Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
DIỄN BIẾN XÂM NHẬP MẶN TRÊN CÁC SÔNG CHÍNH CHẢY<br />
QUA ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br />
Lê Ngọc Tuấn 1, Nguyễn Lê Phương Nguyệt 2, Huỳnh Anh Kiệt 3*<br />
Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến xâm nhập mặn (XNM)<br />
trên các sông chính chảy qua khu vực thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) như sông<br />
Nhà Bè, Sài Gòn, Đồng Nai trong 10 năm gần đây (2006 - 2015), bao gồm diễn<br />
biến độ mặn cao nhất, thấp nhất và trung bình; biên độ mặn mùa khô và theo tháng.<br />
Kết quả cho thấy, độ mặn trên các sông gia tăng, XNM có xu hướng ngày càng lấn<br />
sâu vào nội địa, đỉnh mặn thường xuất hiện vào tháng 2 đến tháng 4. Sông Nhà Bè<br />
chịu ảnh hưởng của XNM lớn nhất (dao động từ 2,49 – 13,1‰ qua các năm), tiếp<br />
đó là các sông Đồng Nai (0,2 – 9,3‰), sông Sài Gòn (0,2 – 6,2‰), có nguy cơ ảnh<br />
hưởng đến hoạt động sản xuất, sinh hoạt cũng như cấp nước tại huyện Bình Chánh,<br />
Nhà Bè và Cần Giờ. Do đó, đòi hỏi nghiên cứu, đánh giá tính dễ bị tổn thương do<br />
XNM đến các ngành, lĩnh vực, là cơ sở hoạch định các giải pháp ứng phó tương<br />
thích, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu.<br />
Từ khóa: Khả năng thích ứng, Biến đổi khí hậu, Cộng đồng.<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), nhiều nơi trên thế giới đang đối mặt<br />
với nhiều thiên tai như bão lớn, nắng nóng, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn<br />
(XNM)… gây thiệt hại nặng nề, đặc biệt tại Việt Nam [1]. BĐKH và nước biển<br />
dâng (NBD) gây sức ép lên môi trường nói chung và nguồn nước nói riêng, ảnh<br />
hưởng lớn đến dòng chảy trên các sông bởi sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa [2-3],<br />
mực nước biển [4]…, gián tiếp ảnh hưởng đến quá trình XNM, đặc biệt là ở những<br />
vùng cửa sông và ven biển. Việc giảm lượng nước ngọt thượng nguồn do gia tăng<br />
nhiệt độ và giảm lượng mưa vào mùa kiệt, kết hợp với dòng chảy triều tăng do<br />
mực NBD làm mặn ngày càng xâm nhập sâu hơn vào nội đồng [5], ảnh hưởng đến<br />
các hoạt động dân sinh kinh tế như nông nghiệp [6], thủy sản [7], và hệ sinh thái tự<br />
nhiên…, quan ngại nhất là nguồn nước sinh hoạt ở hạ lưu sông [8]. Nói cách khác,<br />
XNM trong bối cảnh BĐKH là một trong những thách thức lớn, cần nghiên cứu,<br />
đánh giá – tạo cơ sở thích ứng phù hợp.<br />
Trong những năm gần đây, độ mặn trên sông Sài Gòn ngày càng tăng. Tình<br />
trạng thiếu nước, XNM trong mùa khô diễn ra ngày càng gay gắt, ảnh hưởng trực<br />
tiếp đến hệ thống cấp nước cho thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Tại trạm bơm<br />
nước thô Hòa Phú (trên sông Sài Gòn thuộc huyện Củ Chi), từ cuối tháng 1-2016<br />
đến nay, độ mặn thường xuyên trên ngưỡng 150 mg/L; nhiều đợt độ mặn vượt 250<br />
mg/L, mỗi đợt kéo dài 2-3 giờ buộc Nhà máy nước (NMN) Tân Hiệp (huyện Hóc<br />
Môn) phải ngừng lấy nước thô (tổng cộng 15 giờ). Tại khu vực cầu Hóa An (vị trí<br />
khai thác nước thô của các NMN Thủ Đức, BOO Thủ Đức, Thủ Đức 3), độ mặn<br />
cũng có xu hướng gia tăng, gây nhiều khó khăn cho vận hành và sản xuất.<br />
Do đó, tình hình XNM tại TPHCM cần được quan tâm quản lý, đặc biệt trong<br />
bối cảnh BĐKH. Vì vậy, nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến XNM trên<br />
