, năm 1998 còn 3897 triệu USD và năm 1999 đã giảm xuống còn 1568 triệu USD). Như vậy, khi áp dụng thuế GTGT vào Việt Nam không những không làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy tăng trưởng, điều đó đã được chứng minh qua sự phát triển của nền kinh tế nước ta các năm sau đó. Ngược lại, việc thu thuế GTGT hiệu quả và hoàn thuế GTGT đầu vào đối với các dự án đầu tư đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển công nghệ, đầu tư đổi mới tài sản cố định, góp phần thúc đẩy vốn đầu tư xã hội tăng trưởng, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các con số mà Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng (2008) đưa ra là khá khả quan: Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 6
  8. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp - Số thuế GTGT hoàn cho các dự án đầu tư và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ tăng qua các năm: năm 1999 là 2.700 tỷ đồng, chiếm 15,7% tổng thu từ thuế GTGT của năm, đến năm 2005 là 14.830 tỷ đồng (32,4% tổng thu từ thuế GTGT), năm 2006 là 18.037 tỷ đồng (32,7% tổng thu từ thuế GTGT) và năm 2007 là 24.650 tỷ đồng (34,2% tổng thu từ thuế GTGT). - Vốn đầu tư toàn xã hội so GDP tăng qua các năm: năm 2003 là 35,5% , năm 2004 là 36,2%, năm 2005 là 39,8%; 2006 là 40,9%. Giai đoạn 2006-2010, tăng trưởng các năm khá mạnh, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2006 đạt 8,23%, năm 2007 đạt 8,46%, năm 2 008 đạt 6,31%, năm 2009 đạt 5,32% và năm 2010 đạt 6,78%. Bình quân thời kỳ 2006-2010, tăng trưởng kinh tế đạt 7,01%/năm, trong đó bình quân giai đoạn 2006-2007 đạt 8,34%; bình quân giai đoạn 2008-2010 đạt 6,14% do ảnh hưởng của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế thế giới. GDP/người tăng từ 11694 nghìn đồng năm 2006 lên 22778 nghìn đồng năm 2010, gấp gần 2 lần, tương đương 11084 nghìn đồng. Nếu tính theo USD, GDP/người tăng từ 730 USD năm 2006 lên 1168 USD năm 2010, gấp 1,6 lần, tương đương mức tăng 438 USD. Rõ ràng thì với sự ra đời của thuế GTGT, đã góp phần tạo hàng lang pháp lý thuận lợi cho việc thu hút đầu tư từ nước ngoài. Tốc độ tăng vốn đầu tư theo giá trực tiếp năm 1998 là 8,1% đến năm 1999 sau một năm luật thuế GTGT đi vào thực tiễn tốc độ này đã tăng lên đáng kể 12%. Đối với nền kinh tế nói chung, tác động của thuế GTGT còn được thể hiện thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Thứ nhất, thuế GTGT đánh trên hàng nhập khẩu mới hình thành mặt bằng giá tính thuế bình đẳng với hàng sản xuất trong nước. Thông thường đối với hàng hoá xuất khẩu các nước đều không thu thuế GTGT nên nước nhập khẩu thu thuế GTGT nhằm thực hiện cân đối lại thuế đối với việc tiêu dùng loại hàng hoá này. Theo quy định hiện hành, đối với hàng hoá nhập khẩu, ngoài thuế nhập khẩu còn phải nộp thêm thuế GTGT. Như vậy, giá hàng nhập khẩu đã tăng lên đáng kể do phải nộp thêm thuế GTGT ngay khi hàng hóa vừa được nhập vào trong nước. Điều này sẽ làm cho các doanh nghiệp không thể nhập khẩu hàng hoá một cách ồ ạt, thiếu tính toán, bởi vì việc phải chịu thêm thuế GTGT đồng nghĩa với việc lợi nhuận của doanh nghiệp cũng bị giảm sút. Lúc này họ sẽ phải cân nhắc, xem xét kỹ càng tính hiệu quả của hàng hoá nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết mà doanh nghiệp trong nư ớc đã sản xuất được hay những mặt hàng có giá nhập khẩu cao mà sức mua trên thị trường nội địa lại thấp. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước, việc đánh thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu cũng là cơ hội để tăng sức cạnh tranh của hàng nội địa với hàng nhập khẩu. Giá cả của các mặt hàng nhập khẩu cũng sẽ tăng lên do doanh nghiệp nhập khẩu muốn bảo toàn mức lợi nhuận bình quân của mình. Tuy Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 7