các sông chính chảy qua khu vực TPHCM (sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông<br />
Nhà Bè) trong 10 năm gần đây (2006-2015), bao gồm diễn biến độ mặn cao nhất,<br />
thấp nhất và trung bình, chỉ ra các khu vực nhạy cảm với XNM, tạo cơ sở cho việc<br />
<br />
<br />
182 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
đề xuất các giải pháp thích ứng, giảm thiểu tác động của XNM, góp phần đảm bảo<br />
phát triển bền vững tại địa phương.<br />
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
2.1. Phương pháp thu thập tài liệu<br />
Số liệu độ mặn theo giờ tại các trạm Nhà Bè, Cát Lái, Thủ Thiêm (giai đoạn<br />
2006-2015), trạm Long Đại, Lái Thiêu, cầu Ông Thìn, trạm Lý Nhơn (năm 2015)<br />
được thu thập tại Đài Khí tượng Thủy văn Khu vực Nam bộ phục vụ đánh giá. Đặc<br />
điểm dữ liệu và phương án đánh giá diễn biến độ mặn tại các trạm quan trắc:<br />
Tại trạm Nhà Bè: độ mặn được quan trắc theo giờ từ tháng 2-6 hàng năm, tuy<br />
nhiên trong một tháng chỉ quan trắc khoảng 15 ngày không liên tục. Do đó, diễn<br />
biến độ mặn tại trạm Nhà Bè sẽ được đánh giá theo tháng (chọn các tháng mùa khô<br />
và tháng chuyển tiếp: từ tháng 2-5 hàng năm).<br />
Tại trạm Cát Lái và trạm Thủ Thiêm: độ mặn được quan trắc theo giờ tất cả các<br />
ngày trong tháng 4 hàng năm. Do đó, diễn biến độ mặn tại 2 trạm này được đánh<br />
giá theo ngày; đồng thời sự dao động của độ mặn được đánh giá qua biên độ tháng<br />
và biên độ ngày.<br />
Ngoài ra, số liệu quan trắc độ mặn định kỳ tại TpHCM (các trạm Bến Củi, Thị<br />
Tính, Phú Cường, Lái Thiêu, Long Đại, Kênh Xáng – An Hạ, Cống Kênh C, Cầu<br />
Ông Thìn, Lý Nhơn), Bình Dương (trạm Hóa An) và Đồng Nai (SW-DN-14, SW-<br />
DN-15, SW-DN-16, SW-DN-17, SW-DN-18, SW-DN-19, SW-NB-01, SW-DT-<br />
01, SW-DT-02, SW-TL-02, SW-TV-05, SW-GG-01 và SW-GG-02) cũng được<br />
thu thập phục vụ đánh giá phân bố độ mặn cao nhất năm tại khu vực nghiên cứu<br />
(hình 1).<br />
2.2. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu<br />
Sử dụng phần mềm Excel nhằm thống kê, xử lý các số liệu mặn từ dữ liệu<br />
thu thập.<br />
Độ mặn cao nhất ngày và thấp nhất ngày: Smax-ngày = max(Si); Smin-ngày = min(Si);<br />
trong đó Si là chuỗi giá trị mặn trong một ngày;<br />
1 n<br />
Độ mặn trung bình ngày: Stb-ngày = Si (Si là chuỗi giá trị mặn trong một<br />
n i1<br />
ngày, n là số giá trị mặn đo trong một ngày);<br />
Độ mặn cao nhất năm và thấp nhất năm = Smax-năm = max(Sj); Smin-năm = min(Sj);<br />
trong đó Sj là chuỗi giá trị mặn trong một năm;<br />
Độ mặn trung bình năm = Stb-năm = (n là số ngày được đo trong<br />
năm);<br />
Biên độ mặn = Smax - Smin<br />
2.3. Phương pháp GIS<br />
Phần mềm MapInfor 11.5 và Sufer 10.0 được sử dụng để thành lập bản đồ<br />
phân bố độ mặn cao nhất năm tại các sông chính chảy qua địa bàn TPHCM theo<br />
từng năm.<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 183<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Sơ đồ vị trí các trạm quan trắc.<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1. Diễn biến độ mặn tại một số trạm quan trắc<br />
3.1.1. Trạm Nhà Bè<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(a) (b)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(c)<br />
Hình 2. Diễn biến độ mặn theo tháng tại trạm Nhà Bè giai đoạn 2006 – 2015: (a)<br />
cao nhất; (b) trung bình; (c) thấp nhất.<br />
<br />
<br />
184 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
Hình 2 thể hiện một số đặc trưng độ mặn tại trạm Nhà Bè trong giai đoạn 2006 -<br />
2015 bao gồm: (1) Độ mặn cao nhất tháng; (2) Độ mặn trung bình tháng; (3) Độ<br />
mặn thấp nhất tháng; (4) Biên độ mùa khô.<br />
- Về độ lớn: trong giai đoạn 2006 – 2015, độ mặn cao nhất, trung bình và thấp<br />
nhất lần lượt dao động từ 4,5‰ - 16,6‰, 2,49‰ – 13,1‰ và 0,4 – 10,8‰.<br />
- Về diễn biến độ mặn trong mùa khô: các đặc trưng về độ mặn (độ mặn cao<br />
nhất, trung bình, thấp nhất) thường diễn biến tương đồng: cao nhất vào tháng 2<br />
(2006, 2008, 2009, 2012 - 2015) hoặc tháng 3 (năm 2007, 2010, 2011); Thấp nhất<br />
ở tháng chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa.<br />
- Về biên độ mặn: Trong giai đoạn 2006-2015, biên độ mặn mùa khô khá<br />
cao, dao động từ 9,3 – 14,7‰ (hình 3). Đối với biên độ mặn theo tháng, giá trị<br />
tương ứng tháng 2, 3, 4 và 5 lần lượt là 4,4 - 9,8‰, 5,7 – 10,7‰, 5,3 - 11‰ và<br />
3,4 – 9,3‰.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(a) (b)<br />
Hình 3. Biên độ mặn tại trạm Nhà Bè giai đoạn 2006 – 2015: (a) biên độ mặn mùa<br />
khô, (b) biên độ mặn theo tháng.<br />
<br />
Với các đặc trưng như trên, có thể thấy độ mặn tại trạm Nhà Bè khá cao và<br />
thiếu ổn định giữa các tháng trong năm hay giữa các năm – có khả năng gây rất<br />
nhiều khó khăn cho các hoạt động thích ứng XNM trong cả sinh hoạt và sản xuất.<br />
3.1.2. Trạm Cát Lái<br />
Hình 4 thể hiện một số đặc trưng độ mặn vào tháng 4 hàng năm trong giai đoạn<br />
2006 – 2015.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(a) (b)<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 185<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(c)<br />
Hình 4. Diễn biến độ mặn ngày trong tháng 4 tại trạm Cát Lái giai đoạn<br />
2006 – 2015: (a) cao nhất; (b) trung bình; (c) thấp nhất.<br />
<br />
Về độ lớn: độ mặn cao nhất, trung bình và thấp nhất lần lượt dao động từ 0,2‰<br />
- 10,4‰, 0,2 – 9,3‰ và 0,1 – 7,2‰.<br />
Về diễn biến độ mặn trong tháng 4: xu thế giảm từ đầu tháng đến cuối tháng<br />
(ngoại trừ năm 2009), theo đó, đỉnh mặn tại trạm Cát Lát có thể không thuộc tháng<br />
4, cần thiết bổ sung quan trắc liên tục vào tháng 3 nhằm hoàn thiện dữ liệu phục vụ<br />
đánh giá.<br />
Về biên độ mặn: Hình 5 thể hiện các đặc trưng về biên độ mặn bao gồm (1)<br />
Biên độ mặn tháng 4; (2) Biên độ mặn ngày cao nhất; (3) Biên độ mặn ngày thấp<br />
nhất. Có thể thấy, biên độ mặn có xu thế biến đổi tương đối khác với các đặc<br />
trưng độ mặn còn lại - như biên độ mặn tháng 4 cao nhất vào năm 2010 (6‰)<br />
trong khi năm 2011 mới là năm có độ mặn cao nhất. Ngoài ra, biên độ mặn ngày<br />
trong hầu hết các năm đều xấp xỉ bằng biên độ mặn tháng 4 – cho thấy độ mặn<br />
biến động rất lớn trong một thời gian ngắn, có khả năng gây nhiều khó khăn cho<br />
quá trình thích ứng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 5. Diễn biến biên độ mặn tháng 4 tại trạm Cát Lái giai đoạn 2006 – 2015.<br />
<br />
3.1.3. Trạm Thủ Thiêm<br />
Hình 6 thể hiện một số đặc trưng độ mặn tại trạm Thủ Thiêm vào tháng 4 hàng<br />
năm trong giai đoạn 2006 - 2015.<br />
<br />
186 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(a) (b)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(c)<br />