  9. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp nhiên, mức độ tăng giá sẽ là mức tối thiểu do sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và các doanh nghiệp trong nước. Lúc này, giải pháp tốt nhất cho các doanh nghiệp nhập khẩu là cải tiến quá trình sản xuất kinh doanh, tiết kiệm chi phí. Tác động vào hoạt động nhập khẩu là tác động vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, bởi vì, trong bối cảnh hội nhập hiện nay cùng với việc cắt giảm thuế nhập khẩu thì thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu sẽ bảo hộ sản xuất trong nước, giảm tình trạng nhập siêu, khuyến khích sản xuất trong nước. Thứ hai, theo luật thuế GTGT hiện hành thì mức thuế suất 0% được áp dụng đối với hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Như vậy, các doanh nghiệp không những không phải nộp thuế GTGT đầu ra mà còn được hoàn thuế GTGT đầu vào. Điều này đã khuyến khích hoạt động xuất khẩu rất nhiều. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng cao cả vể số tuyệt đối và tỷ lệ so với năm trước: năm 2003 đạt xấp xỉ 20 tỉ USD tăng 19%, năm 2004 đã tăng lên là 26 tỉ USD tăng 28,9%, năm 2005 đạt 33,0 tỉ USD tăng 21,9% và năm 2006 đạt 39,6 tỷ USD tăng 20%, năm 2007 đạt 48 tỷ USD tăng 22,4%. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD năm 2006 tăng lên 8 mặt hàng năm 2010. Đối với vấn đề giá cả, khi bắt đầu áp dụng thuế GTGT do tâm lý của các đối tượng chưa thực sự hiểu đúng bản chất của sắc thuế mới này mà giá cả của một số mặt hàng có nhích lên một chút như thuốc tân dược ngoại tăng từ 5 -10%; cước phí đường sắt, hàng không, chuyển phát nhanh tăng 10%...Tuy nhiên những biến động đó chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn, nhờ sự cố gắng nỗ lực của các cơ quan thuế trong việc giải thích, tuyên truyền về thuế GTGT một cách đầy đủ. Phát huy ưu điểm là tránh được hiện tượng đánh trùng của thuế doanh thu, việc thực hiện đúng những quy định của thuế GTGT buộc các doanh nghiệp phải bán hàng theo giá niêm yết, không có cơ hội đội giá l ên cao, nhờ đó giá cả được giữ ổn định. Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, trong nước lại luôn phải đối mặt với thiên tai, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao ở mức 9,2%. Đến năm 1999, sau một năm luật thuế GTGT được áp dụng, giá cả t rong từng quý cũng có sự biến động nhưng tổng kết cả năm sự biến động lại rất nhỏ. Nói tóm lại, việc áp dụng luật thuế GTGT đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. 2.1.2. Đối với việc hoàn thiện chính sách thuế Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ và việc nghiên cứu, xây dựng và triển khai luật thuế này đã góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của Việt Nam. Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 8
  10. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp Để đạt được hiệu quả cao nhất từ luật thuế này thì Chính phủ, Quốc hội đồng thời phải xây dựng đồng bộ các luật thuế có liên quan, điều này đánh dấu bước tiến mới trong hệ thống chính sách thuế ở Việt nam, sự đổi mới đó phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Khi các nước trong khu vực và trên thế giới hầu hết đều đã hoặc đang nghiên cứu áp dụng thuế GTGT thì chúng ta cũng không thể giữ mãi luật thuế doanh thu chồng chéo, nhiều mức thuế suất. Bởi vậy, thay đổi cũng là một yếu tố tất nhiên. Khi sắc thuế GTGT đi vào cuộc sống đã luôn được các cơ quan chức năng quan tâm theo dõi, điều chỉnh những thiếu sót, bất hợp lý một cách kịp thời. Thuế GTGT là một sắc thuế hiện đại, khi áp dụng nó đòi hỏi phải có cơ chế quản lý thuế hiện đại, do đó sẽ thúc đẩy quá trình cải cách hệ thống thuế ở nước ta theo hướng đồng bộ có hiệu quả. 2.1.3. Đối với một số lĩnh vực khác Thứ nhất, thực hiện thuế GTGT với 3 mức thuế suất 0%; 5%; 10%; ít hơn so với 11 mức thuế suất thuế doanh thu trước đây (từ 0,5% đến 30%) đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, th ực hiện hạch toán kinh doanh, tính toán giá thành, giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các ngành như: cơ khí, xây dựng, vận tải, dệt may, da giày trước khi áp dụng luật thuế GTGT còn gặp nhiều khó khăn, kinh doanh không hiệu quả; sau khi áp dụng thuế thì đa số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trước và nộp đủ thuế theo quy định. Thứ hai, thực hiện luật thuế mới ngành thuế đã thực hiện một bước củng cố tổ chức, hoàn thiện và đổi mới quy trình. Trong thời gian qua, ngành thuế đã