Hình 6. Diễn biến độ mặn ngày trong tháng 4 tại trạm Thủ Thiêm giai đoạn 2006<br />
– 2015: (a) cao nhất; (b) trung bình; (c) thấp nhất.<br />
<br />
- Về độ lớn: độ mặn cao nhất, trung bình và thấp nhất lần lượt dao động từ 0,3<br />
– 7,8‰, 0,2 – 6,2‰ và 0,1 – 5,3‰.<br />
- Về diễn biến độ mặn trong tháng 4: về cơ bản, diễn biến độ mặn có nhiều nét<br />
tương đồng với trạm Cát Lái -giảm dần từ đầu tháng đến cuối tháng (ngoại trừ<br />
2008, 2009).<br />
- Về biên độ mặn: Hình 7 thể hiện các đặc trưng về biên độ mặn tại trạm Thủ<br />
Thiêm. Theo đó biên độ mặn tháng 4 cao nhất vào năm 2011 và thấp nhất vào năm<br />
2012 (tương đồng với xu thế các đặc trưng độ mặn khác). Biên độ mặn ngày lớn<br />
nhất dao động từ khoảng 0,9 – 3,9‰.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 7. Diễn biến biên độ mặn tháng 4 tại trạm Thủ Thiêm giai đoạn 2006 – 2015.<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 187<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
3.2. Diễn biến độ mặn cao nhất tại các sông chính chảy qua khu vực TPHCM<br />
giai đoạn 2006 - 2015<br />
Hình 8 thể hiện diễn biến độ mặn cao nhất năm trên các sông chính chảy qua<br />
khu vực TpHCM các trạm Nhà Bè, Cát Lái, Thủ Thiêm trong giai đoạn 2006 –<br />
2015 với xu hướng biến động khá tương đồng. Độ mặn cao nhất giảm dần từ trạm<br />
Nhà Bè (12,2 – 16,6‰) đến trạm Cát Lái (3,1 - 10,4 ‰) và trạm Thủ Thiêm (1,5 –<br />
7,8‰) -phù hợp với quy luật phân bố không gian. Độ mặn cao nhất ghi nhận vào<br />
năm 2011 ở tất cả các trạm, giảm mạnh vào năm 2012, sau đó tăng cao trở lại trong<br />
những năm 2013 - 2015.<br />
Trên sông Nhà Bè: Smax-năm tại trạm Nhà Bè cao nhất trong số các trạm quan<br />
trắc (dao động từ 12,2 – 16,6‰), nhất là năm 2011 -trùng với thời điểm mùa khô<br />
hạn nhất trong những năm gần đây. Hiện tượng El Nino cũng góp phần gia tăng<br />
độ mặn tại khu vực, gây bất lợi cho sản xuất và đời sống người dân khu vực sông<br />
Nhà Bè.<br />
Trên sông Sài Gòn - Đồng Nai (trạm Cát Lái): độ mặn lên cao nhất vào năm<br />
2011 (10,4‰), sau đó giảm đột ngột năm 2012 (còn 3,1‰) và có xu hướng tăng<br />
cao trở lại.<br />
Trên sông Sài Gòn: độ mặn ghi nhận tại trạm Thủ Thiêm dao động từ 1,5 –<br />
7,8‰. Tương tự, năm 2011 cũng ghi nhận độ mặn cao nhất trong chuỗi giá trị<br />
quan trắc.<br />
Hình 9 thể hiện phân bố độ mặn cao nhất khu vực Tp.HCM năm 2015: thấp<br />
trong nội đồng và cao dần về phía cửa sông. Huyện Cần Giờ và Nhà Bè chịu ảnh<br />
hưởng nhiều nhất của XNM. Trong đó, Cần Giờ chịu ảnh hưởng của ranh mặn lớn<br />
hơn 18‰ (tiến dần vào nội địa) và 33‰ đối với phần diện tích tiếp giáp biển.<br />
Ngoài ra, phía sông Nhà Bè, huyện Bình Chánh, quận 1, 2, 3 và 9 chịu nhiều ảnh<br />
hưởng của mặn với ranh mặn lên đến 7‰.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 8. Diễn biến độ mặn cao nhất năm tại một số trạm quan trắc khu vực<br />
TPHCM giai đoạn 2006 -2015.<br />
<br />
<br />
188 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 9. Phân bố độ mặn cao nhất trên các sông chính TPHCM năm 2015.<br />
<br />
TP.HCM là trung tâm phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, ngoài phát triển<br />
công nghiệp và dịch vụ, ngành nông nghiệp cũng có vai trò quan trọng, đóng góp<br />
17% GDP của địa phương [9]. Mặt khác, với sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên,<br />
chất lượng nguồn nước… ngành nông nghiệp trên địa bàn cũng rất nhạy cảm với<br />
các tác động của XNM, phân bố ở các khu vực cụ thể như sau:<br />
Trồng trọt: cây lúa (huyện Củ Chi, huyện Bình Chánh, quận 9, huyện Cần Giờ);<br />
rau (Củ Chi, Hóc Môn, quận 12, huyện Bình Chánh); Cây ăn quả (tập trung tại khu<br />
vực ven sông như Củ Chi, Hóc Môn, quận 12, quận Thủ Đức, huyện Bình Chánh,<br />
huyện Cần Giờ);<br />
Nuôi trồng thủy sản: huyện Bình Chánh, huyện Nhà Bè, vùng nuôi tôm và<br />
nghêu huyện Cần Giờ.<br />
Có thể thấy, các vùng tập trung phát triển trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đều<br />
nằm trong khu vực có nguy cơ chịu ảnh hưởng bởi XNM. Đặc biệt là huyện Cần<br />
Giờ, luôn chịu ảnh hưởng bởi độ mặn >18‰, ảnh hưởng đáng kể đến cấp nước<br />
cũng như tưới tiêu nông nghiệp.<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 189<br />
Hóa học & Kỹ thuật môi trường<br />
<br />
Ngoài ra, hệ thống cấp nước của thành phố cũng chịu tác động không nhỏ do<br />
XNM. Hai nhà máy nước lớn của thành phố là nhà máy nước Tân Hiệp (huyện<br />
Hóc Môn) và nhà máy nước Thủ Đức (quận Thủ Đức) đối mặt với nguy cơ nguồn<br />
nước nhiễm mặn 4‰, có năm lên đến hơn 9‰ (năm 2011).<br />
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá diễn biến độ mặn (cao nhất, thấp nhất,<br />
trung bình, biên độ mặn) tại khu vực TPHCM giai đoạn 2006-2015. Kết quả cho<br />
thấy, độ mặn trên các sông chính có nhiều biến động và có xu hướng ngày càng<br />
trầm trọng hơn. Đỉnh mặn thường xuất hiện vào tháng 2 – tháng 4. Tuy nhiên, tại<br />
trạm Cát Lái và Thủ Thiêm, độ mặn tháng 4 có xu hướng giảm từ đầu tháng đến<br />
cuối tháng, có khả năng đỉnh mặn không thuộc tháng 4. Do đó, cần bổ sung quan<br />
trắc liên tục độ mặn vào tháng 3 nhằm hoàn thiện dữ liệu phục vụ đánh giá. Độ<br />
mặn trên sông Sài Gòn và Đồng Nai có xu hướng gia tăng qua các năm trong giai<br />
đoạn 2006 – 2015, cụ thể: độ mặn trung bình tại trạm Thủ Thiêm (sông Sài Gòn)<br />
tăng từ 0,2 – 6,2‰ và tại trạm Cát Lái (sông Đồng Nai) tăng từ 0,2 – 9,3‰. Sông<br />
Nhà Bè hiện chịu nhiều ảnh hưởng của XNM, độ mặn qua các năm là khá cao và<br />
thiếu ổn định (độ mặn trung bình dao động từ 2,49 – 13,1‰, biên độ mặn mùa<br />
khô dao động từ 9,3 – 14,7‰), tác động đến hoạt động dân sinh kinh tế tại huyện<br />
Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ. Như vậy, diễn biến XNM tại TpHCM có dấu<br />
hiệu ngày một tăng cường, đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu chi tiết về khả năng dễ bị<br />
tổn thương do XNM, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH, tạo cơ sở cho việc hoạch<br />
định các giải pháp thích ứng tương thích cũng như định hướng phát triển sản xuất<br />
tại địa phương.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. The Australian Foundation for the Peoples of Asia and the Pacific – AFAP<br />
Việt Nam. 2015. Tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu.<br />
Available at: http://www.afap.org/afap-vietnam-vietnamese/afap-viet-nam-<br />
climate-change/<br />
[2]. Lê Anh Tuấn, 2008. Giáo trình Thủy văn môi trường. Trường Đại học Cần Thơ.<br />
[3]. Lê Thị Thúy Vân, Nguyễn Nhật Trường, 2014. Nhận định các yếu tố ảnh<br />
hưởng đến tình hình xâm nhập mặn ở đồng bằng sông MEKONG trong những<br />