xây dựng và ngày một hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ quản lý thuế tương đối đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tăng dần tính công khai minh bạch. Kiện toàn bộ máy tổ chức ngành thuế dọc từ trung ương đến tỉnh, huyện, thực hiện song trùng lãnh đạo giữa ngành và địa phương. Tổ chức bộ máy theo mô hình kết hợp giữa quản lý theo chức năng, theo đối tượng và theo sắc thuế. Đào tạo được đội ngũ gần bốn vạn cán bộ thuế có trình độ nghiệp vụ khá, có phẩm chất đạo đức tốt. Thứ ba, góp phần thực hiện thành công các cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Hầu hết các nước trên thế giới đã áp dụng thuế GTGT. Việc ban hành Luật thuế tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư phát triển sản xuất, kinh doan h và hoạt động thương mại của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo cam kết khi hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu, đồng thời phải bãi bỏ các khoản trợ cấp trực tiếp từ Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 9
  11. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp ngân sách cho doanh nghiệp, việc thu thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu, hoàn thuế cho hàng hoá xuất khẩu đã góp phần điều chỉnh cơ chế kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước và bù đắp cho Ngân sách phần thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu. 2.2. Hạn chế 2.2.1. Gian lận, thất thu thuế còn nhiều Thất thu thuế được hiểu là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ các cá nhân, tổ chức có tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hay có những điều kiện cơ sở vật chất nhất định so với khả năng của họ cần phải động viên vào ngân sách nhà nước (NSNN), song vì những lý do xuất phát từ phía nhà nước hay người nộp thuế mà những khoản tiền đó không được nộp vào NSNN. Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất kỳ hệ thống thuế khoá nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người nộp thuế. Trên thực tế thì hai lợi ích này thường mâu thuẫn với nhau, Nhà nước luôn có khuynh hướng tăng nguồn thu từ thuế, trong khi đó người nộp thuế luôn mong muốn càng giảm số thuế phải nộp càng nhiều càng tốt. Hay nói cách khác, ở đâu có thuế khoá thì ở đó có thất thu. Ở nước ta, hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng ngày càng lâm vào tình cảnh rất đáng lo ngại. Cho đến ngày 30/9/2002 tổng số hồ sơ do các doanh nghiệp gởi đến cơ quan thuế đề nghị hoàn là 30.340 bộ, với tổng số tiền thuế đề nghị hoàn là 18.054 tỷ đồng. Cơ quan thuế các cấp đã kiểm tra hồ sơ hoàn thuế tại nhiều sở và đã loại trừ 4.272 hồ sơ không đủ căn cứ hoàn thuế: mắc các sai phạm về hành chính thuế hoặc phát hiện có mâu thuẫn về số liệu kê khai xin hoàn thuế, không đủ độ tin cậy... với số tiền là 3.138 tỷ đồng, bằng 17,4% số tiền đề nghị hoàn. Như vậy, hiện tượng gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT đã vượt quá điểm báo động đáng lo ngại, nó không chỉ gây thiệt hại về nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn có những tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và sự tăng trưởng của nền kinh tế. Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn (trừ những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia tăng). Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 10
  12. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình trung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. 2.2.2. Phối hợp các ngành còn lỏng lẻo Một khó khăn hiện nay đang đặt ra với ngành Thuế là, khi phát hiện ra dấu hiệu vi phạm của các doanh nghiệp đang tồn tại sử dụng hóa đơn GTGT của doanh nghiệp vi phạm bỏ trốn, nhưng lại thiếu chế tài xử lý cụ thể đối với những trường hợp vi phạm đó. Thế nên, ngành Thuế chỉ có thể trao đổi theo diện phối hợp giữa cơ quan Thuế và cơ quan Công an để điều tra làm rõ. Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế. Cụ thể: - Việc cấp giấy phép kinh doanh của cơ quan Bộ, Sở Đầu tư, UBND tỉnh – thành phố các cấp không gắn liền với việc kê khai đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế của các đơn vị với cơ quan thuế, từ đó nhiều doanh nghiệp tuy có quyết định thành lập nhưng địa điểm và hoạt động ở đâu, từ bao giờ, cơ quan thuế cũng như cơ quan ban hành quyết định thành lập doanh nghiệp cũng không tìm ra. - Do việc Ngân hàng phải đảm bảo bí mật về thông tin và quyền lợi của người gửi tiền (chủ tài khoản) nên sự phối hợp giữa cơ quan thuế và ngân hàng trong việc thực hiện cưỡng chế để đảm bảo thu đủ tiền thuế vào NSNN của đối tượng nộp thuế theo qui định của pháp luật chưa được thực hiện. - Xử lý các hành vi vi phạm của các cơ quan chức năng còn chậm và chưa nghiêm là một nguyên nhân làm cho việc chiếm dụng tiền thuế ngày càng nghiêm trọng. Cụ thể là một số doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT bị cơ quan thuế và công an phát hiện có sự gian lận, nhưng cho đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm với nhiều lý do như thiếu kinh phí, con người để điều tra, xác minh hoặc tội danh chưa rõ. Đối với những trường hợp đã bị xử lý thì mức phạt chưa nghiêm không có tác dụng răn đe, giáo dục. - Việc cưỡng chế thi hành các quyết định xử lý về thuế, về phạt có nhiều bất cập về lực lượng, tổ chức, các trình tự thủ tục cưỡng chế đảm bảo thu đủ tiền thuế, tiền phạt... - Công tác thống kê, khai thác thông tin kinh tế - xã hội trong công tác quản lý thu thuế bị coi nhẹ dẫn đến các cơ quan quản lý Nhà nước không nắm sát tình hình sản xuất kinh doanh ở địa phương nên khi kiểm tra không so sánh đối chiếu được thực lực, khả năng nguồn hàng của địa phương cung cấp để từ đó có cơ sở đối chiếu, đấu tranh với các hành vi sai phạm, cũng như hoạch định chính sách kinh tế của địa phương. Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 11
  13. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp - Về phía cơ quan pháp luật (Công an, Viện kiểm soát) do lực lượng cán bộ chưa nắm rõ và cập nhật đầy đủ các chính sách, chế độ, nghiệp vụ trong lĩnh vực thuế, chưa quan tâm được nhiều tới việc bố trí lực lượng đủ mạnh để phối hợp thường xuyên với cơ quan thuế trong công tác điều tra xác định rõ hành vi sai phạm của các đối tượng trong lĩnh vực thuế để xử lý công khai kịp thời các tội phạm trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế, nhằm giáo dục răn đe các đối tượng khác trong việc kê khai, thực hiện nghĩa vụ thuế. Việc trao đổi thông tin, uỷ thác điều tra, xác minh giữa Việt Nam và các nước khác trong lĩnh vực thuế còn hạn chế. 2.2.3. Cơ chế quản lý còn chưa hợp lý Đối với hệ thống thuế nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể … Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo… Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế. Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong th ời kỳ mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý. Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại một số bất cập trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố, cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý... Thực hiện đề án 30 của chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, cho đến năm 2010, Bộ tài chính cho biết đã hủy bỏ được 11 thủ tục hành chính, thay thế 4 thủ tục mới, sửa đổi bổ sung 243 thủ tục, đơn giản hóa được 76% và cắt giảm được 36,1% chi phí tuân thủ. Tuy nhiên doanh nhiệp vẫn gặp nhiều thủ tục hành chính rườm rà và đặc biệt trong Hội nghị đối thoại giữa Tổng cục thuế, Bộ tài chính và các doanh nghiệp ngày 16/6/2010, nhiều doanh nghiệp đã cho ý kiến về vấn đề bị đối xử bất công cũng như cung cách làm việc còn nặng tính quan liêu, hách dịch của cán bộ ngành thuế [1]. Bên cạnh đó, ngành thuế còn chưa thực hiện hết chức năng của mình trong trường hợp thực hiện trách nhiệm xử phạt hành chính đối với các trường hợp gian lận thuế GTGT. Nguyễn Hồng Thắng – ĐH Kinh tế TP.HCM, Hiện tượng gian lận thuế giá trị gia tăng: nguyên 1 nhân và biện pháp khắc phục, 30/8/2009, Luật Việt , http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu- trao-doi/kinh-te-thuong-mai/2009/8556/Hien-tuong-gian-lan-thue-gia-tri-gia-tang-nguyen-nhan- va.aspx . truy cập ngày 1/4/2011 Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 12