năm gần đây. Khoa địa chất trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học quốc<br />
gia thành phố Hồ Chí Minh.<br />
[4]. Vũ Hoàng Hoa, Lương Hữu Dũng, 2009. Nghiên cứu, dự báo xu thế diễn biến<br />
xâm nhập mặn do nước biển dâng cho vùng cửa sông ven biển Bắc Bộ. Tạp<br />
chí Trường Đại học Thủy Lợi, số 27, 67 – 78.<br />
[5]. Phạm Tất Thắng, Nguyễn Thu Hiền, 2012. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu –<br />
nước biển dâng đến tình hình xâm nhập mặn dải ven biển đồng bằng Bắc Bộ.<br />
Tạp chí Khoa học kỹ thuật thủy lợi và môi trường – Số 37.<br />
[6]. Nguyễn Hoàng Đan và cộng sự (2014), Dự báo tác động của nước biển dâng,<br />
xâm nhập mặn theo các kịch bản Biến đổi khí hậu đến đất canh tác lúa vùng<br />
đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học công nghệ, Nông nghiệp và<br />
PTNT, kỳ 1 tháng 11/2014, 9-16.<br />
<br />
<br />
190 L. N. Tuấn, N. L. P. Nguyệt, H. A. Kiệt, “Diễn biến xâm nhập… thành phố Hồ Chí Minh.”<br />
Nghiên cứu khoa học công nghệ<br />
<br />
[7]. Barlow P.M., 2003. Ground Water in Freshwater – Saltwater Environments of<br />
the Atlantic Coast.<br />
[8]. Trần Quốc Đạt, Nguyễn Hiếu Trung và Kanchit Likitdecharote (2012). Mô<br />
phỏng xâm nhập mặn đồng bằng sông cửu long dưới tác động mực nước biển<br />
dâng và sự suy giảm lưu lượng từ thượng nguồn. Tạp chí Khoa học Trường<br />
Đại học Cần Thơ, 2012:21b 141-150.<br />
[9]. Cục Thống kê TPHCM, 2015. Niên giám thống kê TPHCM năm 2015.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
ASSESSING CHANGES IN SALTWATER INTRUSTION IN SOME<br />
MAIN RIVERS OF HO CHI MINH CITY<br />
This work aimed at assessing changes in saltwater intrusion (SI) in some<br />
main rivers of HoChiMinh City (HCMC) during the past ten years (2006-<br />
2015), including changes in the highest, the lowest, and average salinities, at<br />
the same time, the amplitude of salinity in dry season and month at<br />
monitoring stations were also assessed. The results showed that SI in HCMC<br />
tended to increase and propagate into the infield, salty peaks often appear in<br />
February to April. Nha Be River is the most affected by SI (annual average<br />
salinity ranged from 2.49 – 13.1‰, the amplitude of salinity in dry season is<br />
high, ranged from 9.3 – 14.7‰). Dong Nai (0.2 – 9.3‰) and Sai Gon (0.2 –<br />
6.2‰) rivers were followed with the increase trend of salinity by the time in<br />
the period of 2006-2015. It leads to the risks for water supply as well as<br />
negative impacts on socio-economic activities in Binh Chanh, Nha Be, and<br />
Can Gio districts. Thereby, studying and assessing vulnerability to SI of<br />
related sectors need carrying out, providing a basic for planning suitable<br />
coping solutions, especially in the context of climate change.<br />
Key words: Saltwater, Climate change, Salinity.<br />
Nhận bài ngày 04 tháng 7 năm 2017<br />
Hoàn thiện ngày 28 tháng 8 năm 2017<br />
Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 9 năm 2017<br />
1<br />
Địa chỉ: Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học quốc gia TP.HCM);<br />
2<br />
Viện Khí tượng Thuỷ văn Hải văn và Môi trường;<br />
3<br />
Viện Nhiệt đới môi trường.<br />
*<br />
Email:anhkiet.moitruong@gmail.com.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 191<br />