  14. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp 2. 3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập 2.3.1. Nhìn từ góc độ nhà nước a. Đối tượng chịu thuế Chính sách hiện hành quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế b iến không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế. Ngoài ra, khi bàn về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế của luật thuế GTGT thì Điều 5 và Điều 8 của luật đã quy định rõ ràng những đối tượng nào không phải chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng mới, vậy những trường hợp này thì sẽ xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng trong việc áp thuế và không bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ. b. Về thuế suất Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức t huế suất giảm đi rất nhiều so với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn thường xuyên được xem xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ thống nhiều mức thuế suất này. Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc thuế thật công bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu chuẩn phân loại hàng hóa, dịch vụ để từ đó áp vào các nhóm thuế suất khác nhau. Điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định, sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn một khoản chi phí nhất định để tổ chức trả lời giải thích cụ thể… Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ sản xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy nên công tác tính toán thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất. Do đó, doanh nghiệp có thể lợi dụng để trốn lậu thuế. Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 13
  15. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp c. Chế độ hóa đơn chứng từ Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy nhiên nền kinh tế của nước ta hiện nay việc mua bán được thanh toán c hủ yếu bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi. Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn, bên cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn… Các hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Chế độ hoá đơn chưa được thi hành nghiêm chỉnh với nhi ều thủ đoạn trốn lậu thuế tinh vi từ hoá đơn giả đến hoá đơn "đen" (mua của cơ quan thuế về bán lại cho cơ sở kinh doanh khác sử dụng để hợp pháp hoá việc mua bán hàng trốn lậu thuế), thành lập các doanh nghiệp mua bán hóa đơn, ghi doanh thu trên liên hoá đơn lưu tại cơ sở và trên liên giao cho khách chênh lệch đến hàng chục, hàng trăm lần… đang trở thành con dao 2 lưỡi trong công tác quản lý thu thuế. Cụ thể: - Do luật doanh nghiệp quá thông thoáng, thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn giản, không có sự kiểm tra kịp thời sau đăng ký kinh doanh, chưa theo dõi được liên tục tình hình hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký. Do vậy, hàng ngàn doanh nghiệp không kinh doanh hoặc đã bỏ kinh doanh nhưng không được phát hiện kịp thời, trong khi cơ quan thuế vẫn bán hoá đơn trên cơ sở hồ sơ đăng ký kinh doanh đã được cấp. - Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp: qui định hiện hành là không phải lập bảng kê hoá đơn bán hàng (mẫu 02/GTGT). Do vậy, cơ quan thuế không có cơ sở để kiểm tra, đối chiếu việc sử dngj hoá đơn của các hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, trong khi các hoá đơn này được khấu trừ theo tỷ lệ % trên giá mua vào. - Theo qui định tại công văn số 6615/TC/TCT ngày 16/7/2001 của Bộ Tài chính: đối với số hàng hoá bán lẻ cho khách hàng không lấy hoá đơn, cuối ngày đơn vị bán hàng phải lập một hoá đơn chung cho số hàng này và liên 2 (giao cho khách hàng) được lưu tại quyển. Nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện qui định này và vẫn xé liên 2, gây thất lạc, mất. Đồng thời một số d oanh nghiệp đã lợi dụng việc không phải giao liên 2 cho khách hàng để báo mất những liên 2 này và dùng để xuất hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị hoặc bán cho người khác sử dụng. Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 14
  16. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp - Việc xử lý các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng hoá đơn hiện nay không được qui định tại nhiều văn bản khác nhau, không thống nhất hoặc không cụ thể, gây khó khăn cho việc thực hiện xử lý vi phạm ở các địa phương . d. Quy định khấu trừ và hoàn thuế Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nhằm khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, lợi dụng quy định này một số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà thực ra là tiêu thụ trong nước nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho ngân sách nhà nước. Mặc dù đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất khẩu nhưng vẫn không loại bỏ hết được tình trạng này. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà thầu chính của dự án ODA, cơ quan thuế rất khó xác định chính xác số thuế GTGT đầu vào của nhà thầu chính, vì họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ mua vào để thực hiện hợp đồng ký với chủ dự án, nhưng trên thực tế có nhiều hàng hóa nhà thầu chính mua vào phục vụ cho nhiều dự án ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA. Việc quy định “hoàn thuế trong trường hợp có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có Nhà nước có thầm quyền” là một quy định làm mất định tính thực thi của Luật Thuế GTGT. Hơn nữa với quy định này sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng và tuỳ tiện trong quá trình quyết định hoàn thuế. e. Thủ tục thành lập công ty còn chưa chặt chẽ Hiện nay, thủ tục xin thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hoặc công ty cổ phần quá thông thoáng. Chính sách mở cửa của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng có nhu cầu thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trong cấp phép thành lập doanh nghiệp, người ta vẫn thấy sự hạn chế đáng báo động về vấn đề này. Đó là việc các cơ quan hữu quan chưa có được sự phối hợp đồng bộ trong công tác quản lý và giám sát chặt chẽ doanh nghiệp kể từ khi họ làm thủ tục "khai sinh". Trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp, người ta thấy doanh nghiệp nào cũng đăng ký quá nhiều ngành nghề và số vốn điều lệ cũng rất lớn. Song, cơ quan cấp phép lại chẳng hề đi thẩm định thực tế những lời khai trong hồ sơ của người xin cấp phép. Điều này cũng chẳng thể trách cơ quan cấp phép, vì họ cũng thực hiện theo quy định. Và chỉ cần sự hợp thức hóa, không ít chủ doanh nghiệp sẽ "lái" công ty của họ đi theo hướng khác. Cụ thể là sau khi "khai sinh", nhiều công ty không hoạt động kinh doanh như đã đăng ký, mà lại kinh doanh những ngành nghề khác có lợi nhuận hơn, Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 15
  17. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp hoặc kinh doanh những mặt hàng bất hợp pháp, thậm ch í chỉ buôn bán hóa đơn GTGT để thu lời bất chính. Khi bị phát hiện hành vi gian dối gây thiệt hại kinh tế không nhỏ cho Nhà nước thì nhiều chủ doanh nghiệp đã cao chạy xa bay. Và cũng chỉ một thời gian ngắn sau đó, vẫn chủ doanh nghiệp bỏ trốn ấy lại đến cơ quan cấp phép xin thành lập doanh nghiệp mới mà cơ quan cấp phép chẳng hề hay biết. f. Thời hạn kiểm tra gian lận thuế còn ngắn Trong trường hợp ngành thuế nghi ngờ doanh nghiệp gian lận thuế GTGT, cần có thời gian để xác minh thì thời hạn 15 ngày là không đủ, bởi vì việc xác minh các hóa đơn mất rất nhiều thời gian, thậm chí không được cơ quan thuế các địa phương phản hồi. Theo báo cáo của cơ quan thuế thì có khoảng 50% số hồ sơ gởi đi xác minh là được phản hồi. Trong trường hợp này ngành thuế buộc phải hoàn thuế cho doanh nghiệp. Do bức xúc với tình trạng ngân sách nhà nước bị rút ruột do gian lận thuế GTGT, hiện nay cơ quan thuế chỉ đảm bảo hoàn thuế theo thời hạn 15 ngày trong những trường hợp thanh toán qua ngân hàng, những trường hợp xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới hoặc thanh toán bằng tiền mặt thì ngành thuế không đảm bảo thời hạn 15 ngày. Việc hoàn thuế GTGT dựa trên những hóa đơn chứng từ đã có, còn tính trung thực của các hoá đơn chứng từ này (đã phát sinh từ 3 tháng trước đó) thì không được xác minh đầy đủ. Đây là thời gian đủ để các doanh nghiệp thực hiện phi vụ lừa đảo rồi bỏ trốn. Vì vậy cần phải thực hiện việc kiểm tra, ngăn chặn từ xa chứ không phải chờ đến khi doanh nghiệp xin hoàn thuế GTGT. Việc chấp nhận khấu trừ khống đối với các loại hàng nông, lâm, thủy hải sản mua của nông dân trên cơ sở thiết lập bảng kê là k ẽ hở để các doanh nghiệp gian lận thuế giá trị gia tăng. g. Tổ chức bộ máy, cán bộ ngành thuế còn chưa hoàn thiện Bộ máy tổ chức ngành thuế chưa được hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc [2]. Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều 2 Từ nguyên, Chính sách thuế ,”sửa” nhiều doanh nghiệp vẫn kêu , 17/06/2010, báo Việt Nam economy, http://vneconomy.vn/20100616034828815P0C6/chinh-sach-thue-sua-nhieu-doanh-nghiep-van-keu.htm , truy cập ngày 2/4/2011 Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 16
  18. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước, một số trường hợp xảy ra hiện tượng chồng chéo [3]. Hiện nay, trong mỗi doanh nghiệp được hoàn thuế GTGT, số hoá đơn chứng từ đầu vào được xem xét để tính toán hoàn thuế chỉ giới hạn trong phạm vi có liên quan đến hoàn thuế, tức chỉ gắn liền với lô hàng xuất xuất được hoàn thuế hay trong thời hạn “3 tháng luỹ kế âm liên tục” theo quy định. Đa số hoá đơn, chứng từ còn lại nằm ngoài tầm. Số “ngoài tầm” này rất lớn và thường không bị kiểm tra. Hoặc nếu có, thì việc kiểm tra cũng không nghiêm ngặt như trong các trường hợp hoàn thuế. Bởi, với phương pháp truy xuất, đối chiếu chứng từ, hoá đơn thủ công và số lượng cán bộ có hạn như hiện nay, thì khối lượng hoá đơn đã vượt quá xa khả năng kiểm soát của ngành thuế. Cũng chính từ sự quá tải này nên trong thực tế ở địa phương, ngay đối với các trường hợp đã được hoàn thuế, tỷ lệ kiểm tra sau hoàn thuế hàng năm vẫn chưa đạt đến 30% số doanh nghiệp đã được hoàn! Có thể ước lượng tỷ lệ doanh nghiệp được kiểm tra qua các s ố liệu như sau: Trong 15.000 doanh nghiệp, bình quân mỗi năm có khoảng 1.000 trường hợp được hoàn thuế (chiếm 6,66%). Trong 1.000 trường hợp này, hiện chỉ có thể kiểm tra sau khi hoàn chỉ 30%, khoảng 300 doanh nghiệp. Trong số 300 doanh nghiệp này, số chứng từ, hoạt động được kiểm tra chỉ đối với phần có liên quan đến trường hợp hoàn thuế. Giả dụ tỷ lệ này chiếm 50% hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thì tỷ lệ thực tế được chú ý kiểm tra, giám sát thực sự chỉ chiếm 1% so với yêu cầu kiểm tra (15.000 doanh nghiệp x 6,66% x 30% x 50% = 150; và 150/15.000 = 1%). Hơn nữa việc kiểm tra này, nếu có, chỉ do một số nhân viên thuế thực hiện khi thực hiện kiểm tra quyết toán thuế nên khả năng tiêu cực ở đây rất lớn. h. Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ Hiện nay phương pháp quản lý, thu thuế bằng các phương tiện điện tử hiện đại vẫn chưa được phổ biến ở nước ta trong khi các công cụ hiện đại, nhanh chóng, và tiện lợi đã được áp dụng ở nhiều nước hiện đại trên thế giới. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, 3 Tú Uyên, Thanh toán qua ngân hàng: Doanh nghiệp khổ vì “vướng” hoàn thuế , 13/5/2009, http://vneconomy.vn/20090513101341809P0C6/thanh-toan-qua-ngan-hang-doanh-nghiep-kho-vi-vuong- hoan-thue.htm /truy cập ngày 30/3/2011 Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 17
  19. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,...Ngay như trên website của Chính phủ cũng rất ít khi minh bạch nh ững báo cáo thường niên cũng như những số liệu, chứng cứ, chứng từ thu thuế của các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Sự thiếu tính hiện đại về phương tiện kỹ thuật trong việc quản lý thuế, thu thuế này đã khiến cho công tác thu thuế trở nên cồng kềnh, kém hiệu quả. 2.3.2. Nhìn từ góc độ doanh nghiệp Mặc dù các qui định pháp luật về thuế GTGT tỏ ra nghiêm khắc trong qui định nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp nhưng trên thực tế xảy ra không ít các hiện tượng doanh nghiệp trốn lậu thuế. Hiện trạng nà y phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân chính sau: a. Xuất phát từ động cơ lợi nhuận của các doanh nghiệp Mặc dù các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh đều nằm lòng khẩu hiệu: "nộp thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi công dân ", nhưng vì lợi ích kinh tế của họ, mà mọi lúc, mọi nơi họ luôn tìm cách lách luật, trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước [4]. Đa số các doanh nghiệp hiện nay ở qui mô vừa và nhỏ, nếu chấp hành nghiêm chỉnh Luật thuế thì chi phí tuân thủ của loại do anh nghiệp này ở mức cao. Những gánh nặng về thuế khiến cho doanh nghiệp thường kê khai không trung thực, bóp méo hành vi kinh doanh chân chính. Bởi lẽ, nếu họ kinh doanh chân chính thì họ sẽ bị thua thiệt, lợi nhuân thấp hoặc thậm chí không thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Điều này càng khiến cho việc quản lý thuế đối với khu vực này gặp nhiều khó khăn hơn [5]. b. Do những bất cập trong thủ tục nộp thuế GTGT Thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã được cải thiện nhiều song vẫn còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho người nộp thuế. Quá trình kê khai nộp thuế khiến các doanh nghiệp phải tốn thời gian, công sức và nhất là những khoản chi phí “không chính thức” trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với nhà 101 kiểu trốn thuế , 06/01/2006, Việt Báo http://vietbao.vn/The-gioi-giai-tri/101-kieu-tron- 4 thue/50760720/411/ , truy cập ngày 5/4/2011 5 Thủ tục nộp thuế giá trị gia tăng vẫn quá rườm rà , 14/3/2003 http://vietbao.vn/Kinh-te/Thu-tuc-nop- thue-gia-tri-gia-tang-van-qua-ruom-ra/10810504/87/ truy cập ngày 2/4/2011 Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 18
  20. Thực trạng công tác thu thuế GTGT ở Việt Nam và giải pháp nước. Ngoài việc khiến doanh nghiệp đang nộp thuế phải chịu gánh nặng tăng chi phí khi thực hiện nghĩa vụ thuế thì thủ tục rườm rà còn khiến nhiều đối tượng chưa thực hiện nghĩa vụ thuế “ngại” kê khai nộp thuế. Điều này dẫn đến khó tăng được diện thu thuế, cũng như số tiền thuế thu về cho ngân sách nhà nước. c. Doanh nghiệp chưa nhận thức đúng nghĩa vụ nộp thuế Nộp thuế là nghĩa vụ của doanh nghiệp, nhưng hầu hết các doanh nghiệp chưa nhận thức được rằng, nộp thuế không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của doanh nghiệp, đối với họ nộp thuế luôn là một gánh nặng. Quyền của doanh nghiệp cần được bảo đảm trên thực tế là: - Quyền được tạo thuận lợi trong cung cấp các thông tin về thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. - Được giải quyết thuận lợi và nhanh chóng quyền yêu cầu miễn giảm thuế và hoàn thuế [6]. 2.3.3. Từ góc độ người tiêu dùng Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành . Luật pháp Việt Nam chưa có những quy định thật cụ thể về nghĩa vụ lập hoá đơn GTGT khi bán hàng hoá, dịch vụ có giá trị thấp dưới mức quy định (100.000 đ). Hơn nữa, đối với người mua là người tiêu thụ cuối cùng những hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT thì hoàn toàn không có quyền lợi gì trong việc yêu cầu bê n bán phải thực hiện nghĩa vụ lập hoá đơn. Thói quen không lấy hoá đơn VAT khi mua hàng của người tiêu dùng đã vô tình tiếp tay cho tình trạng gian lận thuế. Hầu hết người tiêu dùng khi thanh toán không yêu cầu bên bán xuất hóa đơn VAT vì cho rằng như thế sẽ rất mất thời gian, trong khi hóa đơn VAT cũng không giúp họ sử dụng được việc gì. Ví dụ rõ ràng nhất là việc tổ chức tiệc cưới tại các nhà hàng, khách sạn từ xưa đến nay trên thực tế vẫn có hợp đồng (bằng miệng, bằng giấy, bằng phiếu đặt hàng) nhưng kết thúc chưa có gia đình nào yêu cầu xuất hoá đơn. Vấn đề này do thói quen, do không có nhu cầu sử dụng hoá đơn. Theo quy định, các trường hợp khách hàng không yêu cầu xuất hoá đơn, doanh nghiệp vẫn phải ghi hoá đơn lưu tại cuống để làm cơ sở kê khai thuế đầu ra. Lợi dụng vấn đề này, hầu hết các doanh nghiệp coi đây là hoạt động kinh doanh ngoài luồng, không xuất hoá đơn, không kê khai thuế. Quỳnh Trang, Thủ tục thuế rườm rà sinh ra tham nhũng, 17/7/2008,báo vnMedia, 6 http://www.tin247.com/thu_tuc_thue_ruom_ra_sinh_ra_tham_nhung-3-44718.html , truy cập ngày 5/4/2011 Nhóm 8 lớp TMA320.3 Page 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2